mradermacher/Llama3-ViettelSolution-8B-GGUF
Updated
•
317
text
stringlengths 199
386k
| id
stringlengths 18
18
| domain
stringclasses 25
values |
---|---|---|
Internet Society hay ISOC là một tổ chức quốc tế hoạt động phi lợi nhuận, phi chính phủ và bao gồm các thành viên có trình độ chuyên ngành. Tổ chức này chú trọng đến: tiêu chuẩn, giáo dục và các vấn đề về chính sách. Với trên 145 tổ chức thành viên và 65.000 thành viên cá nhân, ISOC bao gồm những con người cụ thể trong cộng đồng Internet. Mọi chi tiết có thể tìm thấy tại website của ISOC.
Internet Society nằm ở gần thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ và Geneva, Thụy Sĩ. Số hội viên của nó bao gồm hơn 145 tổ chức thành viên và hơn 65.000 cá nhân. Thành viên còn có thể tự lập một chi nhánh của tổ chức tùy theo vị trí hoặc sở thích. Hiện nay tổ chức có tới 90 chi nhánh trên toàn thế giới.
Nhiệm vụ và mục đích hoạt động
Bảo đảm, cổ vũ cho sự phát triển, mở rộng và sử dụng Internet được thuận lợi nhất cho mọi người trên toàn thế giới.
Xem thêm
Lịch sử Internet
Tham khảo
Liên kết ngoài
ISOC Việt Nam
IETF and the Internet Society - Về Internet Engineering Task Force và ISOC, bài của Vint Cerf 18/7/1995
L'Association Internationale de Lutte Contre la Cybercriminalité bản lưu
Public Interest Registry
Internet
Tổ chức quốc tế
Tổ chức phi lợi nhuận
Tiêu chuẩn Internet
Khởi đầu năm 1992
Quản lý Internet | VI_open-0000000000 | Internet_and_Telecom |
Tế bào là một đơn vị cấu trúc cơ bản có chức năng sinh học của sinh vật sống. Tế bào là đơn vị nhỏ nhất của sự sống có khả năng phân chia độc lập, và các tế bào thường được gọi là "những viên gạch đầu tiên cấu tạo nên sự sống". Bộ môn nghiên cứu về các tế bào được gọi là sinh học tế bào.
Tế bào bao gồm tế bào chất bao quanh bởi màng tế bào, trong đó có nhiều phân tử sinh học như protein và axit nucleic. Các sinh vật sống có thể được phân thành đơn bào (có một tế bào, bao gồm vi khuẩn) hoặc đa bào (bao gồm cả thực vật và động vật). Trong khi số lượng tế bào trong các thực vật và động vật ở các loài là khác nhau, thì cơ thể con người lại có hơn 10 nghìn tỷ (1012) tế bào. Phần lớn tế bào động vật và thực vật chỉ có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi, với kích thước từ 1 đến 100 micromét.
Tế bào được phát hiện bởi Robert Hooke vào năm 1665, người đã đặt tên cho các đơn vị sinh học của nó. Học thuyết tế bào, lần đầu tiên được nghiên cứu vào năm 1839 của Matthias Jakob Schleiden và Theodor Schwann, phát biểu rằng tất cả các sinh vật sống được cấu tạo bởi một hay nhiều tế bào, rằng các tế bào là đơn vị cơ bản tạo nên cấu trúc và chức năng của các cơ quan, tổ chức sinh vật sống, rằng tất cả các tế bào đến từ các tế bào đã tồn tại trước đó, và các tế bào đều chứa thông tin di truyền cần thiết để điều hòa chức năng tế bào và truyền thông tin đến các thế hệ tế bào tiếp theo. Các tế bào xuất hiện trên trái Đất khoảng 4 tỷ năm trước.
Tổng quan về tế bào
Các đặc tính của tế bào
Mỗi tế bào là một hệ thống mở, tự duy trì và tự sản xuất: tế bào có thể thu nhận chất dinh dưỡng, chuyển hóa các chất này thành năng lượng, tiến hành các chức năng chuyên biệt và sản sinh thế hệ tế bào mới nếu cần thiết. Mỗi tế bào chứa một bản mật mã riêng hướng dẫn các hoạt động trên.
Mọi tế bào đều có một số khả năng sau:
Sinh sản thông qua phân bào.(sinh sản vô tính )
Trao đổi chất tế bào bao gồm thu nhận các vật liệu thô, chế biến thành các thành phần cần thiết cho tế bào, sản xuất các phân tử mang năng lượng và các sản phẩm phụ. Để thực hiện được các chức năng của mình, tế bào cần phải hấp thu và sử dụng được nguồn năng lượng hóa học dự trữ trong các phân tử hữu cơ. Năng lượng này được giải phóng trong các con đường trao đổi chất.
Tổng hợp các protein, đây là những phân tử đảm nhiệm những chức năng cơ bản của tế bào, ví dụ như enzyme. Một tế bào động vật thông thường chứa khoảng 10.000 loại protein khác nhau.
Đáp ứng với các kích thích, hoặc thay đổi của môi trường bên trong và bên ngoài như những thay đổi về nhiệt độ, pH hoặc nguồn dinh dưỡng.
Di chuyển các túi tiết.
Các dạng tế bào
Người ta có thể phân loại tế bào dựa vào khả năng có thể tồn tại độc lập hay là không. Các sinh vật có thể bao gồm chỉ một tế bào (gọi là sinh vật đơn bào) thường có khả năng sống độc lập mặc dù có thể hình thành các khuẩn lạc. Ngoài ra, sinh vật cũng có thể bao gồm nhiều tế bào (sinh vật đa bào) thì mỗi tế bào được biệt hóa và thường không thể sống sót khi bị tách rời. Trong cơ thể con người có đến 220 loại tế bào và mô khác nhau.
Nếu xét về cấu trúc nội bào, các tế bào có thể chỉ làm 2 dạng chính.
Tế bào sinh vật nhân sơ thường có cấu trúc đơn giản, chỉ thấy ở sinh vật đơn bào hoặc tập đoàn đơn bào. Trong hệ thống phân loại 3 giới, các sinh vật nhân sơ là thuộc giới cổ khuẩn và Eubacteria.
Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường chứa các bào quan có màng riêng. Sinh vật đơn bào nhân chuẩn cũng rất đa dạng nhưng chủ yếu là sinh vật đa bào. Tế bào eukyryote bào gồm các sinh vật là động vật, thực vật và nấm.
Các thành phần tế bào
Mọi tế bào (bất kể sinh vật nhân chuẩn hay nhân sơ) đều có màng tế bào hay màng sinh chất, dùng để bao bọc tế bào, cách biệt thành phần nội bào với môi trường xung quanh, điều khiển nghiêm ngặt sự vận chuyển vào và ra của các chất, duy trì điện thế màng và nồng độ các chất bên trong và bên ngoài màng. Bên trong màng là một khối tế bào chất đặc (dạng vật chất chiếm toàn bộ thể tích tế bào). Mọi tế bào đều có các phân tử DNA, vật liệu di truyền quan trọng và các phân tử RNA tham gia trực tiếp quá trình tổng hợp nên các loại protein khác nhau, trong đó có các enzyme. Bên trong tế bào, vào mỗi thời điểm nhất định tế bào tổng hợp nhiều loại phân tử sinh học khác nhau. Phần dưới đây sẽ miêu tả ngắn ngọn các thành phần cơ bản của tế bào cũng như chức năng của chúng.
Màng tế bào - Tấm áo ngoài
Bài chính: Màng tế bào
Vỏ bọc bên ngoài của một tế bào sinh vật nhân chuẩn gọi là màng sinh chất. Màng này cũng có ở các tế bào sinh vật nhân sơ nhưng được gọi là màng tế bào. Màng có chức năng bao bọc và phân tách tế bào với môi trường xung quanh. Màng được cấu thành bởi một lớp lipid kép và các protein. Các phân tử protein hoạt động như các kênh vận chuyển và bơm được nằm khảm vào lớp lipid một cách linh động (có thể di chuyển tương đối).
Bộ khung tế bào - Hệ vận động
Bài chính: Bộ khung tế bào
Bộ khung tế bào là một thành phần quan trọng, phức tạp và linh động của tế bào.nó là hệ thống mạng sợi và ống protein (vi ống, vi sợi, sợi trung gian đan chéo nhau). Nó cấu thành và duy trì hình dáng tế bào; là các điểm bám cho các bào quan; hỗ trợ quá trình thực bào (tế bào thu nhận các chất bên ngoài); và cử động các phần tế bào trong quá trình sinh trưởng và vận động. Các protein tham gia cấu thành bộ khung tế bào gồm nhiều loại và có chức năng đa dạng như định hướng, neo bám, phát sinh các tấm màng.
Tế bào chất - Không gian thực hiện chức năng tế bào
Bài chính: Tế bào chất
Bên trong các tế bào là một không gian chứa đầy dịch thể gọi là tế bào chất (cytoplasm). Nó bao hàm cả hỗn hợp các ion, chất dịch bên trong tế bào và cả các bào quan. Các bào quan bên trong tế bào chất đều có hệ thống màng sinh học để phân tách với khối dung dịch này. Chất nguyên sinh (cytosol) là để chỉ riêng phân dịch thể, chứ không có các bào quan.
Đối với các sinh vật nhân sơ, tế bào chất là một thành phần tương đối tự do. Tuy nhiên, tế bào chất trong tế bào sinh vật nhân chuẩn thường chứa rất nhiều bào quan và bộ khung tế bào. Chất nguyên sinh thường chứa các chất dinh dưỡng hòa tan, phân cắt các sản phẩm phế liệu, và dịch chuyển vật chất trong tế bào tạo nên hiện tượng dòng chất nguyên sinh. Nhân tế bào thường nằm bên trong tế bào chất và có hình dạng thay đổi khi tế bào di chuyển. Tế bào chất cũng chứa nhiều loại muối khác nhau, đây là dạng chất dẫn điện tuyệt vời để tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động của tế bào. Môi trường tế bào chất và các bào quan trong nó là yếu tố sống còn của một tế bào.
Vật liệu di truyền - Yếu tố duy trì thông tin giữa các thế hệ
Vật liệu di truyền là các phân tử nucleic acid (DNA và rRNA). Hầu hết các sinh vật sử dụng DNA để lưu trữ dài hạn thông tin di truyền trong khi chỉ một vài virus dùng RNA cho mục đích này. Thông tin di truyền của sinh vật chính là mã di truyền quy định tất cả protein cần thiết cho mọi tế bào của cơ thể. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây cho thấy có thể một số RNA cũng được sử dụng như là một bản lưu đối với một số gen đề phòng sai hỏng.
Ở các sinh vật nhân sơ, vật liệu di truyền là một phân tử DNA dạng vòng đơn giản. Phân tử này nằm ở một vùng tế bào chất chuyên biệt gọi là vùng nhân. Tuy nhiên, đối với các sinh vật nhân chuẩn, phân tử DNA được bao bọc bởi các phân tử protein tạo thành cấu trúc nhiễm sắc thể, được lưu giữ trong nhân tế bào (với màng nhân bao bên ngoài). Mỗi tế bào thường chứa nhiều nhiễm sắc thể (số lượng nhiễm sắc thể trong mỗi tế bào là đặc trưng cho loài). Ngoài ra, các bào quan như ty thể và lục lạp đều có vật liệu di truyền riêng của mình (xem thêm thuyết nội cộng sinh).
Ví dụ, một tế bào người gồm hai bộ gen riêng biệt là bộ gen của nhân và bộ gen của ty thể. Bộ gene nhân (là thể lưỡng bội) bao gồm 46 phân tử DNA mạch thẳng tạo thành các nhiễm sắc thể riêng biệt. Bộ gene ty thể là phân tử DNA mạch vòng, khá nhỏ và chỉ mã hóa cho một vài protein quan trọng.
Các bào quan
Bài chính: Bào quan
Cơ thể con người cấu tạo từ nhiều cơ quan như tim, phổi, thận. Mỗi cơ quan đảm nhiệm một chức riêng. Các tế bào thường chứa những cơ quan nhỏ gọi là bào quan, được thích nghi và chuyên hóa cho một hoặc một vài chức năng sống nhất định. Các bào quan thường chỉ có ở các tế bào sinh vật nhân chuẩn và thường có màng bao bọc.
Nhân tế bào - trung tâm tế bào: Nhân tế bào là bào quan tối quan trọng trong tế bào sinh vật nhân chuẩn. Nó chứa các nhiễm sắc thể của tế bào, là nơi diễn ra quá trình tự nhân đôi DNA và tổng hợp RNA. Nhân tế bào có dạng hình cầu và được bao bọc bởi một lớp màng kép gọi là màng nhân. Màng nhân dùng để bao ngoài và bảo vệ DNA của tế bào trước những phân tử có thể gây tổn thương đến cấu trúc hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của DNA. Trong quá trình hoạt động, phân tử DNA được phiên mã để tổng hợp các phân tử RNA chuyên biệt, gọi là RNA thông tin (mRNA). Các RNA thông tin được vận chuyển ra ngoài nhân, để trực tiếp tham gia quá trình tổng hợp các protein đặc thù. Ở các loài sinh vật nhân sơ, các hoạt động của DNA tiến hành ngay tại tế bào chất (chính xác hơn là tại vùng nhân).
Ribosome - bộ máy sản xuất protein: Ribosome có cả trong tế bào sinh vật nhân chuẩn và sinh vật nhân sơ. Ribosome được cấu tạo từ các phân tử protein và RNA ribosome (rRNA). Đây là nơi thực hiện quá trình sinh tổng hợp protein từ các phân tử RNA thông tin. Quá trình này còn được gọi là dịch mã vì thông tin di truyền mã hóa trong trình tự phân tử DNA truyền qua trình tự RNA để quyết định trình tự amino acid của phân tử protein. Quá trình này cực kỳ quan trọng đối với tất cả mọi tế bào, do đó một tế bào thường chứa rất nhiều phân tử ribosome—thường hàng trăm thậm chí hàng nghìn phân tử.
Ty thể và lục lạp - các trung tâm năng lượng: Ty thể là bào quan trong tế bào sinh vật nhân chuẩn có hình dạng, kích thước và số lượng đa dạng và có khả năng tự nhân đôi. Ty thể có bộ gene riêng, độc lập với bộ gene trong nhân tế bào. Ty thể có vai trò cung cấp năng lượng cho mọi quá trình trao đổi chất của tế bào. Lục lạp cũng tương tự như ty thể nhưng kích thước lớn hơn, chúng tham gia chuyển hóa năng lượng mặt trời thành các chất hữu cơ (trong quá trình quang hợp). Lục lạp chỉ có ở các tế bào thực vật.
Mạng lưới nội chất và bộ máy Golgi - nhà phân phối và xử lý các đại phân tử:: Mạng lưới nội chất (ER) là hệ thống mạng vận chuyển các phân tử nhất định đến các địa chỉ cần thiết để cải biến hoặc thực hiện chức năng, trong khi các phân tử khác thì trôi nổi tự do trong tế bào chất. ER được chia làm hai loại: ER hạt (rám) và ER trơn (nhẵn). ER hạt là do các ribosome bám lên bề mặt ngoài của nó, trong khi ER trơn thì không có ribosome. Quá trình dịch mã trên các ribosome của ER hạt thường để tổng hợp các protein tiết (protein xuất khẩu). Các protein tiết thường được vận chuyển đến phức hệ Golgi để thực hiện một số cải biến, đóng gói và vận chuyển đến các vị trí khác nhau trong tế bào. ER trơn là nơi tổng hợp lipid, giải độc và bể chứa calcium.
Lysosome và peroxisome - hệ tiêu hóa của tế bào: Lysosome và peroxisome thường được ví như hệ thống xử lý rác thải của tế bào. Hai bào quan này đều dạng cầu, màng đơn và chứa nhiều enzyme tiêu hóa. Ví dụ, lysosome có thể chứa vài chục enzyme phân huỷ protein, nucleic acid và polysacharide mà không gây hại cho các quá trình khác của tế bào khi được bao bọc bởi lớp màng tế bào.
Giải phẫu tế bào
Tế bào sinh vật nhân sơ
Sinh vật nhân sơ là nhóm tế bào không có màng nhân. Đây là đặc điểm chính để phân biệt với các tế bào sinh vật nhân chuẩn. Sinh vật nhân sơ cũng không có các bào quan và cấu trúc nội bào điển hình của tế bào sinh vật nhân chuẩn. Hầu hết các chức năng của các bào quan như ty thể, lục lạp, bộ máy Golgi được tiến hành trên màng sinh chất. Tế bào sinh vật nhân sơ có 3 vùng cấu trúc chính là:
1. Tiên mao (flagella), tiêm mao, hay lông nhung (pili) - các protein bám trên bề mặt tế bào;
2. Vỏ tế bào bao gồm capsule, thành tế bào và màng sinh chất;
3. Vùng tế bào chất có chứa Bộ gene, các ribosome và các thể vẩn (inclusion body).
Các đặc trưng:
Tế bào chất của sinh vật nhân sơ là phần dịch lỏng chiếm hầu hết thể tích tế bào, khuếch tán vật chất và chứa các hạt ribosome nằm tự do trong tế bào.
Màng sinh chất là lớp phospholipid kép phân tách phần tế bào chất với môi trường xung quanh. Màng sinh học này có tính bán thấm, hay còn gọi là thấm có chọn lọc.
Hầu hết các tế bào sinh vật nhân sơ đều có thành tế bào (trừ Mycoplasma, Thermoplasma (archae), và Planctomycetales. Chúng được cấu tạo từ peptidoglycan và hoạt động như một rào cản phụ để chọn lọc những chất vào ra tế bào. Thành tế bào cũng giúp vi khuẩn giữ nguyên hình dạng và không bị tác động của áp suất thẩm thấu trong môi trường nhược trương.
Nhiễm sắc thể của tế bào sinh vật nhân sơ thường là một phân tử DNA dạng vòng (trừ vi khuẩn Borrelia burgdorferi gây bệnh Lyme). Mặc dù không phải có cấu trúc nhân hoàn chỉnh, DNA được cô đặc trong hạch nhân. Tế bào sinh vật nhân sơ còn chứa những cấu trúc DNA ngoài nhiễm sắc thể gọi là plasmid, nó cũng có dạng vòng nhưng nhỏ hơn DNA nhiễm sắc thể. Trên các plasmid thường chứa các gene có chức năng bổ sung, ví dụ kháng sinh.
Tế bào sinh vật nhân sơ mang các tiên mao giúp tế bào di chuyển chủ động trong môi trường.
Tế bào sinh vật nhân chuẩn
Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường lớn gấp 10 lần (về kích thước) so với tế bào sinh vật nhân sơ do đó gấp khoảng 1000 lần về thể tích. Điểm khác biệt quan trọng giữa sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân chuẩn là tế bào sinh vật nhân chuẩn có các xoang tế bào được chia nhỏ do các lớp màng tế bào để thực hiện các hoạt động trao đổi chất riêng biệt. Trong đó, điều tiến bộ nhất là việc hình thành nhân tế bào có hệ thống màng riêng để bảo vệ các phân tử DNA của tế bào. Eukyryote là chữ Latin có nghĩa là có nhân thật sự. Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường có những cấu trúc chuyên biệt để tiến hành các chức năng nhất định, gọi là các bào quan.
Các đặc trưng gồm:
Tế bào chất của sinh vật nhân chuẩn thường không nhìn thấy những thể hạt như ở sinh vật nhân sơ vì rằng phần lớn ribosome của chúng được bám trên mạng lưới nội chất.
Màng tế bào cũng có cấu trúc tương tự như ở sinh vật nhân sơ tuy nhiên thành phần cấu tạo chi tiết lại khác nhau một vài điểm nhỏ. Chỉ một số tế bào sinh vật nhân chuẩn có thành tế bào.
Vật chất di truyền trong tế bào sinh vật nhân chuẩn thường gồm một hoặc một số phân tử DNA mạch thẳng, được cô đặc bởi các protein histone tạo nên cấu trúc nhiễm sắc thể. Mọi phân tử DNA được lưu giữ trong nhân tế bào với một lớp màng nhân bao bọc. Một số bào quan của sinh vật nhân chuẩn có chứa DNA riêng.
Một vài tế bào sinh vật nhân chuẩn có thể di chuyển nhờ tiêm mao hoặc tiên mao. Những tiên mao thường có cấu trúc phức tạp hơn so với sinh vật nhân sơ.
Các quá trình chức năng của tế bào
Sinh trưởng và trao đổi chất của tế bào
Giữa những lần phân bào, các tế bào thực hiện hàng loạt quá trình trao đổi chất nội bào nhằm duy trì sự tồn tại cũng như sinh trưởng của mình. Trao đổi chất là các quá trình mà tế bào xử lý hay chế biến các phân tử dinh dưỡng theo cách riêng của nó. Các quá trình trao đổi chất được chia làm 2 nhóm lớn:
1) Quá trình dị hóa (catabolism) nhằm phân huỷ các phân tử hữu cơ phức tạp để thu nhận năng lượng (dưới dạng ATP) và lực khử;
2) Quá trình đồng hóa (anabolism) sử dụng năng lượng và lực khử để xây dựng các phân tử hữu cơ phức tạp, đặc thù và cần thiết.
Một trong các con đường trao đổi chất quan trọng là đường phân (glycolysis), con đường này không cần oxy. Mỗi một phân tử glucose trải qua con đường này sẽ tạo thành 4 phân tử ATP và đây là phương thức thu nhận năng lượng chính của các vi khuẩn kị khí.
Đối với các sinh vật hiếu khí, các phân tử pyruvat, sản phẩm của đường phân, sẽ tham gia vào chu trình Kreb (hay còn gọi là chu trình TCA) để phân huỷ hoàn toàn thành CO2, đồng thời thu nhận thêm nhiều ATP. Ở sinh vật nhân chuẩn, chu trình TCA tiến hành trong ty thể trong khi sinh vật nhân sơ lại tiến hành ở ngay tế bào chất.
Hình thành các tế bào mới
Bài chính: Phân bào
Phân bào là quá trình sinh sản từ một tế bào (gọi là tế bào mẹ) phân chia thành hai tế bào non. Đây là cơ chế chính của quá trình sinh trưởng của sinh vật đa bào và là hình thức sinh sản của sinh vật đơn bào. Những tế bào sinh vật nhân sơ phân chia bằng hình thức phân cắt hoặc nảy chồi (budding). Tế bào sinh vật nhân chuẩn thì sử dụng hình thức phân bào là nguyên phân (mitosis) (một hình thức phân bào có tơ). Những tế bào lưỡng bội thì có thể tiến hành giảm phân để tạo ra tế bào đơn bội. Những tế bào đơn bội đóng vai trò giao tử trong quá trình thụ tinh để hình thành hợp tử (lưỡng bội). Trong phân bào, quá trình tự nhân đôi DNA (dẫn đến nhân đôi nhiễm sắc thể) đóng vai trò cực kỳ quan trọng và thường diễn ra tại kỳ trung gian giữa các lần phân chia.
Sinh tổng hợp protein
Bài chính: Sinh tổng hợp protein
Sinh tổng hợp protein là quá trình tế bào tổng hợp những phân tử protein đặc trưng và cần thiết cho hoạt động sống của mình. Quá trình phiên mã là quá trình tổng hợp những phân tử RNA thông tin dựa trên trình tự khuôn của DNA. Trên khuôn RNA thông tin mới được tạo ra, một phân tử protein sẽ được tạo thành nhờ quá trình dịch mã.
Bộ máy tế bào chịu trách nhiệm thực hiện quá trình tổng hợp protein là những ribosome. Ribosome được cấu từ những phân tử RNA ribosome và khoảng 80 loại protein khác nhau. Khi các tiểu đơn vị ribosome liên kết với phân tử RNA thông tin thì quá trình dịch mã được tiến hành. Khi đó, ribosome sẽ cho phép một phân tử RNA vận chuyển (tRNA) mang một loại amino acid đặc trưng đi vào. RNA vận chuyển này bắt buộc phải có bộ ba đối mã có trình tự bổ sung với bộ ba mã sao trên RNA thông tin. Các amino acid lần lượt tương ứng với trình tự các bộ ba nucleotide trên RNA thông tin sẽ liên kết với nhau để tạo thành một chuỗi polypeptide.
Nguồn gốc tế bào
Bài chính: Nguồn gốc sự sống
Nguồn gốc tế bào cũng chính là nguồn gốc sự sống, và là những bước quan trọng nhất trong quá trình tiến hóa sự sống. Sự xuất hiện tế bào chính là bước đánh dấu chuyển biến từ thế giới hóa học vô sinh để bắt đầu sự sống sinh vật.
Tế bào đầu tiên
Sự xuất hiện tế bào đầu tiên (giọt coaseva) được đánh dấu bởi việc hình thành lớp màng tế bào bao quanh những phân tử nucleic acid. Điều này tạo ra hai lợi thế chọn lọc là:
Bảo vệ nguyên sinh chất bên trong
Sử dụng các thành quả từ các hoạt động hóa sinh do các protein/enzyme do nucleic acid mã hóa
Lịch sử
1632-1723: Antony van Leeuwenhoek tự mình tìm cách mài các thấu kính để sáng tạo ra kính hiển vi. Ông đã vẽ lại các protozoa như Vorticella trong nước mưa cũng như vi khuẩn trong miệng mình.
1665: Robert Hooke đã phát hiện các tế bào trong nút bấc, và sau đó là trong các mô thực vật sống bằng kính hiển vi.
... Tôi có thể nhận ra một cách rõ ràng là tất cả đều đục lỗ và xốp, giống như một tổ ong... những lỗ chân lông hoặc tế bào này, không sâu lắm, nhưng bao gồm rất nhiều hộp nhỏ... – Hooke miêu tả những quan sát của mình đối với tiêu bản nút bấc.
1839: Theodor Schwann và Matthias Jakob Schleiden phát biểu nguyên lý rằng các thực vật và động vật được cấu thành từ tế bào, chứng tỏ các tế bào là đơn vị cấu trúc và phát triển của sinh vật, từ đó mà người ta xây dựng nên Học thuyết Tế bào.
Giả định cho rằng sự sống có thể bắt nguồn một cách tự phát (generatio spontanea) đã bị bác bỏ hoàn toàn qua chứng minh thực nghiệm của Louis Pasteur (1822-1895).
Rudolph Virchow phát biểu rằng các tế bào chỉ có thể được tạo ra do phân bào (omnis cellula ex cellula).
1931: Ernst Ruska lần đầu tiên thiết kế kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) tại Đại học Berlin. Đến năm 1953 ông đã phát minh kính hiển vi điện tử (EM) với độ phân giải gấp đôi kính hiển vi quang học, từ đó phát hiện ra các bào quan.
1953: Watson và Crick đã đề xuất mô hình cấu trúc xoắn kép của phân tử DNA vào ngày 28 tháng Hai.
1981: Lynn Margulis công bố ấn phẩm Symbiosis in Cell Evolution (Sự Cộng sinh trong Tiến hóa Tế bào) xem chi tiết tại thuyết nội cộng sinh.
Xem thêm
So sánh tế bào động vật và thực vật
So sánh tế bào Eukaryota và Prokaryota
Độc học tế bào
Tế bào thực vật
Tế bào gốc
Sinh vật nhân chuẩn
Liên kết ngoài
Hướng dẫn về các hoạt động sống của tế bào
Tế bào - một thành phố sinh học.
Hình động của tế bào
Journal of Cell Biology
Ghi chú
Tham khảo
Interactive Visual of Different Types of Cells
Inside the Cell
Virtual Cell's Educational Animations
The Inner Life of A Cell , a flash video showing what happens inside of a cell
The Virtual Cell
Cells Alive!
Journal of Cell Biology
The Biology Project > Cell Biology
Centre of the Cell online
The Image & Video Library of The American Society for Cell Biology , a collection of peer-reviewed still images, video clips and digital books that illustrate the structure, function and biology of the cell.
Gall JG, McIntosh JR, eds (2001). Landmark Papers in Cell Biology . Bethesda, MD and Cold Spring Harbor, NY: The American Society for Cell Biology and Cold Spring Harbor Laboratory Press; 2001. Commentaries and links to original research papers published in the ASCB Image & Video Library
Sách giáo khoa
Chú thích
Sinh học tế bào | VI_open-0000000001 | Science |
Quẻ Phong Thiên Tiểu Súcđồ hình |||:|| còn gọi là quẻ Tiểu Súc (小畜 xiảo chũ), là quẻ thứ 09 trong Kinh Dịch.
Nội quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天).
Ngoại quái là ☴ (:|| 巽 xũn) Tốn hay Gió (風).
Văn Vương viết thoán từ:
Tiểu Súc: Hanh. Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao (小畜: 亨. 密雲不雨. 自我西郊).
Chu Công viết hào từ:
Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát.
Cửu nhị: khiên phục, cát.
Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục.
Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.
Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân.
Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung.
Giải nghĩa: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tham khảo
Quẻ Kinh Dịch
en:List of I Ching hexagrams 1-32 | VI_open-0000000002 | Books_and_Literature |
Google LLC () là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, chuyên về các dịch vụ và sản phẩm liên quan đến Internet, bao gồm các công nghệ quảng cáo trực tuyến, công cụ tìm kiếm, điện toán đám mây, phần mềm và phần cứng. Đây được coi là một trong những công ty công nghệ Big Four, cùng với Amazon, Apple và Facebook.
Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đã có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Họ cùng nhau sở hữu khoảng 14% cổ phần và kiểm soát 56% quyền biểu quyết của cổ đông thông qua cổ phiếu ưu đãi. Họ đã hợp nhất Google thành một công ty tư nhân vào ngày 4 tháng 9 năm 1998. Một đợt chào bán công khai lần đầu (IPO) diễn ra vào ngày 19 tháng 8 năm 2004 và Google chuyển đến trụ sở chính tại Mountain View, California với tên Googleplex. Vào tháng 8 năm 2015, Google đã công bố kế hoạch tổ chức lại công ty với tư cách là một tập đoàn có tên là Alphabet Inc. Google là công ty con hàng đầu của Alphabet và sẽ tiếp tục là công ty ô dù vì lợi ích Internet của Alphabet. Sundar Pichai được bổ nhiệm làm CEO của Google, thay thế Larry Page trở thành CEO của Alphabet.
Sự phát triển nhanh chóng của công ty kể từ khi thành lập đã kích hoạt một chuỗi các sản phẩm, mua lại để sáp nhập và hợp tác ngoài công cụ tìm kiếm cốt lõi của Google (Google Tìm kiếm). Nó cung cấp các dịch vụ được thiết kế cho công việc và năng suất (Google Docs, Google Sheets và Google Slides), email (Gmail/Inbox), lập lịch và quản lý thời gian (Lịch Google), lưu trữ đám mây (Google Drive), mạng xã hội (Google+), nhắn tin và trò chuyện video trực tiếp (Google Allo, Duo, Hangouts), dịch ngôn ngữ (Google Dịch), lập bản đồ và điều hướng (Google Maps, Waze, Google Earth, Chế độ xem phố), chia sẻ video (YouTube), ghi chú (Google Keep) và tổ chức và chỉnh sửa ảnh (Google Ảnh). Công ty dẫn đầu sự phát triển của hệ điều hành di động Android, trình duyệt web Google Chrome và Chrome OS, một hệ điều hành nhẹ dựa trên trình duyệt Chrome. Google đã ngày càng chuyển sang phần cứng; từ năm 2010 đến 2015, nó hợp tác với các nhà sản xuất điện tử lớn trong việc sản xuất các thiết bị Nexus của mình và đã phát hành nhiều sản phẩm phần cứng vào tháng 10 năm 2016, bao gồm điện thoại thông minh Google Pixel, loa thông minh Google Home, bộ định tuyến không dây Google Wifi và Daydream-tai nghe thực tế ảo. Google cũng đã thử nghiệm trở thành nhà cung cấp dịch vụ Internet (Google Fiber, Project Fi và Google Station).
Google và YouTube là hai trang web được truy cập nhiều nhất trên thế giới, tiếp theo là Facebook và Google X cũng là công cụ tìm kiếm, ứng dụng bản đồ và định vị, nhà cung cấp email, bộ ứng dụng văn phòng, nền tảng chia sẻ video, nhà cung cấp bộ nhớ đám mây và ảnh, hệ điều hành di động, trình duyệt web, ML framework và nhà cung cấp trợ lý ảo AI lớn nhất thế giới khi đo lường theo thị phần. Trên danh sách các thương hiệu có giá trị nhất, Google được Forbes xếp hạng thứ hai và Interbrand xếp hạng thứ tư.
Lịch sử
Những năm đầu
thế=|trái|nhỏ|Larry Page và Sergey Brin năm 2003
Google bắt đầu vào tháng 1 năm 1996 như một dự án nghiên cứu của Larry Page và Sergey Brin khi họ đều là những nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Dự án ban đầu có sự tham gia của một "người đồng sáng lập thứ ba" không chính thức, Scott Hassan, là lập trình viên chính ban đầu đã viết phần lớn mã cho công cụ tìm kiếm Google Search ban đầu, nhưng ông đã rời đi trước khi Google được thành lập chính thức như một công ty; Hassan tiếp tục theo đuổi sự nghiệp robot và thành lập công ty Willow Garage vào năm 2006.
Trong khi các công cụ tìm kiếm thông thường xếp hạng kết quả bằng cách đếm số lần các cụm từ tìm kiếm xuất hiện trên trang, họ đã đưa ra giả thuyết về một hệ thống tốt hơn có thể phân tích mối quan hệ giữa các trang web. Họ gọi thuật toán này là PageRank; nó xác định mức độ liên quan của một trang web bằng số lượng trang và tầm quan trọng của các trang đó liên kết ngược với trang web ban đầu. Page đã nói về ý tưởng của mình với Hassan, người bắt đầu viết mã để thực hiện ý tưởng của Page.
Ban đầu Larry Page và Sergey Brin đặt biệt hiệu cho công cụ tìm kiếm mới là "BackRub", bởi vì hệ thống kiểm tra các liên kết ngược để ước tính tầm quan trọng của một trang web. Scott Hassan và Alan Steremberg được Page và Brin trích dẫn là những người đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển Google. Rajeev Motwani và Terry Winograd sau đó đã đồng tác giả với Page và Brin trong bài báo đầu tiên về dự án, mô tả PageRank và nguyên mẫu ban đầu của công cụ tìm kiếm Google, được xuất bản vào năm 1998. Héctor García-Molina và Jeff Ullman cũng được trích dẫn là những người đóng góp cho dự án. PageRank chịu ảnh hưởng của một thuật toán xếp hạng trang và xếp hạng trang tương tự trước đây được sử dụng cho RankDex, được phát triển bởi Robin Li vào năm 1996, với bằng sáng chế PageRank của Larry Page bao gồm trích dẫn bằng sáng chế RankDex trước đó của Li; Li sau đó tiếp tục tạo ra công cụ tìm kiếm Baidu của Trung Quốc.
Cuối cùng, họ đã đổi tên thành Google; tên của công cụ tìm kiếm là một lỗi đánh máy của từ googol, một số rất lớn được viết là 10100được chọn để biểu thị rằng công cụ tìm kiếm được dự định cung cấp một lượng lớn thông tin.
thế=Google's homepage in 1998|nhỏ|Trang chủ ban đầu của Google có thiết kế đơn giản vì những người sáng lập công ty có ít kinh nghiệm trong HTML, ngôn ngữ đánh dấu được sử dụng để thiết kế các trang web.
Google ban đầu được tài trợ bởi khoản đầu tư 100.000 đô la vào tháng 8 năm 1998 từ Andy Bechtolsheim, đồng sáng lập Sun Microsystems. Khoản đầu tư ban đầu này đã trở thành động lực để thành lập công ty để có thể sử dụng số tiền đó. PPage và Brin ban đầu đã tiếp cận David Cheriton để xin lời khuyên vì ông có một văn phòng gần đó ở Stanford, và họ biết ông có kinh nghiệm khởi nghiệp, gần đây đã bán công ty ông đồng sáng lập, Granite Systems, cho Cisco với giá 220 triệu USD. David đã sắp xếp một cuộc gặp mặt giữa Page và Brin và đồng sáng lập Granite của ông là Andy Bechtolsheim. Cuộc họp được ấn định lúc 8 giờ sáng tại hiên nhà trước nhà của David ở Palo Alto và phải ngắn gọn vì Andy có cuộc họp khác tại Cisco, nơi ông hiện làm việc sau khi mua lại, lúc 9 giờ sáng. Andy đã nhanh chóng thử nghiệm bản demo của trang web, thích những gì ông thấy và sau đó quay lại xe của mình để lấy tấm séc. David Cheriton sau đó cũng tham gia với khoản đầu tư 250.000 USD.
Google đã nhận được tiền từ hai nhà đầu tư thiên thần khác vào năm 1998: Jeff Bezos, người sáng lập Amazon.com, và Ram Shriram, một doanh nhân. Page và Brin lần đầu tiên tiếp cận Shriram, một nhà đầu tư mạo hiểm, để xin tài trợ và tư vấn, và Shriram đã đầu tư 250.000 USD vào Google vào tháng 2 năm 1998. Shriram biết Bezos vì Amazon đã mua lại Junglee, nơi Shriram là chủ tịch. Chính Shriram là người giới thiệu Google cho Bezos. Bezos đã yêu cầu Shriram sắp xếp một cuộc gặp mặt với những người sáng lập Google và họ đã gặp nhau sáu tháng sau khi Shriram đầu tư vào Google, khi Bezos và vợ đang trong chuyến du lịch đến Bay Area. Vòng gọi vốn ban đầu của Google đã chính thức đóng lại, nhưng vị thế CEO của Amazon của Bezos đã đủ để thuyết phục Page và Brin mở rộng vòng gọi vốn và chấp nhận khoản đầu tư của ông.
Với sự tài trợ từ những nhà đầu tư ban đầu, bạn bè và gia đình, Google đã huy động được khoảng 1 triệu đô la Mỹ, cho phép họ mở văn phòng đầu tiên ở Menlo Park, California. Craig Silverstein, một nghiên cứu sinh tiến sĩ khác tại Stanford, được thuê làm nhân viên đầu tiên. Sau một số khoản đầu tư nhỏ bổ sung vào cuối năm 1998 và đầu năm 1999, một vòng gọi vốn mới trị giá 25 triệu đô la Mỹ đã được công bố vào ngày 7 tháng 6 năm 1999, với các nhà đầu tư lớn bao gồm các công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins và Sequoia Capital. Ban đầu, cả hai công ty đều do dự về việc đầu tư chung vào Google, vì mỗi công ty đều muốn nắm giữ tỷ lệ kiểm soát lớn hơn đối với công ty. Tuy nhiên, Larry và Sergey đã khăng khăng nhận đầu tư từ cả hai. Cuối cùng, cả hai công ty đầu tư đều đồng ý đầu tư chung 12,5 triệu đô la Mỹ mỗi công ty do họ tin vào tiềm năng lớn của Google và nhờ sự trung gian của các nhà đầu tư thiên thần trước đó là Ron Conway và Ram Shriram, những người có mối quan hệ với các công ty đầu tư.
Sự phát triển
Vào tháng 3 năm 1999, công ty chuyển văn phòng đến Palo Alto, California, nơi có trụ sở của một số công ty khởi nghiệp công nghệ nổi bật ở Silicon Valley. Năm sau, Google bắt đầu bán quảng cáo liên quan đến các từ khóa tìm kiếm, trái ngược với quan điểm ban đầu của Page và Brin về một công cụ tìm kiếm được tài trợ bởi quảng cáo. Để duy trì thiết kế trang gọn gàng, quảng cáo chỉ dựa trên văn bản. Vào tháng 6 năm 2000, Google được thông báo sẽ trở thành nhà cung cấp công cụ tìm kiếm mặc định cho Yahoo!, một trong những trang web phổ biến nhất thời bấy giờ, thay thế Inktomi.
thế=Google's first servers, showing lots of exposed wiring and circuit boards|nhỏ|Máy chủ sản xuất đầu tiên của Google
Năm 2003, sau khi đã phát triển vượt quá hai địa điểm khác, Google đã thuê lại một khu phức hợp văn phòng từ Silicon Graphics tại 1600 Amphitheatre Parkway ở Mountain View, California. Khu phức hợp này được biết đến với cái tên Googleplex, một từ ghép của từ googolplex, con số một theo sau bởi một googol số không. Ba năm sau, Google đã mua lại tài sản này từ SGI với giá 319 triệu USD. Đến thời điểm đó, tên "Google" đã trở thành một phần của ngôn ngữ hàng ngày, khiến động từ "google" được thêm vào Từ điển Merriam-Webster Collegiate và Từ điển Oxford English, với nghĩa là: "sử dụng công cụ tìm kiếm Google để tìm kiếm thông tin trên Internet". Lần đầu tiên động từ này được sử dụng trên truyền hình là trong tập phim Buffy the Vampire Slayer vào tháng 10 năm 2002.
Ngoài ra, vào năm 2001, các nhà đầu tư của Google cảm thấy cần có một bộ máy quản lý nội bộ mạnh mẽ và họ đã đồng ý thuê Eric Schmidt làm chủ tịch kiêm CEO của Google. Eric được đề xuất bởi John Doerr từ Kleiner Perkins. Ông đã cố gắng tìm kiếm một CEO mà Sergey và Larry sẽ chấp nhận trong vài tháng, nhưng họ đã từ chối một số ứng viên vì họ muốn giữ quyền kiểm soát công ty. Michael Moritz từ Sequoia Capital thậm chí còn đe dọa yêu cầu Google ngay lập tức trả lại khoản đầu tư 12,5 triệu đô la Mỹ của Sequoia nếu họ không thực hiện lời hứa thuê một giám đốc điều hành, điều đã được thực hiện bằng miệng trong các cuộc đàm phán đầu tư. Eric ban đầu cũng không hào hứng tham gia Google, vì tiềm năng đầy đủ của công ty vẫn chưa được công nhận rộng rãi vào thời điểm đó và vì ông đang bận rộn với trách nhiệm của mình tại Novell, nơi ông là CEO. Khi tham gia, Eric đã đồng ý mua 1 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi của Google như một cách thể hiện sự cam kết của mình và cung cấp nguồn vốn mà Google cần.
Đợt chào bán công khai ban đầu (IPO)
Vào ngày 19 tháng 8 năm 2004, Google đã trở thành một công ty đại chúng thông qua đợt Phát hành công khai lần đầu (IPO). Tại thời điểm đó, Larry Page, Sergey Brin và Eric Schmidt đã đồng ý làm việc cùng nhau tại Google trong 20 năm, cho đến năm 2024. Công ty đã chào bán 19.605.052 cổ phiếu với giá 85 USD/cổ phiếu. Cổ phiếu được bán theo định dạng đấu giá trực tuyến sử dụng hệ thống được xây dựng bởi Morgan Stanley và Credit Suisse, các nhà bảo lãnh cho thương vụ này. Việc bán được 1,67 tỷ USD đã mang lại cho Google giá trị vốn hóa thị trường hơn 23 tỷ USD.
trái|nhỏ|Eric Schmidt, CEO của Google từ năm 2001 đến năm 2011
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2006, Google đã mua lại YouTube với giá 1,65 tỷ USD cổ phiếu Google, Vào ngày 11 tháng 3 năm 2008, Google đã mua lại DoubleClick với giá 3,1 tỷ USD, mang lại cho Google các mối quan hệ có giá trị mà DoubleClick có với các nhà xuất bản web và các công ty quảng cáo. Đến năm 2011, Google đang xử lý khoảng 3 tỷ lượt tìm kiếm mỗi ngày. Để xử lý khối lượng công việc này, Google đã xây dựng 11 trung tâm dữ liệu trên toàn thế giới với hàng nghìn máy chủ trong mỗi trung tâm. Các trung tâm dữ liệu này cho phép Google xử lý khối lượng công việc thay đổi liên tục một cách hiệu quả hơn. Vào tháng 5 năm 2011, số lượng khách truy cập duy nhất hàng tháng đến Google lần đầu tiên vượt quá một tỷ.
Vào tháng 5 năm 2012, Google đã mua lại Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD, trong thương vụ mua lại lớn nhất của mình cho đến nay. Việc mua lại này được thực hiện một phần để giúp Google có được danh mục bằng sáng chế đáng kể của Motorola về điện thoại di động và công nghệ không dây, để giúp bảo vệ Google trong các tranh chấp bằng sáng chế đang diễn ra với các công ty khác, chủ yếu là Apple và Microsoft, và để cho phép Google tiếp tục cung cấp Android miễn phí.
2012 trở đi
Tháng 6 năm 2013, Google đã mua lại Waze với giá 966 triệu USD. Mặc dù Waze vẫn là một thực thể độc lập, nhưng các tính năng xã hội của nó, chẳng hạn như nền tảng vị trí do người dùng đóng góp, được cho là những sự tích hợp có giá trị giữa Waze và Google Maps, dịch vụ lập bản đồ của riêng Google.
Google công bố ra mắt một công ty mới tên là Calico vào ngày 19 tháng 9 năm 2013, do Arthur Levinson, chủ tịch của Apple Inc. lãnh đạo. Trong tuyên bố công khai chính thức, Page giải thích rằng công ty "sức khỏe và hạnh phúc" này sẽ tập trung vào "thách thức của lão hóa và các bệnh liên quan".
thế=|nhỏ|Lối vào tòa nhà nơi đặt trụ sở của Google và công ty con Deep Mind tại số 6 Quảng trường Pancras, London
Vào ngày 26 tháng 1 năm 2014, Google thông báo đã đồng ý mua lại DeepMind Technologies, một công ty tư nhân về trí tuệ nhân tạo có trụ sở tại London. Trang web tin tức công nghệ Recode cho biết công ty đã được mua với giá 400 triệu USD, nhưng không tiết lộ nguồn tin. Người phát ngôn của Google từ chối bình luận về giá cả. Việc mua lại DeepMind góp phần vào sự phát triển gần đây của Google trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và robot. Năm 2015, AlphaGo của DeepMind đã trở thành chương trình máy tính đầu tiên đánh bại một kỳ thủ chuyên nghiệp hàng đầu thế giới ở môn cờ vây. Theo báo cáo thường niên Best Global Brands của Interbrand, Google là thương hiệu có giá trị thứ hai trên thế giới (sau Apple Inc.) trong các năm 2013, 2014, 2015, và 2016, với giá trị được định giá 133 tỷ USD.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2015, Google thông báo kế hoạch tái cơ cấu các lợi ích khác nhau của mình thành một tập đoàn có tên Alphabet Inc. Google trở thành công ty con lớn nhất của Alphabet và là công ty mẹ của các lợi ích Internet của Alphabet. Sau khi hoàn thành việc tái cơ cấu, Sundar Pichai trở thành CEO của Google, thay thế Larry Page, người trở thành CEO của Alphabet.
nhỏ|Giám đốc điều hành hiện tại của Google, Sundar Pichai, với Thủ tướng Ấn Độ, Narendra Modi.
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2017, Google đã sa thải nhân viên James Damore sau khi anh ta phân phối một bản ghi nhớ khắp công ty, trong đó lập luận rằng thiên vị và "buồng vọng ý thức hệ của Google" đã làm mờ suy nghĩ của họ về sự đa dạng và hòa nhập, và rằng đó cũng là các yếu tố sinh học, không chỉ phân biệt đối xử, khiến cho phụ nữ trung bình ít quan tâm hơn nam giới ở các vị trí kỹ thuật. CEO Sundar Pichai của Google đã cáo buộc Damore vi phạm chính sách của công ty bằng cách "khuyến khích các định kiến giới tính có hại tại nơi làm việc của chúng tôi", và anh ta đã bị sa thải vào cùng ngày.
Từ năm 2018 đến năm 2019, căng thẳng giữa lãnh đạo công ty và nhân viên Google đã leo thang khi nhân viên phản đối các quyết định của công ty về quấy rối tình dục nội bộ, Dragonfly (một công cụ tìm kiếm của Trung Quốc bị kiểm duyệt) và Dự án Maven (trí tuệ nhân tạo máy bay không người lái quân sự), được coi là lĩnh vực tăng trưởng doanh thu cho công ty. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2018, The New York Times đã công bố bài báo phơi bày "Google đã bảo vệ Andy Rubin, 'Cha đẻ của Android' như thế nào". Sau đó, công ty thông báo rằng "48 nhân viên đã bị sa thải trong hai năm qua" vì quấy rối tình dục. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2018, hơn 20.000 nhân viên và nhà thầu của Google đã tổ chức một cuộc đình công toàn cầu để phản đối cách xử lý các khiếu nại quấy rối tình dục của công ty. Giám đốc điều hành Sundar Pichai được cho là ủng hộ các cuộc biểu tình. Sau đó vào năm 2019, một số công nhân đã cáo buộc công ty trả thù các nhà hoạt động nội bộ.
Vào ngày 19 tháng 3 năm 2019, Google tuyên bố sẽ tham gia thị trường trò chơi điện tử bằng việc ra mắt một nền tảng chơi game đám mây có tên là Google Stadia. Vào ngày 3 tháng 6 năm 2019, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ thông báo rằng họ sẽ điều tra Google về vi phạm luật chống độc quyền. Điều này dẫn đến việc đệ đơn kiện chống độc quyền vào tháng 10 năm 2020, với lý do công ty đã lạm dụng vị thế độc quyền trong thị trường tìm kiếm và quảng cáo tìm kiếm. Tháng 12 năm 2019, cựu giám đốc điều hành của PayPal, Bill Ready, trở thành giám đốc thương mại mới của Google. Vai trò của Ready sẽ không liên quan trực tiếp đến Google Pay.
Vào tháng 4 năm 2020, do đại dịch COVID-19, Google đã thông báo một số biện pháp cắt giảm chi phí. Các biện pháp này bao gồm giảm tốc độ tuyển dụng trong phần còn lại của năm 2020, ngoại trừ một số lĩnh vực chiến lược, điều chỉnh lại trọng tâm và tốc độ đầu tư vào các lĩnh vực như trung tâm dữ liệu và máy móc, cũng như tiếp thị và đi lại không cần thiết cho doanh nghiệp. Hầu hết nhân viên cũng đang làm việc tại nhà do đại dịch COVID-19 và thành công của nó thậm chí đã dẫn đến việc Google thông báo rằng họ sẽ chuyển đổi vĩnh viễn một số công việc của họ sang làm việc tại nhà.
Các sự cố mất điện của dịch vụ Google năm 2020 đã gián đoạn các dịch vụ của Google: một sự cố vào tháng 8 đã ảnh hưởng đến Google Drive cùng một số dịch vụ khác, một sự cố khác vào tháng 11 ảnh hưởng đến YouTube và sự cố thứ ba vào tháng 12 ảnh hưởng đến toàn bộ bộ ứng dụng Google. Tất cả ba sự cố đã được giải quyết trong vòng vài giờ. Năm 2021, Công đoàn Công nhân Alphabet được thành lập, bao gồm chủ yếu là nhân viên của Google. Vào tháng 1 năm 2021, Chính phủ Úc đã đề xuất luật pháp yêu cầu Google và Facebook phải trả tiền cho các công ty truyền thông để có quyền sử dụng nội dung của họ. Đáp lại, Google đã đe dọa đóng cửa quyền truy cập vào công cụ tìm kiếm của mình ở Úc. Vào tháng 3 năm 2021, Google được cho là đã trả 20 triệu đô la cho các cổng Ubisoft trên Google Stadia. Google đã chi "hàng chục triệu đô la" để có được các nhà phát hành lớn như Ubisoft và Take-Two mang một số trò chơi lớn nhất của họ lên Stadia.
Vào tháng 4 năm 2021, The Wall Street Journal đưa tin rằng Google đã chạy một chương trình kéo dài nhiều năm có tên là "Project Bernanke", sử dụng dữ liệu từ các cuộc đấu thầu quảng cáo trước đây để giành lợi thế so với các dịch vụ quảng cáo cạnh tranh. Điều này được tiết lộ trong các tài liệu liên quan đến vụ kiện chống độc quyền được đệ trình bởi 10 tiểu bang Hoa Kỳ chống lại Google vào tháng 12. Vào tháng 9 năm 2021, chính phủ Úc tuyên bố kế hoạch hạn chế khả năng bán quảng cáo mục tiêu của Google, với cáo buộc rằng công ty này có vị thế độc quyền trên thị trường, gây hại cho các nhà xuất bản, nhà quảng cáo và người tiêu dùng.
Năm 2022, Google bắt đầu chấp nhận các yêu cầu xóa số điện thoại, địa chỉ vật lý và địa chỉ email khỏi kết quả tìm kiếm của mình. Trước đó, công ty chỉ chấp nhận các yêu cầu xóa dữ liệu mật, chẳng hạn như số An sinh xã hội, số tài khoản ngân hàng và số thẻ tín dụng, chữ ký cá nhân và hồ sơ y tế. Ngay cả với chính sách mới, Google cũng chỉ có thể xóa thông tin khỏi một số nhưng không phải tất cả các truy vấn tìm kiếm. Công ty sẽ không xóa nội dung "có ích rộng rãi", chẳng hạn như các bài báo tin tức hoặc đã là một phần của hồ sơ công khai. Vào tháng 5 năm 2022, Google thông báo rằng công ty đã mua lại Raxium, một công ty khởi nghiệp phát triển và sản xuất công nghệ màn hình MicroLED có trụ sở tại California. Raxium sẽ tham gia nhóm Thiết bị và Dịch vụ của Google để hỗ trợ phát triển quang học vi mô, tích hợp monolithic và tích hợp hệ thống.
Vào đầu năm 2023, sau thành công của ChatGPT và lo ngại rằng Google đang tụt hậu trong cuộc đua AI, ban quản lý cấp cao của Google đã phát ra "code red" và "chỉ thị rằng tất cả các sản phẩm quan trọng nhất của mình - những sản phẩm có hơn một tỷ người dùng - phải kết hợp AI tổng hợp trong vòng vài tháng". Vào đầu tháng 5 năm 2023, Google đã công bố kế hoạch xây dựng thêm hai trung tâm dữ liệu ở Ohio. Các trung tâm này, sẽ được xây dựng tại Columbus và Lancaster, sẽ cung cấp năng lượng cho các công cụ của công ty, bao gồm công nghệ AI. Trung tâm dữ liệu này sẽ được bổ sung vào trung tâm đã hoạt động gần Columbus, nâng tổng số vốn đầu tư của Google vào Ohio lên hơn 2 tỷ USD.
Sản phẩm và dịch vụ
Công cụ tìm kiếm
Google Search là công cụ tìm kiếm phổ biến nhất hiện nay. Google lập chỉ mục hàng tỷ trang web để cho phép người dùng tìm kiếm thông tin họ mong muốn thông qua việc sử dụng từ khóa và toán tử. Theo nghiên cứu thị trường của comScore từ tháng 11 năm 2009, Google Search là công cụ tìm kiếm thống trị thị trường Hoa Kỳ, với thị phần 65,6%. Tháng 5 năm 2017, Google đã kích hoạt tab "Personal" mới trong Google Search, cho phép người dùng tìm kiếm nội dung trong các dịch vụ khác nhau của tài khoản Google của họ, bao gồm email từ Gmail và ảnh từ Google Photos.
Google đã ra mắt dịch vụ Google News vào năm 2002, một dịch vụ tự động tóm tắt các bài báo tin tức từ nhiều trang web khác nhau. Google cũng lưu trữ Google Books, một dịch vụ tìm kiếm văn bản có trong sách trong cơ sở dữ liệu của Google và hiển thị bản xem trước giới hạn hoặc toàn bộ sách khi được phép. Google đã mở rộng các dịch vụ tìm kiếm của mình để bao gồm mua sắm (ban đầu được ra mắt với tên Froogle vào năm 2002), tài chính (ra mắt năm 2006), và chuyến bay (ra mắt năm 2011).
Quảng cáo
Google kiếm tiền chủ yếu từ quảng cáo. Điều này bao gồm tiền bán ứng dụng, tiền mua hàng trong ứng dụng, tiền bán nội dung kỹ thuật số trên Google và YouTube, tiền cấp phép Android và tiền dịch vụ, bao gồm tiền sử dụng dịch vụ Google Cloud. Khoảng 46% lợi nhuận của Google đến từ việc người dùng nhấp vào quảng cáo (chi phí cho mỗi nhấp chuột), lên tới 109,652 tỷ USD vào năm 2017. Google có ba phương pháp quảng cáo chính là AdMob, AdSense và DoubleClick AdExchange. Ngoài các thuật toán của riêng mình để hiểu yêu cầu tìm kiếm, Google còn sử dụng công nghệ thu được từ DoubleClick để dự đoán sở thích của người dùng và hiển thị quảng cáo phù hợp với ngữ cảnh tìm kiếm và lịch sử của người dùng.
Năm 2007, Google ra mắt "AdSense for Mobile", tận dụng lợi thế của thị trường quảng cáo di động đang nổi lên. Google Analytics cho phép chủ sở hữu trang web theo dõi nơi và cách mọi người sử dụng trang web của họ, chẳng hạn như bằng cách kiểm tra tỷ lệ nhấp chuột cho tất cả các liên kết trên trang. Quảng cáo Google có thể được đặt trên các trang web của bên thứ ba trong một chương trình hai phần. Google Ads cho phép các nhà quảng cáo hiển thị quảng cáo của họ trong mạng nội dung Google, thông qua chương trình trả tiền cho mỗi nhấp chuột. Dịch vụ chị em, Google AdSense, cho phép chủ sở hữu trang web hiển thị các quảng cáo này trên trang web của họ và kiếm tiền mỗi khi quảng cáo được nhấp vào.
Dịch vụ tiêu dùng
Trên nền tảng web
Google cung cấp Gmail để gửi và nhận email, Google Calendar để quản lý thời gian và lịch trình, Google Maps để xem bản đồ, định vị và hình ảnh vệ tinh, Google Drive để lưu trữ tệp trên đám mây, Google Docs, Sheets và Slides để hỗ trợ năng suất làm việc, Google Photos để lưu trữ và chia sẻ ảnh, Google Keep để ghi chú, Google Translate để dịch ngôn ngữ, YouTube để xem và chia sẻ video, Google My Business để quản lý thông tin doanh nghiệp công khai, và Duo để tương tác xã hội. Vào tháng 3 năm 2019, Google đã ra mắt dịch vụ chơi trò chơi đám mây có tên Stadia. Google cũng có một sản phẩm tìm kiếm việc làm được tạo ra trước năm 2017, Google for Jobs là một tính năng tìm kiếm nâng cao tổng hợp các danh sách việc làm từ các trang web tìm kiếm việc làm và trang web tuyển dụng. Một số dịch vụ của Google không dựa trên web. Google Earth, được ra mắt vào năm 2005, cho phép người dùng xem các bức ảnh vệ tinh chất lượng cao từ khắp nơi trên thế giới miễn phí thông qua phần mềm khách được tải xuống máy tính của họ.
Phần mềm
Google phát triển hệ điều hành di động Android, cũng như đồng hồ thông minh, tivi, ô tô, và các biến thể thiết bị thông minh hỗ trợ Internet of Things. Google cũng phát triển trình duyệt web Google Chrome, và ChromeOS, một hệ điều hành dựa trên Chrome.
Phần cứng
Tháng 1 năm 2010, Google phát hành Nexus One, chiếc điện thoại Android đầu tiên mang thương hiệu riêng của mình. Nexus One đã mở đường cho một loạt điện thoại và máy tính bảng dưới thương hiệu "Nexus" cho đến khi ngừng sản xuất vào năm 2016 và được thay thế bằng một thương hiệu mới có tên Pixel. Năm 2011, Google giới thiệu Chromebook, chạy hệ điều hành ChromeOS. Tháng 7 năm 2013, Google giới thiệu dongle Chromecast, cho phép người dùng truyền nội dung từ điện thoại thông minh của họ lên TV. Tháng 6 năm 2014, Google công bố Google Cardboard, một kính xem VR đơn giản cho phép người dùng đặt điện thoại thông minh của họ vào một ngăn đặc biệt ở mặt trước để xem nội dung thực tế ảo (VR).
Dịch vụ doanh nghiệp
Google Workspace (trước đây là G Suite cho đến tháng 10 năm 2020) là dịch vụ đăng ký hàng tháng dành cho các tổ chức và doanh nghiệp để truy cập vào bộ sưu tập các dịch vụ của Google, bao gồm Gmail, Google Drive và Google Docs, Google Sheets và Google Slides, với các công cụ quản trị bổ sung, tên miền duy nhất và hỗ trợ 24/7.
Vào ngày 24 tháng 9 năm 2012, Google đã ra mắt Google dành cho Doanh nhân, một vườn ươm doanh nghiệp phần lớn phi lợi nhuận cung cấp cho các công ty khởi nghiệp không gian làm việc chung được gọi là Khu học xá, với sự hỗ trợ dành cho những người sáng lập công ty khởi nghiệp có thể bao gồm các hội thảo, hội nghị và cố vấn. Hiện tại, có bảy địa điểm tại Berlin, London, Madrid, Seoul, São Paulo, Tel Aviv và Warsaw.
Vào ngày 15 tháng 3 năm 2016, Google đã công bố ra mắt Google Analytics 360 Suite, "một bộ sản phẩm phân tích dữ liệu và tiếp thị tích hợp, được thiết kế đặc biệt cho nhu cầu của các nhà tiếp thị doanh nghiệp" có thể được tích hợp với BigQuery trên Nền tảng Google Cloud. Trong số những thứ khác, bộ sản phẩm được thiết kế để giúp "các nhà tiếp thị doanh nghiệp" "xem hành trình khách hàng hoàn chỉnh", tạo ra "những hiểu biết hữu ích" và "cung cấp trải nghiệm hấp dẫn cho đúng người". Jack Marshall củaThe Wall Street Journal đã viết rằng bộ sản phẩm này cạnh tranh với các dịch vụ đám mây tiếp thị hiện có của các công ty bao gồm Adobe, Oracle, Salesforce và IBM.
Dịch vụ Internet
Vào tháng 2 năm 2010, Google đã công bố dự án Google Fiber, với kế hoạch thử nghiệm xây dựng mạng băng thông rộng tốc độ cực cao cho 50.000 đến 500.000 khách hàng ở một hoặc nhiều thành phố của Mỹ. Sau khi Google tái cấu trúc doanh nghiệp để trở thành công ty mẹ của Alphabet Inc., Google Fiber đã được chuyển sang bộ phận Access của Alphabet. Vào tháng 4 năm 2015, Google đã công bố Project Fi, một nhà khai thác mạng ảo di động, kết hợp mạng Wi-Fi và mạng di động từ các nhà cung cấp viễn thông khác nhau để mang lại khả năng kết nối liền mạch và tín hiệu Internet nhanh.
Các dịch vụ tài chính
Vào tháng 8 năm 2023, Google trở thành công ty công nghệ lớn đầu tiên tham gia OpenWallet Foundation, được thành lập hồi đầu năm, với mục tiêu tạo ra phần mềm mã nguồn mở cho ví điện tử có khả năng tương tác.
Những chỉ trích và tranh cãi
nhỏ|Các nhà hoạt động ở San Francisco phản đối các xe buýt chở khách tư nhân vận chuyển nhân viên cho các công ty công nghệ như Google từ nhà của họ ở San Francisco và Oakland đến các khuôn viên công ty ở Silicon Valley.
Google đã bị chỉ trích về các vấn đề như trốn tránh thuế tích cực, tính trung lập của tìm kiếm, bản quyền, kiểm duyệt kết quả tìm kiếm và nội dung, và quyền riêng tư.
Các chỉ trích khác bao gồm việc bị cáo buộc sử dụng và thao túng kết quả tìm kiếm, sử dụng tài sản trí tuệ của người khác, lo ngại rằng việc thu thập dữ liệu của Google có thể vi phạm quyền riêng tư của mọi người và mức tiêu thụ năng lượng của máy chủ của Google, cũng như những lo ngại về các vấn đề kinh doanh truyền thống như độc quyền, hạn chế thương mại, hành vi chống cạnh tranh và vi phạm bằng sáng chế.
Google trước đây đã tuân thủ các chính sách kiểm duyệt Internet của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được thực thi bằng các bộ lọc được gọi là "Vạn Lý Tường lửa Trung Quốc", nhưng hiện không còn làm như vậy. Do đó, tất cả các dịch vụ của Google ngoại trừ Google Maps Trung Quốc đều bị chặn truy cập trong lãnh thổ Trung Quốc mà không có sự trợ giúp của mạng riêng ảo (VPN), máy chủ proxy hoặc các công nghệ tương tự khác.
2018
Vào tháng 7 năm 2018, quản lý chương trình của Mozilla, Chris Peterson, đã cáo buộc Google cố tình làm chậm hiệu suất của YouTube trên Firefox. Vào tháng 4 năm 2019, cựu giám đốc điều hành của Mozilla, Jonathan Nightingale, đã cáo buộc Google cố tình và có hệ thống phá hoại trình duyệt Firefox trong thập kỷ qua để thúc đẩy việc áp dụng Google Chrome.
Vào tháng 8 năm 2018, The Intercept đưa tin rằng Google đang phát triển cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một phiên bản kiểm duyệt của công cụ tìm kiếm của mình (được gọi là Dragonfly) "sẽ chặn các trang web và thuật ngữ tìm kiếm về nhân quyền, dân chủ, tôn giáo và phản đối ôn hòa". Tuy nhiên, dự án đã bị tạm dừng do lo ngại về quyền riêng tư.
2019
Vào năm 2019, một trung tâm dành cho những người chỉ trích Google được thành lập trên cộng đồng trực tuyến Reddit /r/degoogle, với mục đích kêu gọi người dùng từ bỏ việc sử dụng các sản phẩm của Google. Chiến dịch DeGoogle tiếp tục phát triển khi các nhà hoạt động bảo vệ quyền riêng tư công bố thông tin về các sản phẩm của Google và việc công ty xâm phạm quyền riêng tư cá nhân.
Vào tháng 11 năm 2019, Văn phòng Quyền công dân thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ đã bắt đầu điều tra Dự án Nightingale để đánh giá xem việc "thu thập dữ liệu hồ sơ y tế của cá nhân" có tuân thủ Đạo luật Trách nhiệm Giải trình và Di động Bảo hiểm Y tế (HIPAA) hay không. Theo The Wall Street Journal, Google đã bí mật bắt đầu dự án này vào năm 2018 với công ty chăm sóc sức khỏe Ascension có trụ sở tại St. Louis.
2022
Theo một phán quyết của Hội đồng Quan hệ Lao động Quốc gia vào năm 2022, các tài liệu của tòa án cho thấy Google đã tài trợ cho một dự án bí mật—Project Vivian—để tư vấn cho nhân viên và ngăn chặn họ thành lập công đoàn.
2023
Vào ngày 1 tháng 5 năm 2023, Google đã đặt một quảng cáo phản đối Dự luật số 2630 của Quốc hội Brazil, dự luật chống thông tin sai lệch sắp được thông qua, trên trang chủ tìm kiếm của mình tại Brazil, kêu gọi người dùng yêu cầu đại diện quốc hội phản đối dự luật này. Chính phủ và ngành tư pháp của Brazil cáo buộc công ty can thiệp không đáng có vào cuộc tranh luận tại Quốc hội, cho rằng đây có thể là hành vi lạm dụng sức mạnh kinh tế và yêu cầu công ty thay đổi quảng cáo trong vòng hai giờ sau khi thông báo hoặc sẽ phải đối mặt với khoản tiền phạt 1 triệu reais (năm 2023) (185.528,76 đô la Mỹ) cho mỗi giờ không tuân thủ. Sau đó, công ty đã nhanh chóng gỡ bỏ quảng cáo.
Theo dõi nhắm vào chủng tộc
Google đã hỗ trợ các chính phủ gây tranh cãi trong các dự án theo dõi hàng loạt, chia sẻ với cảnh sát và quân đội danh tính của những người biểu tình chống lại bất công về chủng tộc. Năm 2020, họ đã chia sẻ với FBI thông tin được thu thập từ tất cả người dùng Android tham gia biểu tình Black Lives Matter ở Seattle, bao gồm cả những người đã chọn không thu thập dữ liệu vị trí.
Google cũng là một phần của Dự án Nimbus, một thỏa thuận trị giá 1,2 tỷ đô la trong đó các công ty công nghệ Google và Amazon sẽ cung cấp cho Israel và quân đội của họ các dịch vụ trí tuệ nhân tạo, học máy và các dịch vụ điện toán đám mây khác, bao gồm việc xây dựng các trang web điện toán đám mây tại chỗ sẽ "giữ thông tin trong biên giới của Israel theo các nguyên tắc an ninh nghiêm ngặt." Hợp đồng đã bị các cổ đông cũng như nhân viên của họ chỉ trích vì lo ngại rằng dự án sẽ dẫn đến thêm nhiều lạm dụng quyền con người của người Palestine trong bối cảnh việc chiếm đóng bất hợp pháp đang diễn ra và cuộc xung đột Israel-Palestine. Ariel Koren, cựu giám đốc quảng cáo cho các sản phẩm giáo dục của Google và là người phê phán dự án này, đã viết rằng Google "hệ thống hóa việc im lặng các tiếng nói của người Palestine, người Do Thái, người Ả Rập và người Hồi giáo quan tâm đến sự đồng lõa của Google trong việc vi phạm quyền con người của người Palestine - đến mức trả đũa chính thức đối với công nhân và tạo ra một môi trường sợ hãi," phản ánh quan điểm của cô rằng lời đe dọa cuối cùng đã đến như một hình thức trả đũa cho sự phản đối và tổ chức chống lại dự án của mình.
Chống độc quyền, quyền riêng tư và các vụ kiện tụng khác
nhỏ|Ủy ban Châu Âu, cơ quan đã phạt Google ba lần vào các năm 2017, 2018 và 2019.
Tiền phạt và kiện tụng
Liên minh Châu Âu
Vào ngày 27 tháng 6 năm 2017, công ty đã nhận được khoản tiền phạt kỷ lục 2,42 tỷ euro từ Liên minh Châu Âu vì "đưa dịch vụ so sánh mua sắm của riêng mình lên đầu kết quả tìm kiếm". Vào ngày 18 tháng 7 năm 2018, Ủy ban Châu Âu đã phạt Google 4,34 tỷ euro vì vi phạm các quy tắc chống độc quyền của EU. Việc lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường đã được quy cho việc Google hạn chế các nhà sản xuất thiết bị Android và nhà khai thác mạng để đảm bảo rằng lưu lượng truy cập trên thiết bị Android sẽ đến công cụ tìm kiếm của Google. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2018, Google đã xác nhận rằng họ đã kháng cáo khoản tiền phạt lên Tòa án sơ thẩm của Liên minh Châu Âu.
Vào ngày 8 tháng 10 năm 2018, một vụ kiện tập thể đã được đệ trình chống lại Google và Alphabet do dữ liệu tài khoản Google+ "không công khai" bị lộ do lỗi cho phép các nhà phát triển ứng dụng truy cập vào thông tin cá nhân của người dùng. Vụ kiện đã được dàn xếp vào tháng 7 năm 2020 với giá 7,5 triệu đô la Mỹ, với khoản thanh toán cho các nguyên đơn ít nhất 5 đô la mỗi người, tối đa là 12 đô la mỗi người.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2019, Ủy ban Châu Âu đã phạt Google 1,49 tỷ euro (1,69 tỷ đô la Mỹ) vì ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh "cạnh tranh và đổi mới công bằng" trên thị trường quảng cáo trực tuyến. Ủy viên cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, Margrethe Vestager, cho biết Google đã vi phạm các quy tắc chống độc quyền của EU bằng cách "áp đặt các hạn chế hợp đồng chống cạnh tranh đối với các trang web của bên thứ ba" yêu cầu họ loại bỏ kết quả tìm kiếm từ các đối thủ của Google.
Vào ngày 14 tháng 9 năm 2022, Google đã thua kháng cáo về khoản tiền phạt 4,125 tỷ euro (3,5 tỷ bảng Anh), vốn được yêu cầu phải trả sau khi Ủy ban Châu Âu chứng minh được rằng Google đã buộc các nhà sản xuất điện thoại Android phải cài đặt các ứng dụng tìm kiếm và trình duyệt web của Google. Kể từ cáo buộc ban đầu, Google đã thay đổi chính sách của mình.
Pháp
Vào ngày 21 tháng 1 năm 2019, cơ quan quản lý dữ liệu của Pháp CNIL đã phạt Google mức kỷ lục 50 triệu euro vì vi phạm Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu. Phán quyết cho rằng Google đã không thông báo đầy đủ cho người dùng về các phương pháp thu thập dữ liệu để cá nhân hóa quảng cáo. Google đã đưa ra một tuyên bố cho biết họ "cam kết sâu sắc" đối với tính minh bạch và đang "nghiên cứu quyết định" trước khi đưa ra phản hồi.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2022, cơ quan quản lý quyền riêng tư dữ liệu của Pháp CNIL đã phạt Google của Alphabet 150 triệu euro (169 triệu đô la Mỹ) vì không cho phép người dùng Internet của mình dễ dàng từ chối Cookie cùng với Facebook.
Hoa Kỳ
Sau các phiên điều trần của Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2020, avà báo cáo từ Tiểu ban Chống độc quyền của Hạ viện Hoa Kỳ được công bố vào đầu tháng 10 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện chống độc quyền đối với Google vào ngày 20 tháng 10 năm 2020, khẳng định rằng Google đã duy trì vị thế độc quyền của mình một cách bất hợp pháp trong tìm kiếm web và quảng cáo tìm kiếm. Đơn kiện cáo buộc Google đã tham gia vào hành vi chống cạnh tranh bằng cách trả cho Apple từ 8 tỷ đến 12 tỷ đô la để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên iPhone. Cuối tháng đó, cả Facebook và Alphabet đều đồng ý "hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau" trước cuộc điều tra về hoạt động quảng cáo trực tuyến của họ. Một vụ kiện khác đã được đệ trình chống lại Google vào năm 2023 vì độc quyền trái phép thị trường công nghệ quảng cáo.
Vụ kiện về chế độ duyệt web riêng tư
Vào đầu tháng 6 năm 2020, một nhóm người tiêu dùng đã đệ đơn kiện tập thể trị giá 5 tỷ đô la Mỹ chống lại Google, cáo buộc rằng chế độ duyệt web Ẩn danh của Chrome vẫn thu thập lịch sử người dùng của họ. Vụ kiện được biết đến vào tháng 3 năm 2021 khi một thẩm phán liên bang bác bỏ yêu cầu của Google về việc bác bỏ vụ kiện, phán quyết rằng họ phải đối mặt với các cáo buộc của nhóm. Reuters đưa tin rằng vụ kiện cáo buộc CEO Sundar Pichai của Google đã cố gắng che giấu vấn đề này với người dùng.
Vụ kiện phân biệt đối xử giới tính
Vào năm 2017, ba phụ nữ đã kiện Google, cáo buộc công ty vi phạm Đạo luật Bình đẳng Tiền lương của California bằng cách trả lương thấp hơn cho nhân viên nữ. Vụ kiện cho biết khoảng cách tiền lương là khoảng 17.000 đô la và Google đã nhốt phụ nữ vào các con đường sự nghiệp thấp hơn, dẫn đến mức lương và tiền thưởng thấp hơn. Vào tháng 6 năm 2022, Google đã đồng ý trả khoản tiền dàn xếp 118 triệu đô la cho 15.550 nhân viên nữ làm việc ở California kể từ năm 2013. Là một phần của thỏa thuận dàn xếp, Google cũng đồng ý thuê một bên thứ ba để phân tích các hoạt động tuyển dụng và trả lương của mình.
Hợp đồng với chính phủ Hoa Kỳ
Sau các báo cáo của giới truyền thông về PRISM, chương trình giám sát điện tử quy mô lớn của NSA, vào tháng 6 năm 2013, một số công ty công nghệ đã được xác định là những người tham gia, bao gồm Google. Theo các nguồn tin không được tiết lộ, Google đã tham gia chương trình PRISM vào năm 2009, còn YouTube tham gia vào năm 2010.
Google đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về phần mềm máy bay không người lái thông qua Dự án Maven 2017, có thể được sử dụng để cải thiện độ chính xác của các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái. Vào tháng 4 năm 2018, hàng nghìn nhân viên của Google, bao gồm cả các kỹ sư cấp cao, đã ký một lá thư kêu gọi CEO Sundar Pichai của Google chấm dứt hợp đồng gây tranh cãi này với Lầu Năm Góc.
Cơ sở hạ tầng
Google có các trung tâm dữ liệu ở Bắc và Nam Mỹ, Châu Á và Châu Âu. Không có dữ liệu chính thức về số lượng máy chủ trong các trung tâm dữ liệu của Google; tuy nhiên, công ty nghiên cứu và tư vấn Gartner ước tính trong một báo cáo tháng 7 năm 2016 rằng Google khi đó có 2,5 triệu máy chủ. Theo truyền thống, Google dựa vào việc tính toán song song trên phần cứng thương mại như máy tính x86 thông thường (tương tự như PC gia đình) để giữ chi phí cho mỗi truy vấn ở mức thấp. Năm 2005, công ty bắt đầu phát triển các thiết kế của riêng mình, chỉ được tiết lộ vào năm 2009.
Google đã xây dựng hệ thống cáp quang biển tư nhân của riêng mình. Cáp đầu tiên, có tên là Curie, nối California với Chile và được hoàn thành vào ngày 15 tháng 11 năm 2019. Cáp biển thứ hai hoàn toàn thuộc sở hữu của Google, có tên là Dunant, nối Hoa Kỳ với Pháp và dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2020. Cáp biển thứ ba của Google, Equiano, sẽ nối Lisbon, Bồ Đào Nha với Lagos, Nigeria và Cape Town, Nam Phi. Cáp thứ tư của công ty, có tên là Grace Hopper, nối các điểm cập bến ở New York (Hoa Kỳ) Bude (Vương quốc Anh) và Bilbao (Tây Ban Nha) và dự kiến hoạt động vào năm 2022.
Môi trường
Vào tháng 10 năm 2006, Google đã công bố kế hoạch lắp đặt hàng nghìn tấm pin mặt trời để cung cấp tới 1,6 Megawatt điện, đủ để đáp ứng khoảng 30% nhu cầu năng lượng của công ty. Hệ thống này là nhà máy điện quang điện trên mái nhà lớn nhất được xây dựng trên một khu công nghiệp của Hoa Kỳ và là một trong những nhà máy lớn nhất trên bất kỳ khu công nghiệp nào trên thế giới. Kể từ năm 2007, Google đã đặt mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon đối với các hoạt động của mình.
Google tiết lộ vào tháng 9 năm 2011 rằng công ty "liên tục sử dụng đủ điện năng để cung cấp năng lượng cho 200.000 hộ gia đình", gần 260 triệu watt hoặc khoảng một phần tư sản lượng của một nhà máy điện hạt nhân. Tổng lượng khí thải carbon cho năm 2010 chỉ dưới 1,5 triệu tấn, chủ yếu do nhiên liệu hóa thạch cung cấp điện cho các trung tâm dữ liệu. Google cho biết 25% năng lượng của họ được cung cấp bởi nhiên liệu tái tạo vào năm 2010. Một lượt tìm kiếm trung bình chỉ sử dụng 0,3 watt-giờ điện, vì vậy tất cả các lượt tìm kiếm trên toàn cầu chỉ có 12,5 triệu watt hoặc 5% tổng lượng điện năng tiêu thụ của Google.
Năm 2010, Google Energy đã thực hiện khoản đầu tư đầu tiên vào một dự án năng lượng tái tạo, rót 38,8 triệu USD vào hai trang trại gió ở North Dakota. Công ty đã thông báo rằng hai địa điểm này sẽ tạo ra 169,5 megawatt điện, đủ để cung cấp cho 55.000 hộ gia đình. Vào tháng 2 năm 2010, Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang đã cấp cho Google giấy phép mua và bán năng lượng với giá thị trường. Tập đoàn đã thực hiện giấy phép này vào tháng 9 năm 2013 khi thông báo sẽ mua toàn bộ điện năng được sản xuất bởi trang trại gió Happy Hereford 240 megawatt chưa được xây dựng. Vào tháng 7 năm 2010, Google đã ký một hợp đồng với một trang trại gió ở Iowa để mua 114 megawatt điện trong 20 năm.
Vào tháng 12 năm 2016, Google đã thông báo rằng bắt đầu từ năm 2017, công ty sẽ mua đủ năng lượng tái tạo để đáp ứng 100% nhu cầu năng lượng của các trung tâm dữ liệu và văn phòng của mình. Cam kết này sẽ biến Google trở thành "công ty mua năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới, với các cam kết đạt 2,6 gigawatt (2.600 megawatt) năng lượng gió và mặt trời".
Vào tháng 11 năm 2017, Google đã mua 536 megawatt điện gió. Việc mua bán này giúp công ty đạt được 100% năng lượng tái tạo. Năng lượng gió đến từ hai nhà máy điện ở Nam Dakota, một nhà máy ở Iowa và một nhà máy ở Oklahoma. Vào tháng 9 năm 2019, CEO của Google đã công bố kế hoạch đầu tư 2 tỷ USD vào năng lượng gió và mặt trời, đây là thương vụ năng lượng tái tạo lớn nhất trong lịch sử doanh nghiệp. Công ty cho biết, điều này sẽ tăng trưởng 40% hồ sơ năng lượng xanh của họ, cung cấp thêm cho họ 1,6 gigawatt năng lượng sạch.
Vào tháng 9 năm 2020, Google thông báo rằng họ đã bù đắp được tất cả lượng khí thải carbon của mình kể từ khi thành lập công ty vào năm 1998. Công ty cũng cam kết vận hành các trung tâm dữ liệu và văn phòng của mình chỉ sử dụng năng lượng không carbon vào năm 2030. Vào tháng 10 năm 2020, công ty đã cam kết sẽ biến bao bì cho các sản phẩm phần cứng của mình thành 100% không nhựa và 100% có thể tái chế vào năm 2025. Công ty cũng cho biết rằng tất cả các địa điểm sản xuất lắp ráp cuối cùng của họ sẽ đạt được chứng nhận Zero Waste to Landfill UL 2799 vào năm 2022 bằng cách đảm bảo rằng phần lớn chất thải từ quá trình sản xuất được tái chế thay vì đưa vào bãi chôn lấp.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trí tuệ nhân tạo
Website Mỹ
Tương tác người-máy tính
Văn hóa sinh viên
Phần mềm cho iOS
Quảng cáo trực tuyến
Chia sẻ ảnh
Các ứng dụng Internet thành lập năm 1998
Công ty được niêm yết trên NASDAQ
Công ty sản xuất điện thoại di động
Công ty đa quốc gia có trụ sở tại Hoa Kỳ
World Wide Web
Công ty thành lập năm 1998
Công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Frankfurt | VI_open-0000000003 | News |
Nông thôn Việt Nam là một khái niệm chung dùng để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, nơi người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Ở Việt Nam, cho đến năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, trong khi tỷ lệ này vào năm 1999 là 76,5%. Con số đó những năm trước còn lớn hơn nhiều. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Ngay cả những Việt kiều sống ở các nước văn minh, tiên tiến nhất thế giới, vẫn giữ nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam.
Tổ chức
Xét về mặt tổ chức xã hội, làng xã và quốc gia Việt Nam là hai đối tượng quan trọng nhất đối với người Việt và được tổ chức chặt chẽ nhất. Chính vì thế mà người Việt thường nói làng với nước đi đôi với nhau. Các hệ thống trung gian như huyện, tỉnh không có vai trò quan trọng như thế.
Thời trung và cận đại
Theo huyết thống: gia đình và gia tộc
Ở nông thôn Việt Nam, gia tộc đóng vai trò rất quan trọng. Nếu phương Tây coi trọng vai trò của cá nhân thì phương Đông coi trọng vai trò của gia đình và gia tộc. Nhưng nếu xét ở phương Đông với nhau, Trung Quốc xem gia đình nặng hơn gia tộc thì ở Việt Nam gia tộc lại quan trọng hơn gia đình. Mỗi gia tộc đều có trưởng họ (hay còn gọi là tộc trưởng), nhà thờ họ, gia phả, giỗ họ,...
Ở nhiều làng, hầu hết dân cư ở làng đó đều có quan hệ họ hàng với nhau. Việc đó còn lưu lại dấu ấn trong tên của rất nhiều làng hiện nay như: làng Đặng Xá (xá = nơi ở, Đặng Xá = nơi ở của họ Đặng), Châu Xá, Lê Xá,... Tương truyền Chử Đồng Tử sinh ra ở làng Chử Xá, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ở Tây Nguyên còn phổ biến tình trạng các thế hệ của một gia tộc sống tập trung trong một mái nhà dài, bên trong nhà đó được chia thành từng ngăn nhỏ cho các gia đình. Một nhà như thế có thể chứa đến hơn trăm người. Còn ở phần lớn miền quê Việt Nam hiện nay vẫn có gia đình có đến ba (tam đại đồng đường) hay bốn (tứ đại đồng đường) thế hệ cùng chung sống.
Vì gia tộc có vai trò quan trọng nên tôn ti của từng người cũng rất được coi trọng. Ở Việt Nam hệ thống tôn ti trong gia tộc được phân biệt rất chi li tới 9 thế hệ (gọi là cửu đại):
Việc thờ cúng, lễ tết trong gia tộc cũng tuân thủ theo nguyên tắc cửu đại này. Nghĩa là khi người có vai "Tôi" còn sống thì người ở vai này có trách nhiệm tham gia thờ cúng (nếu người vai trên đã chết), lễ tết (nếu người vai trên còn sống) những người có vai từ "Kỵ" trở xuống đến người có vai "Cha". Những người có vai "Con", "Cháu", "Chắt", "Chút" của người đó vẫn có trách nhiệm phải tuân thủ.
Người đàn ông lớn nhất trong gia đình chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên (nếu người ở vai trên không còn sống), chỉ khi người này mất đi thì việc thờ cúng sẽ chuyển sang người con trai lớn (đích tôn). Trong trường hợp, người đàn ông không có con trai thì việc thờ cúng tổ tiên sẽ chuyển sang người chú kế cận và nguyên tắc trên lại áp dụng cho gia đình người chú.
Trong khi đó ở các nước khác, ví dụ trong tiếng Anh, chỉ có từ cho ba đời, các đời trước và sau nữa chỉ thêm tiền tố vào một trong ba từ đó. Ngoài ra còn có những danh từ chỉ riêng những người họ hàng xa hơn như: "chú" (em trai của "bố"), "cậu" (em trai của "mẹ"), "cô" (em gái của "bố"), "dì" (em gái của "mẹ"), "thím" (vợ của "chú"), "mợ" (vợ của "cậu"), "bác" (anh hay chị của "bố" và của "mẹ"); một vài vùng có thể có cách gọi biến tướng đi như: anh của bố, mẹ đều gọi bằng "bác", còn chị của bố, mẹ lại vẫn gọi là "cô" - như ở Thanh Miện (Hải Dương), Kiến An (Hải Phòng) - hoặc anh, chị của bố gọi là "bá" còn anh, chị của mẹ gọi là "bác" hay ngược lại v.v. Tôn ti rất được tôn trọng, một người ít tuổi, xếp theo vai vế, có thể là "ông" của một người nhiều tuổi - Bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi (tục ngữ).
Theo địa bàn cư trú: xóm và làng
Nếu coi tổ chức nông thôn theo huyết thống là bước phát triển thứ nhất thì tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú là bước phát triển tiếp theo để hình thành nên làng và xóm, đơn vị tổ chức quan trọng nhất của nông thôn Việt Nam. Một làng gồm nhiều xóm gộp lại.
Ở nông thôn Việt Nam, việc tổ chức thành làng là cần thiết vì các lý do sau đây:
Đối phó với môi trường tự nhiên: trồng lúa nước là nghề mang tính thời vụ rất cao, chính vì thế mọi người trong làng có thể giúp đỡ nhau lúc cần thiết.
Đối phó với môi trường xã hội: chống trộm, cướp,...
Theo nghề nghiệp: phường và hội
Trong một số làng, một số dân cư hoặc phần lớn dân cư có một nghề nghiệp khác ngoài nghề nông. Những người có cùng nghề này tập hợp với nhau để tạo thành phường. Có rất nhiều phường với các loại nghề nghiệp khác nhau như: phường gốm, phường chài, phường mộc, phường chèo, phường tuồng,...
Bên cạnh phường, còn có hội, là tổ chức của những người có cùng sở thích, thú vui,... ví dụ: hội văn phả (các nhà Nho trong làng không ra làm quan), hội bô lão (các cụ ở trong làng), hội tổ tôm, hội vật,...
Các phường nghề sau này chuyển thành các tổ chức phường của đô thị.
Theo truyền thống nam giới: giáp
Giáp là hình thức tổ chức dựa trên truyền thống nam giới, nó xuất hiện khá muộn vào đời Lý Thánh Tông (1041) với mục đích là để tiện cho việc thu thuế. Giáp có các đặc điểm sau:
chỉ có đàn ông mới được tham gia vào giáp
có tính cha truyền con nối, cha ở giáp nào, con ở giáp ấy.
Đứng đầu có ông cai giáp (câu đương), giúp việc cho cai giáp có ba ông lềnh (lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba). Giáp được chia thành ba hạng: ty ấu: từ nhỏ đến 18 tuổi; đinh (hoặc tráng): 18 đến 59 tuổi; lão: 60 tuổi trở lên.
Con trai, khi mới sinh được cha làm lễ để được vào giáp, lúc này nó thuộc hạng ty ấu. Vào giáp lúc này có quyền lợi là được chia phần khi làng có lễ hội. Đến 18 tuổi, người con trai phải làm lễ làng để lên đinh hoặc tráng (đinh = đứa, tráng = khỏe mạnh). Đinh, tráng có nghĩa vụ với làng (giúp đỡ trong các dịp lễ lạt, đình đám) và với nước (đóng sưu thuế, đi lính, đi phu). Về quyền lợi thì đinh, tráng được ngồi trên một chiếu nhất định trong kỳ họp hành, ăn uống, hoặc được nhận một phần ruộng công để cày, ngoài ra còn được thêm một phần hoa màu khi thu hoạch. Đến 60 tuổi (một số nơi còn hạ tuổi xuống còn 49, 50 hoặc 55), đàn ông được lên lão làng, đó là một vinh dự rất lớn, được mọi người nể trọng, xin ý kiến khi gặp khó khăn. Phần lớn các giáp được gọi tên theo vị trí, ví dụ: Thượng (trên), Hạ (dưới), Đông (phía đông), Đoài (phía tây).
Theo mặt hành chính: thôn và xã
Về mặt tổ chức hành chính thì nông thôn Việt Nam được chia thành các đơn vị cơ bản là xã, và thôn. Thông thường một xã gồm một làng nhưng cũng có xã gồm một vài làng. Mỗi thôn gồm một xóm, cũng có thôn gồm một vài xóm.
Về dân cư thì một thôn có hai loại:
dân chính cư (còn gọi là nội tịch), là dân gốc của thôn, dân chính cư được hưởng nhiều quyền lợi hơn dân ngụ cư rất nhiều.
dân ngụ cư (còn gọi là ngoại tịch), là dân ở nơi khác đến, những người dân này chỉ được làm một số nghề mà dân chính cư không muốn làm như: làm thuê, làm mướn, làm mõ,... trong khi vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ như dân chính cư. Dân ngụ cư thường bị khinh rẻ, coi thường. Dân ngụ cư muốn thành dân chính cư thì phải: cư trú ở làng hơn ba đời, có một ít điền sản.
Việc đối xử khắt khe đối với dân ngụ cư là một hình thức ngăn cản người ở làng này di chuyển sang làng khác nhằm duy trì sự ổn định của làng.
Dân chính cư được chia làm 5 hạng:
Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban
Chức dịch gồm những người đang giữ những chức vụ nhất định trong bộ máy hành chính
Lão (xem ở trên)
Đinh (xem ở trên)
Ty ấu (xem ở trên)
Ba hạng đầu gồm chức sắc, chức dịch và lão lập thành bộ phận quan viên hàng xã. Quan viên lại được chia thành ba nhóm theo lứa tuổi là kỳ mục, kỳ dịch, và kỳ lão:
Kỳ mục là quan trọng nhất, có nhiệm vụ bàn bạc và quyết định các công việc của xã. Kỳ mục còn được gọi là hội đồng kỳ mục, do tiên chỉ và thứ chỉ đứng đầu; ở miền nam sau này, hội đồng kỳ mục được gọi là hội tề do hương cả đứng đầu.
Kỳ lão gồm những người cao tuổi nhất, có vai trò làm tư vấn cho hội đồng kỳ mục.
Kỳ dịch, hay còn gọi là lý dịch, thường do hội đồng kỳ mục cử ra, có nhiệm vụ thực thi quyết định của hội đồng kỳ mục. Đứng đầu nhóm lý dịch này là lý trưởng (còn gọi là xã trưởng); dưới đó có phó lý (giúp việc), hương trưởng (lo việc công ích), trương tuần (còn gọi là xã tuần, lo việc an ninh). Phương tiện quản lý chủ yếu là hai cuốn sổ là sổ đinh (quản lý nhân lực) và sổ điền (quản lý về kinh tế).
Thời hiện đại
Làng Việt Nam thời hiện đại đã có những sự thay đổi nhất định so với làng trung và cận đại. Có những đặc điểm của làng cổ còn giữ được, nhưng cũng có những đặc điểm ngày nay hầu như không thể tìm thấy.
Truyền thống gia tộc tuy vẫn còn giữ được ảnh hưởng, nhưng do ngày nay, người dân nông thôn có xu hướng thoát li ra các thành phố lớn hoặc di cư đến những vùng khác có điều kiện sinh sống làm ăn thuận lợi hơn, nên vai trò của gia đình đã dần dần nổi trội hơn. Cũng do việc di cư mà thành phần dân cư của làng xã ngày nay đa dạng hơn, tính chất cùng huyết thống cũng đã bị giảm mạnh.
Các khái niệm như giáp, đinh, tráng nay không còn nữa do nó hoàn toàn không phù hợp với nông thôn hiện đại. Các khái niệm dân chính cư hay dân ngụ cư tuy rằng vẫn có thể hiện diện ở một vài nơi, nhưng chắc chắn nó không còn là một đặc điểm đặc trưng của nông thôn ngày nay. Các chức sắc, chức dịch cũ (quan viên, kỳ mục, kỳ dịch v.v) nay đã bị xóa bỏ.
Vai trò của chính quyền xã hiện nay được công nhận là nằm trong hệ thống quản lý nhà nước đã và đang dần dà làm mất đi vai trò của hệ thống chính quyền làng theo kiểu cũ. Ngày nay, người đứng đầu một làng là trưởng làng (thôn) hay trưởng bản (ở miền núi). Vai trò của họ thực ra không lớn lắm.
Đặc tính
Thời trung và cận đại
Tính cộng đồng và tự trị
Việc làng xã Việt Nam được tổ chức theo huyết thống, địa bàn cư trú, truyền thống nam giới và hành chính như ở phần trên làm cho làng có tính cộng đồng và tự trị rất cao. Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong làng đều hướng tới nhau, đó là đặc trưng "hướng ngoại"; còn tính tự trị làm cho các làng trở lên biệt lập với nhau, đó là đặc trưng "hướng nội".
Tính biệt lập ở các làng mạnh đến nỗi mỗi làng có thể được coi như một quốc gia thu nhỏ với một "luật pháp riêng" được gọi là hương ước (lệ làng được ghi bằng văn bản) và luật tục (lệ làng được quy định bằng lời nói); và một "triều đình riêng" với hội đồng kỳ mục là cơ quan lập pháp, lý dịch là cơ quan hành pháp. Nhiều làng còn bầu bốn cụ cao tuổi là tứ trụ. Sự can thiệp của nhà nước phong kiến, và sau này của thực dân không làm ảnh hưởng nhiều đến tổ chức của làng xã. "Phép vua thua lệ làng" là một truyền thống thể hiện mối quan hệ dân chủ đặc biệt của nhà nước phong kiến với làng xã Việt Nam.
Cấu trúc làng
Tính biệt lập còn được thể hiện ở lũy tre làng. Lũy tre làng bao trùm xung quanh làng. Đó là một thành lũy rất kiên cố, "đốt không cháy, trèo không được, đào không qua". Điều này khác hẳn với các nước khác trên thế giới là dùng thành quách bằng đất đá. Việc trao đổi với thế giới bên ngoài thông qua cổng làng. Gần cổng làng thường có một cây đa, khói hương nghi ngút, đó là nơi hội tụ của thánh thần. Bên trong của làng có một cái đình, đó là biểu tượng của làng về mọi phương diện. Đình làng là:
trung tâm hành chính: mọi công việc quan trọng đều diễn ra ở đây, hội đồng kỳ mục, lý dịch làm việc ở đây; thu sưu thuế tại đây; xử tội người vi phạm lệ làng cũng ở đây,...
trung tâm tôn giáo: là nơi thờ thành hoàng làng.
trung tâm văn hóa: là nơi tổ chức các lễ hội văn hóa của làng như hội đấu vật, đánh cờ, hát chèo v.v...vào các dịp lễ, tết hay lúc công việc đồng ruộng đã hết, đình làng cũng là nơi con trai, con gái đến tuổi lập gia đình hò hẹn với nhau.
Ban đầu đình làng là nơi tụ tập của tất cả mọi người, sau này đó chỉ là nơi tụ tập của nam giới (giáp) trong làng. Phụ nữ chuyển đến chùa làng và giếng nước. Nhiều nơi người ta còn trả thù nhau bằng cách đóng cọc vào giữa giếng làng, người ta tin rằng làm như thế thì gái làng đó sẽ không chồng mà chửa.
Ưu nhược điểm của làng Việt Nam
Do tính tự trị cao mà làng có xu hướng nhấn mạnh vào tính dị biệt của làng. Tính dị biệt dẫn đến các hệ quả sau: "tự cung tự cấp", mỗi làng cố gắng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của làng; óc bè phái, cục bộ; gia trưởng, tôn ti,...
Do tính cộng đồng cao mà làng Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh vào tính đồng nhất, hệ quả của nó là: đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, tính tập thể cao, dân chủ địa phương,... nhưng lại thủ tiêu vai trò cá nhân, tạo ra thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể và cào bằng, đố kị không muốn ai hơn ai.
Thời hiện đại
Các hương ước và tục lệ ngày nay tuy còn có ảnh hưởng nhất định tới công việc của làng, nhưng luật pháp nhà nước mới là yếu tố quyết định chính trong quan hệ cộng đồng. Về mặt cấu trúc, làng ngày nay đã thưa dần hình ảnh của lũy tre làng, cổng làng, giếng làng. Đình làng không còn đóng vai trò quan trọng như trước đây, nó chỉ còn thuần túy là nơi để thờ cúng hay giao lưu, gặp gỡ trong những ngày lễ hội.
Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc chung của cộng đồng dân cư, hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
Cơ sở hình thành và trình độ tiếp cận thị trường,trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp so với thành thị (diện tích rộng, mức đầu tư cho nông thôn không lớn).
Trong một chừng mực nào đó thì tính dân chủ, tự do và công bằng xã hội thấp hơn thành thị.
Thu nhập và đời sống của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo đói thì cao.
Nông thôn trải dài trên địa bàn rộng lớn nên chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
Làng Nam Bộ
Đến thời các chúa Nguyễn và sau này là nhà Nguyễn, việc khai phá đồng bằng Nam Bộ đã làm cho làng xã ở vùng này khác hẳn so với làng xã ở cùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam Bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây:
Làng không còn có lũy tre làng như là công cụ phân cách làng này với làng khác nữa.
Làng không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi, có làng được lập một cách nhanh chóng, những cũng có làng tan rã nhanh chóng.
Giao thương buôn bán phát triển không còn bị gò bó ở tình trạng tự cung tự cấp.
Những đặc điểm này ảnh hưởng đến tính tình người dân Nam Bộ cũng phóng khoáng hơn, dễ chấp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài, hội nhập, phát triển nhanh trong làm ăn kinh tế.
Vai trò của vùng nông thôn
Nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống của người dân.
Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.
Cung cấp hàng hóa cho xuất khẩu
Cung cấp lao động cho công nghiệp và thành thị.
Là thị trường rộng lớn để tiêu thụ những sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ
Phát triển nông thôn tạo điều kiện ổn định về mặt kinh tế – chính trị – xã hội.
Nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn về các mặt tự nhiên – kinh tế – xã hội.
Khó khăn của người dân địa phương
Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp địa phương thường thấp.Dẫn đến thu nhập của người dân nông thôn thấp.
Người nông dân sông chủ yếu bằng nghề nông nghiệp nhưng thiếu đất để sản xuất.Đất sản xuất giảm do dân số tăng và quá trình đô thị hóa.
Lực lượng lao động ở nông thôn rất lớn nhưng lại thiếu việc làm, thất nghiệp và bán thất nghiệp vẫn thường xuyên xảy ra.
Thiếu các điều kiện và phương tiện thuận lợi cho giáo dục.
Khoảng 70% nhà ở của người dân nông thôn có kết cấu kiên cố hoặc bán kiên cố.
Thiếu các cơ sở phương tiện và điều kiện vui chơi,giải trí.
Hàng tiêu dùng khan hiếm, giá cả đắt đỏ,người dân nông thôn khó có thể mua những thứ cần thiết phù hợp với thu nhập của họ.
Trong văn hóa đại chúng
Xem thêm
Nông nghiệp Việt Nam
Làng quê Việt Nam
Kiến trúc làng Việt Nam
Đình làng
Tham khảo
Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 2001
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1994
Chú thích
Xã hội Việt Nam | VI_open-0000000005 | People_and_Society |
Toán sinh học (tiếng Anh: mathematical biology hay biomathematics) là một lĩnh vực giao thoa (interdisciplinary) của nghiên cứu học thuật nhằm vào mô hình hoá các quá trình sinh học trong tự nhiên dùng kĩ thuật và công cụ toán học. Nó vừa mang tính ứng dụng vừa mang tính lý thuyết trong nghiên cứu sinh học.
Nghiên cứu
Dưới đây là một danh sách các lĩnh vực nghiên cứu trong toán sinh học và liên kết đến các dự án liên quan ở nhiều trường đại học khác nhau:
Mô hình hóa bệnh về động mạch
Mô hình hóa neuron và các chất gây ung thư (Modelling of neurons and carcinogen|carcinogenesis)
Đặc tính cơ học của các mô sinh học (Mechanics of biological tissues )
Enzyme học lý thuyết và động học enzyme (Theoretical enzymology and enzyme kinetics )
Mô hình hóa cơ chế ung thư (Cancer modelling and simulation )
Những ví dụ này được đặc trưng bởi các cơ chế phức tạp, phi tuyến và mọi người đang ngày càng được nhận ra rằng kết quả của những sự tương tác đó chỉ có thể được hiểu thông qua các mô hình tính toán và toán học. Vì sự đa dạng của những kiến thức liên quan, nghiên cứu toán sinh học thường được thực hiện ở bởi sự liên kết giữa các nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, nhà y khoa, nhà động vật học, nhà hoá học...
Chú thích
J.D. Murray, Mathematical Biology. Springer-Verlag, 3rd ed. in 2 vols.: Mathematical Biology: I. An Introduction, 2002 ISBN 0387952233; Mathematical Biology: II. Spatial Models and Biomedical Applications, 2003 ISBN 0387952284.
L. Edelstein-Keshet, Mathematical Models in Biology. SIAM, 2004. ISBN 0075549506
L.A. Segel, Modeling dynamic phenomena in molecular and cellular biology. C.U.P., 1984. ISBN 052127477X
F. Hoppensteadt, Mathematical theories of populations: demographics, genetics and epidemics. SIAM, Philadelphia, 1975 (reprinted 1993). ISBN 0898710170
S.I. Rubinow, Introduction to mathematical biology. John Wiley, 1975. ISBN 0471744468
A. Goldbeter, Biochemical oscillations and cellular rhythms. C.U.P., 1996. ISBN 0521599466
E. Renshaw, Modelling biological populations in space and time. C.U.P., 1991. ISBN 0521448557
P.G. Drazin, Nonlinear systems. C.U.P., 1992. ISBN 0521406684
D.W. Jordan and P. Smith, Nonlinear ordinary differential equations, 2nd ed. O.U.P., 1987. ISBN 0198565623
Tham khảo
F. Hoppensteadt, Getting Started in Mathematical Biology. Notices of American Mathematical Society, Sept. 1995.
M. C. Reed, Why Is Mathematical Biology So Hard? Notices of American Mathematical Society, March, 2004.
R. M. May, Uses and Abuses of Mathematics in Biology. Science, ngày 6 tháng 2 năm 2004.
J. D. Murray, How the leopard gets its spots? Scientific American, 258(3): 80-87, 1988.
Xem thêm
Tin sinh học
Liên kết ngoài
Society for Mathematical Biology
European Society for Mathematical and Theoretical Biology
Centre for Mathematical Biology at Oxford University
Mathematical Biology at the National Institute for Medical Research
Institute for Medical BioMathematics
Mathematical Biology Systems of Differential Equations from EqWorld: The World of Mathematical Equations
Toán học ứng dụng
Tin sinh học
Sinh học
Dịch tễ học
Lĩnh vực giao thoa
Thống kê
Hệ thống | VI_open-0000000008 | Science |
Encyclopædia Britannica hay Bách khoa toàn thư Britannica (tiếng Latinh của Bách khoa toàn thư Anh Quốc;) là một bách khoa toàn thư tiếng Anh tổng hợp có sẵn trong bộ sách, trên DVD, và trên Internet, do công ty Encyclopædia Britannica, Inc. biên soạn và xuất bản. Công ty này thuê vào khoảng 100 nhà biên soạn và nhận bài viết từ hơn 4.000 nhà chuyên môn để liên tục cập nhật và phát triển bách khoa toàn thư. Tác phẩm này được nhiều người cho là một trong những bách khoa toàn thư có thẩm quyền nhất. Tuy nhiên, một cuộc nghiên cứu gây xôn xao bởi Nature vào năm 2005 khi so sánh các bài viết về khoa học của Britannica và Wikipedia (kể cả bộ Britannica phiên bản web) thì kết quả cho thấy tỉ lệ lỗi sai của Wikipedia là 3,86 lỗi trên mỗi bài, còn của Britannica là 2,92 lỗi trên mỗi bài.
Nội dung
Lần in thứ 15 hiện tại có một cấu trúc ba thành phần đặc biệt: bộ Micropædia 12 quyển chỉ có bài ngắn (thường ít hơn 750 từ), bộ Macropædia 17 quyển có bài dài (mỗi bài là 2–310 trang), và một quyển Propædia để đặt hệ thống thứ bậc cho kiến thúc. Bộ Micropædia có mục đích tra cứu nhanh và định hướng sử dụng bộ Macropædia; những người đọc được khuyên nên đọc bài sơ lược trong Propædia để hiểu bối cảnh của một đề tài và tìm bài liên quan. Kích cỡ của Britannica không thay đổi nhiều trong thời gian hơn 70 năm qua với vào khoảng 40 triệu từ nói về nửa triệu đề tài. Tuy bách khoa toàn thư được xuất bản tại Chicago, Hoa Kỳ, từ 1901, nhưng Britannica vẫn giữ cách viết Anh, thí dụ "æ", chữ cổ nối "a" và "e", trong tên của tác phẩm.
Lịch sử
Bộ Britannica là bách khoa toàn thư tiếng Anh lâu đời nhất. Nó được in lần đầu tiên từ 1768 đến 1771 tại Edinburgh, Scotland, trong ba quyển. Bách khoa toàn thư từ từ phát triển lớn, cho tới 20 quyển vào lần in thứ 4 nổi tiếng (1801–1809). Tiếng tăm của nó thu hút những người đóng góp nổi tiếng, và các lần in thứ 9 (1875–1889) và thứ 11 (1911) được coi là cực điểm về nghiên cứu và văn chương trong bách khoa toàn thư. Bắt đầu với lần in thứ 11, bộ Britannica thu ngắn và đơn giản hóa các bài viết để mở rộng tập thể độc giả tại Bắc Mỹ. Năm 1933, bộ Britannica trở thành bách khoa toàn thư đầu tiên thực hiện mô hình "sửa lại liên tục", tức bách khoa toàn thư luôn được in lại và các bài được cập nhật theo đúng ngày. Tuy nhiên, mô hình này vẫn không kịp kỹ thuật mới.
Ngày 13 tháng 3 năm 2012, nhà xuất bản tuyên bố ngừng phát hành bản in (chấm dứt việc ấn hành bản giấy) Encyclopædia Britannica sau 244 năm để tập trung phát triển bách khoa toàn thư trực tuyến.
Britannica Concise Encyclopædia
Britannica Concise Encyclopædia là Bách khoa toàn thư Britannica rút gọn, chỉ là một cuốn gồm 28.000 bài tóm tắt lại các bài trong bộ Britannica 32 cuốn. Cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt thành một bộ hai cuốn có tên là Từ điển Bách khoa Britannica gồm 25 ngàn bài, tổng cộng là 3.000 trang, được bổ sung thêm gần 300 mục từ về Việt Nam. Dự án Việt hóa Từ điển bách khoa Britannica được thực hiện với sự tham gia của 54 dịch giả, chuyên gia trong nhiều lĩnh vực.
Xem thêm
Danh sách bách khoa toàn thư theo ngôn ngữ
Bách khoa toàn thư lịch sử:
L'Encyclopédie
Cyclopaedia, or an Universal Dictionary of Arts and Sciences
Bách khoa toàn thư in:
Encyclopedia Americana
World Book Encyclopedia
Brockhaus Enzyklopädie
Từ điển bách khoa Việt Nam
Bách khoa toàn thư điện tử:
Encarta
Wikipedia tiếng Anh
Nhân vật liên quan:
Colin Macfarquhar
Walter Yust
Thomas Macall Fallow
Chú thích
Liên kết ngoài
Website chính thức của số mới nhất của Encyclopædia Britannica
Số Encyclopædia Britannica năm 1911
Encyclopædia Britannica
Văn hóa Vương quốc Liên hiệp Anh
Sách năm 1768
Bách khoa toàn thư trực tuyến | VI_open-0000000012 | Computers_and_Electronics |
1,4-Cyclohexadien là một cycloanken dễ bắt cháy, ở điều kiện tiêu chuẩn nó là một chất lỏng trong suốt không màu.
1,4-Cyclohexadien và các hợp chất có liên quan có thể điều chế từ benzen với sự tham gia của lithi hay natri trong amonia lỏng, quy trình này gọi là phản ứng khử Birch. Tuy nhiên 1,4-cyclohexadien rất dễ bị oxy hóa thành benzen. Sự chuyển hóa thành vòng thơm có thể được thực hiện trong phòng thí nghiệm với việc sử dụng anken chẳng hạn như styren, cùng với các chất chuyển hiđrô như paladi kim loại với sự có mặt của than củi.
γ-Terpinen là dẫn xuất có nguồn gốc tự nhiên của 1,4-cyclohexadien, được tìm thấy trong các tinh dầu của rau mùi (Coriandrum sativum), chanh (Citrus × limon) và thì là Ai Cập (Cuminum cyminum).
Xem thêm
Benzen
Cyclohexan
1,2-Cyclohexadien
1,3-Cyclohexadien
Cyclohexen
Tham khảo
Cycloalken | VI_open-0000000013 | Science |
Ngày 1 tháng 1 là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm.
Lịch sử
Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma, nhiều quốc gia ở Tây Âu đã bắt đầu năm mới với một trong những lễ hội quan trọng của người Cơ đốc giáo – 25 tháng 12 (Ngày Chúa Giêsu ra đời), ngày 1 tháng 3, ngày 25 tháng 3 (Ngày thiên sứ truyền tin cho Maria) và cả lễ Phục Sinh. Các quốc gia Đông Âu (hầu hết trong số họ có dân số đông thể hiện lòng trung thành với Chính thống giáo) đã bắt đầu năm thứ nhất vào ngày 1 tháng 9 từ khoảng 988.
Hầu hết các nước Tây Âu đã thay đổi ngày đầu năm là ngày 1 tháng 1 trước khi họ chấp nhận lịch Gregorian. Ví dụ, Scotland đã thay đổi sự bắt đầu của năm mới Scotland đến ngày 1 tháng 1 năm 1600. Anh, Ireland và các thuộc địa Anh thay đổi đầu năm là ngày 1 tháng 1 năm 1752. Cuối năm đó vào tháng 9, lịch Gregorian được giới thiệu trên khắp nước Anh và thuộc địa của Anh. Hai cải cách này được thực hiện theo Đạo luật Lịch (Phong cách Mới) năm 1750.
Ngày 1 tháng 1 đã trở thành sự khởi đầu chính thức của năm ở một số quốc gia từ:
1362 – Đại công quốc Litva
1522 – Cộng hòa Venezia
1544 – Đế quốc La Mã Thần thánh (Đức)
1556 – Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1559 – Phổ, Thụy Điển
1564 – Pháp
1576 – Nam Hà Lan
1579 – Công quốc Lorraine
1583 – Bắc Hà Lan
1600 – Scotland
1700 – Nga
1721 – Tuscany
1752 – Vương quốc Anh (trừ Scotland) và thuộc địa
Sự kiện
153 TCN – Các quan chấp chính Đế quốc La Mã bắt đầu năm đảm nhiệm chức vụ của họ.
45 TCN – Lịch Julius lần đầu tiên có hiệu lực.
42 TCN – Viện nguyên lão Lã Mã truy thần hóa cho Julius Caesar.
69 – Lê dương La Mã tại Thượng Germania khước từ lời thề trung thành với Galba. Họ nổi dậy và tuyên bố Vitellius là hoàng đế.
193 – Viện nguyên lão chọn Pertinax làm Hoàng đế La Mã.
404 – Sau khi buộc Tấn An Đế phải thiện vị, Sở vương Hoàn Huyền lên ngôi hoàng đế, tức ngày Nhâm Thìn (3) tháng 12 năm Quý Mão.
417 – Hoàng đế Honorius ép Galla Placidia kết hôn với Constantius III, vị tướng nổi tiếng của ông.
896 – Đường Chiêu Tông ban cho quân phiệt người Sa Đà Lý Khắc Dụng tước Tấn vương, tức ngày Ất Mùi (13) tháng 12 năm Ất Mão.
976 – Quân Tống đánh chiếm kinh thành Kim Lăng của nước Nam Đường, Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục phụng biểu nạp hàng, tức ngày Ất Mùi (27) tháng 11 năm Ất Hợi.
1001 – Giáo hoàng Silvestrô II phong Đại công tước István I là quốc vương đầu tiên của Hungary.
1068 – Được người nhiếp chính Eudokia Makrembolitissa xá tội âm mưu soán vị, Romanos IV Diogenes kết hôn với bà để trở thành hoàng đế của Đông La Mã.
1259 – Mikhael VIII Palaiologos được tuyên bố là đồng hoàng đế của Đế quốc Nicaea cùng với người bảo trợ của ông là John IV Laskaris.
1438 – Albert II của Habsburg được trao vương miện trở thành vua Hungary.
1502 – Người Bồ Đào Nha lần đầu thám hiểm khu vực nay là thành phố Rio de Janeiro, Brasil.
1515 – Quốc vương François I bắt đầu cai trị Pháp.
1527 – Các quý tộc Croatia bầu Ferdinand I của Áo làm quốc vương của Croatia.
1600 – Scotland bắt đầu năm mới từ 1 tháng 1 thay vì 25 tháng 3.
1651 – Charles II đăng quang quốc vương của Scotland.
1700 – Đế quốc Nga bắt đầu sử dụng kỷ nguyên Công Nguyên và không còn sử dụng Kỷ nguyên Thế giới của Đế quốc Đông La Mã.
1707 – João V được trao vương miện trở thành vua Bồ Đào Nha.
1739 – Nhà thám hiểm người Pháp Jean–Baptiste Charles Bouvet de Lozier phát hiện ra đảo Bouvet gần Nam Cực.
1772 – Tấm séc du lịch đầu tiên có thể được sử dụng ở các thành phố châu Âu do Công ty Tín dụng Luân Đôn cấp.
1773 – Bài thánh ca mà sau được gọi là "Ân điển diệu kỳ", khi đó có tên "1 Chronicles 17:16–17" được sử dụng lần đầu để đệm cho một bài giảng đạo của mục sư John Newton tại thị trấn Olney, Buckinghamshire, Anh.
1781 – Cách mạng Mỹ: Một ngàn năm trăm binh sĩ thuộc Trung đoàn Pennsylvania 6 dưới quyền chỉ huy của Tướng Anthony Wayne chống lại Lục quân Lục địa ở Morristown, New Jersey ở Pennsylvania Line Mutiny.
1788 – Ấn bản đầu tiên của The Times tại Luân Đôn được phát hành, khi đó mang tên The Daily Universal Register.
1800 – Công ty Đông Ấn Hà Lan bị giải thể.
1801 – Việc hợp nhất về pháp lý giữa Vương quốc Anh và Vương quốc Ireland hoàn thành, hình thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland.
1801 – Nhà thiên văn học người Ý Giuseppe Piazzi phát hiện ra hành tin lùn Ceres.
1803 – Hoàng đế Gia Long ra lệnh cho tất cả các đồ bằng đồng của nhà Tây Sơn được thu thập đem đi nung chảy thành chín khẩu pháo cho Kinh thành Huế, Việt Nam.
1804 – Haiti giành độc lập từ Pháp và trở thành nước cộng hòa đầu tiên của người da đen, là cuộc cách mạng nô lệ thành công duy nhất đến thời điểm đó.
1806 – Lịch cộng hòa tại Pháp bị bãi bỏ.
1806 – Vương quốc Bayern được thành lập.
1808 – Việc nhập khẩu nô lệ vào Hoa Kỳ bị cấm.
1833 – Anh Quốc tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Falkland ở phía Nam Đại Tây Dương.
1861 – Porfirio Díaz chinh phục Thành phố México.
1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Tuyên ngôn giải phóng nô lệ có hiệu lực tại lãnh thổ Liên minh miền Nam.
1870 – Người đồng sáng lập nên kiến trúc hiện đại là Adolf Loos được rửa tội tại nhà thờ Thánh Tôma ở Brno, Đế quốc Áo–Hung.
1873 – Nhật Bản bắt đầu sử dụng Lịch Gregory.
1877 – Nữ vương Victoria của Anh Quốc được tuyên bố là hoàng đế của Ấn Độ.
1880 – Ferdinand de Lesseps bắt đầu công việc xây dựng Kênh đào Panama của người Pháp.
1890 – Chính phủ Ý hợp nhất Eritrea thành một thuộc địa.
1892 – Đảo Ellis được mở cửa để bắt đầu đón nhận người nhập cư vào Hoa Kỳ.
1899 – Sự cai trị của Tây Ban Nha đối với Cuba chấm dứt theo Hiệp định với Hoa Kỳ.
1901 – Nigeria trở thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh Quốc.
1901 – Các thuộc địa New South Wales, Queensland, Victoria, Nam Úc, Tasmania và Tây Úc liên bang hóa thành Thịnh vượng chung Úc; Edmund Barton được bổ nhiệm làm Thủ tướng Úc đầu tiên.
1902 – Cuộc thi bóng bầu dục đại học đầu tiên của Mỹ giữa Michigan và Stanford, được tổ chức tại Pasadena, California.
1908 – Lần đầu tiên, một quả cầu pha lê hạ xuống tại Quảng trường Thời đại ở Thành phố New York để biểu thị sự bắt đầu của Năm mới lúc nửa đêm.
1910 – Thuyền trưởng David Beatty được thăng chức Đô đốc và trở thành đô đốc trẻ nhất trong Hải quân Hoàng gia Anh (trừ các thành viên gia đình Hoàng gia), kể từ Horatio Nelson.
1911 – Lãnh thổ Bắc Úc được tách khỏi bang Nam Úc và được chuyển cho chính phủ Thịnh vương chung Úc quản lý.
1912 –Trung Hoa Dân Quốc chính thức được thành lập, Tôn Trung Sơn tuyên thệ nhậm chức Đại Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại phủ tổng thống ở Nam Kinh.
1914 – Hãng hàng không SPT trở thành hãng hàng không có lịch trình bay đầu tiên trên thế giới sử dụng máy bay có cánh.
1916 – Quân đội Đức Quốc xã từ bỏ Jaunde và thuộc địa Cameroon cho quân Anh và bắt đầu cuộc hành quân kéo dài đến Guineé thuộc Tây Ban Nha.
1920 – Tổ chức cộng sản Belorussian được thành lập như một đảng riêng biệt.
1923 – Đường sắt của Anh gồm 4 khu trọng điểm: LNER, GWR, SR và LMS.
1927 – Cuộc chiến Cristero bắt đầu ở México.
1927 – Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận lịch Gregory: ngay sau ngày 18 tháng 12 năm 1926 (lịch Julius) là ngày 1 tháng 1 năm 1927 (lịch Gregory).
1929 – Các cụm đô thị ở Point Grey, British Columbia và South Vancouver, British Columbia thuộc Canada được hợp nhất thành Vancouver.
1932 – Cục Bưu điện Hoa Kỳ phát hành 12 bộ tem kỷ niệm 200 năm ngày sinh của George Washington.
1934 – Đảo Alcatraz trở thành một nhà tù liên bang của Hoa Kỳ.
1934 – Đức quốc xã thông qua "Luật phòng ngừa con cái bị bệnh di truyền".
1937 – Kính an toàn trong kính chắn gió xe là bắt buộc tại Vương quốc Anh.
1942 – Tuyên bố của Liên Hợp Quốc được ký kết bởi 26 quốc gia.
1945 – Chiến tranh thế giới lần thứ hai: Để trả thù cho vụ thảm sát Malmedy, quân đội Mỹ giết 60 tù binh Đức tại Chenogne.
1946 – Thiên hoàng Chiêu Hòa của Nhật Bản ban bố Tuyên ngôn nhân gian, tuyên bố rằng Thiên hoàng không phải là thần thánh.
1947 – Chiến tranh lạnh: Các khu vực chiếm đóng của Anh và Hoa Kỳ tại Đức được hợp nhất để hình thành Bizone.
1947 – Đạo luật công dân Canada năm 1946 có hiệu lực, tất cả những người Anh đang sinh sống trên đất nước Canada sẽ có quốc tịch Canada. Thủ tướng William Lyon Mackenzie King trở thành công dân Canada đầu tiên.
1948 – Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc được thành lập tại Hồng Kông.
1949 – Lệnh ngừng bắn của Liên Hợp Quốc có hiệu lực tại Kashmir trước nửa đêm. Chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan bị tạm ngừng.
1956 – Sudan giành được độc lập từ Ai Cập và Anh Quốc.
1957 – George Town, Penang trở thành thành phố do sắc lệnh hoàng gia của nữ hoàng Elizabeth II.
1957 – Chính thức kết thúc sự bảo hộ của Pháp đối với Saarland, lãnh thổ này hợp nhất vào Tây Đức.
1958 – Cộng đồng Kinh tế châu Âu được thành lập.
1959 – Nhà độc tài người Cuba Fulgencio Batista bị lật đổ trong Cách mạng Cuba.
1960 – Cameroon giành được độc lập từ Pháp và Anh.
1962 – Samoa giành được độc lập từ New Zealand; đổi tên thành Nhà nước Độc lập Tây Samoa.
1964 – Liên bang Rhodesia và Nyasaland được chia thành các nước cộng hòa độc lập là Zambia và Malawi riêng khu vực Rhodesia do Anh kiểm soát.
1965 – Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan được thành lập tại Kabul, Afghanistan.
1966 – Sau một cuộc đảo chính, Đại tá Jean–Bédel Bokassa trở thành tổng thống của Cộng hòa Trung Phi.
1971 – Quảng cáo thuốc lá bị cấm quảng cáo trên các kênh truyền hình tại Hoa Kỳ.
1973 – Đan Mạch, Anh Quốc và Ireland được nhận vào Cộng đồng Kinh tế châu Âu.
1978 – Chiếc máy bay Boeing 747 855 của hãng hàng không Ấn Độ rơi xuống biển Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển Bombay, Ấn Độ, do trục trặc của thiết bị và sự mất phương hướng của phi công, làm chết 213 người.
1979 – Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
1981 – Hy Lạp được nhận vào Cộng đồng châu Âu.
1981 – Palau giành được quyền tự trị từ Hoa Kỳ.
1982 – Javier Pérez de Cuéllar trở thành người Mỹ Latinh đầu tiên nắm giữ cương vị Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
1983 – ARPANET chính thức chuyển sang dùng IP, hình thành nên Internet.
1984 – Brunei giành được độc lập từ Anh Quốc.
1984 – Công ty Viễn thông Hoa Kỳ (AT&T) phải đóng cửa 22 công ty con do việc giải quyết vụ kiện chống độc quyền Bộ Tư pháp Hoa Kỳ chống lại AT&T.
1985 – DNS của Internet được hình thành.
1985 – Cuộc gọi điện thoại di động đầu tiên tại Anh được thực hiện bởi Michael Harrison với cha của ông là Sir Ernest Harrison, chủ tịch công ty Vodafone.
1986 – Aruba độc lập từ Antille thuộc Hà Lan, song vẫn duy trì liên kết tự do với Hà Lan.
1988 – Giáo hội Tin Lành Lutheran được hình thành, sau phát triển thành giáo hội Luther – giáo hội lớn nhất ở Hoa Kỳ.
1989 – Nghị định thư Montreal về các chất gây suy giảm tầng ôzôn có hiệu lực.
1990 – Rowan Atkinson (hay Mr. Bean) ra mắt trên kênh truyền hình Thames Television.
1990 – David Dinkins tuyên thệ nhậm chức thành thị trưởng đầu tiên của thành phố New York.
1990 – VTV2 chính thức được lên sóng
1992 – Liên bang Nga chính thức được thành lập sau khi Liên Xô giải thể.
1993 – Sự chia cắt Tiệp Khắc: Tiệp Khắc chia thành 2 nước Cộng Hòa Séc và Slovakia.
1994 – Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực.
1995 – Tổ chức Thương mại Thế giới bắt đầu hoạt động.
1995 – Phần Lan, Áo và Thụy Điển gia nhập Liên minh châu Âu.
1995 – Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu trở thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu.
1995 – Phát hiện ra sóng Draupner trên vùng Biển Bắc thuộc Na Uy, xác nhận sự tồn tại của sóng độc.
1996 – Curaçao có được chính quyền giới hạn số lượng, mặc dù nó vẫn nằm trong Hiệp hội tự do với Hà Lan.
1997 – Nhà ngoại giao người Ghana Kofi Annan được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
1998 – Nga bắt đầu lưu thông đồng Rúp mới nhằm kiềm chế lạm phát và thúc đẩy lòng tin.
1998 – Ngân hàng Trung ương châu Âu được thành lập.
1999 – Bắt đầu bước thứ ba của Liên minh tiền tệ châu Âu, đồng Euro được đưa vào trong thanh toán chuyển khoản tại 11 quốc gia.
2002 – Đồng Euro trở thành tiền tệ hợp pháp tại 12 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
2002 – Trung Hoa Dân Quốc chính thức gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với tên gọi Lĩnh vực thuế quan cá biệt Đài–Bành–Kim–Mã, gọi tắt là Trung Hoa Đài Bắc.
2004 – Trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, tướng Pervez Musharraf giành chiến thắng với số phiếu 658 trong tổng số 1.170 phiếu tại Đại hội bầu cử Pakistan và theo Điều 41 của Hiến pháp Pakistan thì ông được coi là Tổng thống và nhiệm kì cho đến tháng 10 năm 2007.
2004 – Ba Lan, Estonia, Latvia, Litva, Slovenia, Slovakia, Cộng hòa Síp, Malta và Cộng hòa Séc gia nhập Liên minh châu Âu.
2007 – România và Bulgaria gia nhập Liên minh châu Âu, Slovenia gia nhập khu vực đồng Euro (Eurozone).
2007 – Chuyến bay Adam Air 574 mất tích tại eo biển Sulawesi, Indonesia với 102 người trên chuyến bay.
2008 – Síp và Malta gia nhập Eurozone.
2009 – 66 người chết trong một vụ cháy hộp đêm ở Băng Cốc, Thái Lan.
2010 – Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc chính thức có hiệu lực.
2010 – Một vụ đánh bom xe tự sát xảy ra tại Lakki Marwat, Pakistan, khiến 105 người thiệt mạng và hơn 100 người bị thương.
2011 – Một quả bom phát nổ ở Alexandria, Ai Cập làm chết 23 người.
2011 – Estonia chính thức thông qua đồng Euro và trở thành quốc gia thứ 17 trong Eurozone.
2013 – Ít nhất 60 người thiệt mạng và 200 người bị thương sau khi ăn mừng tại lễ hội Félix Houphouët–Boigny ở Abidjan, Bờ Biển Ngà.
2015 – Liên minh kinh tế Á–Âu có hiệu lực, tạo ra một liên minh chính trị và kinh tế giữa Nga, Belarus, Armenia, Kazakhstan và Kyrgyzstan.
2016 – Một tòa tháp tại Downtown Dubai bùng cháy vào nửa đêm khi năm mới sắp đến. Ngọn lửa bắt đầu vào đêm giao thừa năm 2015, chưa xác định được nguyên nhân. Có một người tử vong.
2017 – Một cuộc tấn công vào một hộp đêm ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, trong dịp năm mới, giết chết ít nhất 39 người và làm bị thương hơn 60 người khác.
2021 - Quận 2, Quận 9, quận Thủ Đức giải thể để thành lập thành phố Thủ Đức
2023 - Việt Nam chính thức bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú.
Sinh
Việt Nam
1830 – Nguyễn Phúc Miên Ngung, tước phong An Quốc công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1853)
1897 – Phanxicô Trương Bửu Diệp, linh mục người Việt Nam (m. 1946)
1906 – Chu Bá Phượng, chính trị gia người Việt Nam (m. 1964)
1914 – Nguyễn Chí Thanh, tướng lĩnh quân đội người Việt Nam (m. 1967).
1917 – Đỗ Mậu, tướng lĩnh quân đội người Việt Nam (m. 2002)
1920 – Trần Quỳnh, chính trị gia người Việt Nam (m. 2005)
1923 – Tôn Thất Xứng, Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2018)
1923 – Nguyễn Đăng Bảy, nhà quay phim người Việt Nam (m. 2007)
1924 – Lê Hạnh, chính trị gia người Việt Nam (m. 2013)
1926 – Ngô Du, Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 1987)
1927 – Lê Trung Tường, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2002)
1928 – Phạm Hữu Nhơn, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
1937 – Trần Kim Thạch, nhà địa chất học người Việt Nam (m. 2009)
1939 hoặc 1940 - Lê Gia Hội, là một nghệ sĩ ưu tú, ca sĩ opera người Việt Nam. (m. 2022)
1940 – Nguyễn Ánh 9, nhạc sĩ, nhạc công người Việt Nam (m. 2016)
1941 – Nguyễn Đăng Hưng, nhà cơ học người Việt Nam
1947 – Nhạc sĩ Hàn Châu
1979 – Phạm Thanh Thảo, ca sĩ người Việt Nam
1982 – Hòa Hiệp, diễn viên người Việt Nam
1984 – Dương Triệu Vũ, ca sĩ người Việt Nam
1992 – Mạc Hồng Quân, cầu thủ bóng đá người Việt Nam
1992 – Nguyễn Ngọc Kiều Khanh, người đẹp Việt kiều Đức
Các quốc gia khác
377 – Arcadius, hoàng đế Byzantine (m. 408)
1431 – Giáo hoàng Alexanđê VI (m. 1503)
1449 – Lorenzo de 'Medici, chính khách người Ý (m. 1492)
1453 – Bernardin Frankopan, quý tộc, nhà ngoại giao người Croatia (m. 1529)
1465 – Lachlan Cattanach Maclean XI, trưởng bộ tộc Scotland (m. 1523)
1467 – Sigismund I, vua Ba Lan cũ (m. 1548)
1470 – Magnus I, Công tước xứ Saxe–Lauenburg (m. 1543)
1484 – Ulrich Zwingli, mục sư và nhà thần học người Thụy Sĩ (m. 1531)
1500 – Solomon Molcho, nhà huyền môn người Bồ Đào Nha (m. 1532)
1509 – Guillaume Le Testu, nhà thám hiểm người Pháp (m. 1573)
1515 – Johann Weyer, bác sĩ người Hà Lan (m. 1588)
1516 – Margaret Leijonhufvud, nữ hoàng của vua Gustav I của Thụy Điển (m. 1551)
1526 – Louis Bertrand, nhà truyền giáo Tây Ban Nha đến Mỹ Latinh, vị thánh bảo trợ của Colombia (m. 1581)
1530 – Thomas Bromley, Thủ tướng Anh (m. 1587)
1545 – Magnus Heinason, anh hùng hải quân người Faroe (m. 1589)
1548 – Giordano Bruno, nhà toán học, tu sĩ, triết gia, nhà thơ và nhà lý thuyết vũ trụ học người Ý (m. 1600)
1557 – Stephen Bocskay, Hoàng tử Transylvania (m. 1606)
1560 – Hugh Myddelton, doanh nhân xứ Wales (m. 1631)
1561 – Thomas Walsingham, người phát ngôn hoàng gia Anh (m. 1630)
1579 – Jacob Dircksz de Graeff, thị trưởng Hà Lan (m. 1638)
1584 – Charles de Lorme, bác sĩ người Pháp (m. 1678)
1586 – Pau Claris i Casademunt, Giáo hội Catalunya (m. 1641)
1600 – Friedrich Spanheim, nhà thần học và học giả người Hà Lan (m. 1649)
1600 – Trương Hiến Trung, lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Minh, đồng thời với Lý Tự Thành
1628 – Christoph Bernhard, nhà soạn nhạc và nhà lý luận người Đức (m. 1692)
1638 – Thiên Hoàng Go–Sai của Nhật Bản (m. 1685)
1638 – Nicolas Steno, người tiên phong của Đan Mạch về giải phẫu học, nhà địa chất và giám mục (m. 1686)
1650 – George Rooke, đô đốc Hải quân Hoàng gia (m. 1709)
1655 – Christian Thomasius, nhà tư pháp và triết gia người Đức (m. 1728)
1684 – Arnold Drakenborch, học giả và nhà văn người Hà Lan (m. 1748)
1693 – Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu, hoàng thái hậu của triều Thanh, tức 25 tháng 11 năm Nhâm Thân (m. 1777)
1704 – Soame Jenyns, nhà văn, nhà thơ và chính trị gia người Anh (m. 1787)
1714 – Giovanni Battista Mancini, nhà văn người Ý (m. 1800)
1714 – Kristijonas Donelaitis, mục sư và nhà thơ người Litva (m. 1780)
1735 – Paul Revere, thợ bạc và thợ khắc người Mỹ (m. 1818)
1745 – Anthony Wayne,chính trị gia người Mỹ (m. 1796)
1750 – Frederick Muhlenberg, Bộ trưởng và chính trị gia Hoa Kỳ, Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ đầu tiên (m. 1801)
1752 – Betsy Ross, thợ may người Mỹ, được cho là người đã thiết kế quốc kì của Mỹ (m. 1836)
1768 – Maria Edgeworth, nhà văn người Anh gốc Ireland (m. 1849)
1769 – Jane Marcet, nhà khoa học người Anh (m. 1858)
1769 – Marie–Louise Lachapelle, bác sĩ sản khoa người Pháp (m. 1821)
1774 – André Marie Constant Duméril, nhà động vật học và học thuật người Pháp (m. 1860)
1803 – Edward Dickinson, chính khách Mỹ và là cha của nhà thơ Emily Dickinson (m. 1874)
1803 – Guglielmo Libri Carucci dalla Sommaja, nhà toán học và học thuật người Ý (m. 1869)
1806 – Lionel Kieseritzky, cầu thủ cờ tướng người Estonia (m. 1853)
1809 – Achille Guenée, luật sư và nhà côn trùng học người Pháp (m. 1880)
1813 – George Bliss, chính khách Mỹ (m. 1868)
1814 – Hồng Tú Toàn, thủ lĩnh nổi dậy người Trung Quốc, tức 10 tháng 12 năm Quý Dậu (m. 1864)
1814 – Hermann von Lüderitz, tướng lĩnh và chính trị gia người Đức (m. 1889)
1818 – William Gamble, tướng Mỹ (m. 1866)
1819 – Arthur Hugh Clough, nhà thơ và học giả người Anh gốc Ý (m. 1861)
1819 – George Foster Shepley, tướng Mỹ (m. 1878)
1823 – Sándor Petöfi, nhà thơ và nhà hoạt động chính trị người Hungary (m. 1849)
1833 – Robert Lawson, kiến trúc sư người Scotland gốc New Zealand, người thiết kế trường trung học Otago Boys và nhà thờ Knox (m. 1902)
1834 – Ludovic Halévy, tác giả và nhà viết kịch người Pháp (m. 1908)
1839 – Ouida, tác giả và nhà hoạt động người Anh gốc Ý (m. 1908)
1848 – John W. Goff, luật sư và chính trị gia người Mỹ gốc Á (m. 1924)
1852 – Eugène–Anatole Demarçay, nhà hóa học và học thuật người Pháp (m. 1904)
1853 – Karl von Einem, tướng lĩnh quân đội người Đức (m. 1934)
1854 – James George Frazer, nhà nhân loại học người Scotland (m. 1941)
1854 – Thomas Waddell, chính trị gia người Ireland gốc Úc, Thủ hiến thứ 15 của bang New South Wales (m. 1940)
1857 – Tim Keefe, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1933)
1859 – Michael Joseph Owens, nhà phát minh người Mỹ (m. 1923)
1859 – Thibaw Min, vua Myanmar (Miến Điện) (m. 1916)
1860 – Dan Katchongva, nhà lãnh đạo bộ tộc người Mỹ (m. 1972)
1860 – Jan Vilímek, họa sĩ người Séc (m. 1938)
1860 – John Cassidy, nhà điêu khắc và họa sĩ người Ireland (m. 1939)
1860 – Michele Lega, Đức Hồng y (m. 1935)
1863 – Pierre de Coubertin, nhà sư phạm, nhà sử học người Pháp, người thành lập Ủy ban Olympic Quốc tế (m. 1937)
1864 – Tề Bạch Thạch, họa sĩ người Trung Quốc (m. 1957)
1864 – Alfred Stieglitz, nhiếp ảnh gia người Mỹ (m. 1946)
1867 – Mary Ackworth Evershed, nhà thiên văn học và học giả người Anh (m. 1949)
1870 – Louis Vauxcelles, nhà phê bình nghệ thuật người Do Thái tại Pháp (m. 1943)
1871 – Montagu Toller, tay chơi cricket và luật sư người Anh (m. 1948)
1874 – Frank Knox, chính trị gia người Mỹ, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ thứ 46 (m. 1944)
1874 – Gustave Whitehead, phi công và kỹ sư người Mỹ gốc Đức (m. 1927)
1877 – Alexander von Staël–Holstein, nhà thần học người Đức (m. 1937)
1878 – Agner Krarup Erlang, nhà toán học, nhà thống kê và kỹ sư người Đan Mạch (m. 1929)
1879 – E. M. Forster, tác giả và nhà viết kịch người Anh (m. 1970)
1879 – William Fox, nhà biên kịch và nhà sản xuất người Mỹ gốc Hungary, thành lập Fox Film và Fox Theatres (m. 1952)
1880 – Vajiravudh (Rama VI), quốc vương Thái Lan (m. 1925)
1883 – Mary Forbes, nữ diễn viên người Anh (m. 1974)
1883 – William J. Donovan, tướng, luật sư và chính trị gia người Mỹ (m. 1959)
1884 – Chikuhei Nakajima, trung úy, kỹ sư và chính trị gia Nhật Bản, thành lập Công ty Máy bay Nakajima (m. 1949)
1884 – José Quirante, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên và quản lý người Tây Ban Nha (m. 1964)
1884 – Konstantinos Tsaldaris, chính trị gia người Ai Cập–Hy Lạp, Thủ tướng Hy Lạp (m. 1970)
1887 – Wilhelm Canaris, đô đốc Đức (m. 1945)
1888 – Georgios Stanotas, tướng Hy Lạp (m. 1965)
1888 – John Garand, kỹ sư người Mỹ gốc Canada, thiết kế súng trường M1 Garand (m. 1974)
1889 – Charles Bickford, diễn viên người Mỹ (m.1967)
1890 – Anton Melik, nhà địa lý và học thuật người Slovenia (m. 1966)
1891 – Sampurnanand, nhà giáo dục và chính trị gia Ấn Độ, Thống đốc thứ ba của Rajasthan (m. 1969)
1892 – Artur Rodziński, nhạc trưởng người Mỹ gốc Ba Lan (m. 1958)
1892 – Mahadev Desai, tác giả và nhà hoạt động người Ấn Độ (m. 1942)
1892 – Manuel Roxas, luật sư và chính khách Philippines, Tổng thống thứ năm của Philippines (m. 1948)
1893 – Mordechai Frizis, Đại tá Hy Lạp (m. 1940)
1894 – Satyendra Nath Bose, nhà vật lí và toán học người Ấn Độ (m. 1974)
1894 – Edward Joseph Hunkeler, mục sư người Mỹ (m. 1970)
1895 – J. Edgar Hoover, viên chức người Mỹ, giám đốc đầu tiên của FBI (m. 1972)
1900 – Sugihara Chiune, nhà ngoại giao người Nhật Bản (m. 1986)
1900 – Sam Berger, doanh nhân thể thao người Canada (m. 1992)
1900 – Shrikrishna Narayan Ratanjankar, học giả và giáo viên của nhạc cổ điển Hindustani Ấn Độ (m. 1974)
1900 – Xavier Cugat, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Tây Ban Nha (m. 1990)
1902 – Buster Nupen, tay chơi cricket và luật sư người Nam Phi (m. 1977)
1902 – Hans von Dohnányi, luật sư Đức (m. 1945)
1903 – Dwight Taylor, nhà biên kịch và nhà văn người Mỹ (m. 1986)
1904 – Fazal Ilahi Chaudhry, luật sư và chính trị gia Pakistan, Tổng thống thứ năm của Pakistan (m. 1982)
1905 – Stanisław Mazur, nhà toán học người Do Thái–Ba Lan (m. 1981)
1907 – Kinue Hitomi, người chạy nước rút và nhảy xa người Nhật Bản (m. 1931)
1909 – Dana Andrews, diễn viên người Mỹ (m. 1992)
1909 – Dattaram Hindlekar, tay chơi cricket người Ấn Độ (m. 1949)
1909 – Stepan Bandera, lính và chính trị gia Ucraina (m. 1959)
1910 – Koesbini, nhà soạn nhạc người Indonesia (m. 1991)
1911 – Audrey Wurdemann, nhà thơ và nhà văn người Mỹ (m. 1960)
1911 – Basil Dearden, nhà sản xuất và biên kịch người Anh (m. 1971)
1911 – Hank Greenberg, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1986)
1911 – Roman Totenberg, nghệ sĩ vĩ cầm người Mỹ gốc Ba Lan (m. 2012)
1912 – Khertek Anchimaa–Toka, chính trị gia người Tuva–Liên Xô (m. 2008)
1912 – Boris Vladimirovich Gnedenko, nhà toán học và sử gia người Nga (m. 1995)
1912 – Kim Philby, gián điệp người Anh (m. 1988)
1912 – Nikiforos Vrettakos, nhà thơ và học giả Hy Lạp (m. 1991)
1917 – Shannon Bolin, nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ (m. 2016)
1918 – Ed Price, lính, phi công và chính trị gia người Mỹ (m. 2012)
1918 – Patrick Anthony Porteous, đại tá Scotland, người nhận giải Huân chương Chữ thập Victoria (m. 2000)
1918 – Willy den Ouden, vận động viên bơi lội Hà Lan (m. 1997)
1919 – J. D. Salinger, lính và nhà văn người Mỹ (m. 2010)
1919 – Rocky Graziano, võ sĩ và diễn viên người Mỹ (m. 1990)
1919 – Yoshio Tabata, ca sĩ kiêm nhạc sĩ Nhật Bản (m. 2013)
1920 – Mahmoud Zoufonoun, nghệ sĩ violin người Mỹ gốc Iran (m. 2013)
1920 – Osvaldo Cavandoli, người vẽ tranh biếm họa người Ý (m. 2007)
1921 – César Baldaccini, nhà điêu khắc và học thuật người Pháp (m. 1998)
1921 – Ismail al–Faruqi, nhà triết học và học giả người Palestine (m. 1986)
1921 – Regina Bianchi, nữ diễn viên người Ý (m. 2013)
1922 – Ernest Hollings, lính Mỹ và chính trị gia Hoa Kỳ, Thống đốc thứ 106 của bang Nam Carolina (m. 2019)
1922 – Jerry Robinson, họa sĩ người Mỹ (m. 2011)
1922 – Roz Howard, tay xe đua người Mỹ (m. 2013)
1923 – Daniel Gorenstein, nhà toán học và học thuật người Mỹ (m. 1992)
1923 – Milt Jackson, nhà soạn nhạc và nhà phổ nhạc người Mỹ (Modern Jazz Quartet) (m. 1999)
1923 – Valentina Cortese, nữ diễn viên người Ý
1924 – Charlie Munger, doanh nhân và nhà từ thiện người Mỹ
1924 – Francisco Macías Nguema, chính trị gia người Guinea Xích đạo, Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Guinea Xích đạo (m. 1979)
1925 – Matthew Beard, diễn viên người Mỹ (m. 1981)
1925 – Paul Bomani, chính trị gia và nhà ngoại giao người Tanzania, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Tanzania (m. 2005)
1925 – Wahiduddin Khan, nhà hoạt động tôn giáo người Ấn Độ
1926 – Kazys Petkevičius, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Litva (m. 2008)
1927 – Calum MacKay, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada (m. 2001)
1927 – Doak Walker, cầu thủ bóng đá và doanh nhân người Mỹ (m. 1998)
1927 – James Reeb, mục sư và nhà hoạt động chính trị người Mỹ (m. 1965)
1927 – Maurice Béjart, vũ công, biên đạo múa và đạo diễn người Pháp–Thụy Sĩ (m. 2007)
1927 – Vernon L. Smith, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel Kinh tế
1928 – Ernest Tidyman, nhà văn và nhà biên kịch người Mỹ (m. 1984)
1928 – Gerhard Weinberg, sử gia, nhà văn và học giả người Mỹ gốc Đức
1928 – Khan Mohammad, tay chơi cricket người Pakistan (m. 2009)
1929 – Larry L. King, nhà báo, tác giả và nhà viết kịch người Mỹ (m. 2012)
1929 – Raymond Chow, nhà sản xuất phim Hong Kong, đồng sáng lập Orange Sky Golden Harvest
1930 – Frederick Wiseman, giám đốc và nhà sản xuất người Mỹ
1930 – Hussein Ershad, Tổng thống thứ 10 của Bangladesh
1930 – Gaafar Nimeiry, chính trị gia người Ai Cập gốc Sudan, Tổng thống thứ tư của Sudan (m. 2009)
1930 – Jean–Pierre Duprey, nhà thơ và nhà điêu khắc người Pháp (m. 1959)
1930 – Ty Hardin, diễn viên người Mỹ (m. 2017)
1932 – Giuseppe Patanè, nhạc trưởng người Ý (m. 1989)
1932 – Jackie Parker, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ (m. 2006)
1933 – Ford Konno, vận động viên bơi lội người Mỹ
1933 – James Hormel, nhà từ thiện và nhà ngoại giao Mỹ, Đại sứ Hoa Kỳ tại Luxembourg
1933 – Joe Orton, tác giả và nhà viết kịch người Anh (m. 1967)
1934 – Alan Berg, luật sư và phát thanh viên người Mỹ (m. 1984)
1934 – Lakhdar Brahimi, chính trị gia người Algeria, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Algeria
1935 – Om Prakash Chautala, chính trị gia người Ấn Độ
1936 – Don Nehlen, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ
1936 – James Sinegal, doanh nhân người Mỹ, đồng sáng lập Costco
1937 – John Fuller, nhà thơ và nhà văn người Anh
1937 – Matt Robinson, diễn viên và biên kịch người Mỹ (m. 2002)
1938 – Frank Langella, diễn viên người Mỹ
1938 – Robert Jankel, doanh nhân người Anh, thành lập Panther Westwinds (m. 2005)
1939 – Michèle Mercier, diễn viên người Pháp
1939 – Mohamed El Yazghi, chính trị gia người Maroc
1939 – Phil Read, tay đua xe máy và doanh nhân người Anh
1939 – Senfronia Thompson, chính khách Mỹ
1941 – F. R. David, nhạc sĩ người Pháp
1941 – Martin Evans, nhà di truyền học người Anh, đoạt giải Nobel Sinh học
1941 – Eva Ras, nữ diễn viên, nhà văn và họa sĩ người Serbia
1941 – Younoussi Touré, chính khách người Mali, Thủ tướng Mali
1942 – Alassane Ouattara, chính trị gia người Bờ Biển Ngà, Thủ tướng của Bờ Biển Ngà
1942 – Al Hunt, nhà báo Mỹ
1942 – Anthony Hamilton–Smith, Baron Colwyn III, nha sĩ và chính trị gia người Anh
1942 – Kornelije Kovač, nhà soạn nhạc người Serbia
1942 – Billy Lothridge, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 1996)
1942 – Country Joe McDonald, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ
1942 – Dennis Archer, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thị trưởng thứ 67 thành phố Detroit
1942 – Gennadi Sarafanov, đại tá, phi công và phi hành gia người Nga (m. 2005)
1942 – Judy Stone, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Úc
1943 – Bud Hollowell, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 2014)
1943 – Don Novello, diễn viên hài, biên kịch và nhà sản xuất người Mỹ
1943 – Jerilyn Britz, tay golf người Mỹ
1943 – Ronald Perelman, doanh nhân và nhà từ thiện người Mỹ, thành lập MacAndrews & Forbes
1943 – Tony Knowles, người lính Mỹ và chính trị gia, Thống đốc thứ 7 bang Alaska
1943 – Vladimir Šeks, luật sư và chính trị gia người Croatia, Thượng nghị sĩ thứ 16 của Quốc hội Croatia
1944 – Omar al–Bashir, chính trị gia người Sudan, tổng thống của Sudan
1944 – Barry Beath, cầu thủ bóng bầu dục người Úc
1944 – Charlie Davis, tên côn đồ người Trinidad
1944 – Mati Unt, tác giả, nhà viết kịch và đạo diễn người Estonia (m. 2005)
1944 – Teresa Torańska, nhà báo và nhà văn người Ba Lan (m. 2013)
1944 – Zafarullah Khan Jamali, người chơi khúc côn cầu và chính trị gia người Pakistan, Thủ tướng thứ 13 của Pakistan
1945 – Jacky Ickx, tay đua xe ô tô người Bỉ
1945 – Martin Schanche, tay đua xe ô tô người Na Uy
1945 – Victor Ashe, chính khách Mỹ và cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Ba Lan
1946 – Roberto Rivelino, cầu thủ bóng đá người Brasil
1946 – Carl B. Hamilton, nhà kinh tế và chính trị gia người Thụy Điển
1946 – Susannah McCorkle, ca sĩ người Mỹ (m. 2001)
1946 – Claude Steele, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ gốc Phi
1947 – Từ Tiểu Phụng, ca sĩ người Hồng Kông
1947 – Jon Corzine, trung sĩ và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc thứ 54 của bang New Jersey
1947 – Leon Patillo, ca sĩ và nhà truyền giáo người Mỹ
1947 – Leonard Thompson, tay golf người Mỹ
1948 – Devlet Bahçeli, nhà kinh tế học, học giả và chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ, Phó thủ tướng thứ 57 của Thổ Nhĩ Kỳ
1948 – Dick Quax, chính trị gia người New Zealand
1948 – Joe Petagno, họa sĩ người Mỹ
1948 – Pavel Grachev, tướng và chính khách Nga, Bộ trưởng Quốc phòng Nga đầu tiên (m. 2012)
1949 – Ljubodrag Simonović, nhà triết học, nhà văn người Serbia
1949 – Borys Tarasyuk, chính khách và nhà ngoại giao người Ukraina
1949 – Olivia Goldsmith, nhà văn người Mỹ (m. 2004)
1950 – Deepa Mehta, đạo diễn và biên kịch người Ấn Độ gốc Canada
1950 – James Richardson, nhà thơ người Mỹ
1950 – Tony Currie, cầu thủ bóng đá người Anh
1950 – Wayne Bennett, cầu thủ bóng bầu dục và huấn luyện viên người Úc
1951 – Takemiya Masaki, kỳ thủ cờ vây người Nhật Bản
1951 – Ashfaq Hussain, nhà thơ và nhà báo người Pakistan gốc Canada
1951 – Hans–Joachim Stuck, tay đua xe ô tô người Đức
1951 – Martha P. Haynes, nhà thiên văn học người Mỹ
1951 – Nana Patekar, diễn viên, biên kịch và đạo diễn phim người Ấn Độ
1951 – Radia Perlman, nhà thiết kế phần mềm và kỹ sư mạng người Mỹ
1952 – Hamad bin Khalifa al–Thani, quân chủ của Qatar
1952 – Rosario Marchese, nhà giáo dục và chính trị gia người Ý gốc Canada
1952 – Shaji N. Karun, đạo diễn và nhà quay phim người Ấn Độ
1953 – Gary Johnson, chính trị gia người Mỹ
1953 – Lynn Jones, cầu thủ bóng chày và huấn luyện viên người Mỹ
1954 – Bob Menendez, luật sư và chính trị gia người Mỹ
1954 – Dennis O'Driscoll, nhà thơ và nhà phê bình người Ireland (m. 2012)
1954 – Richard Edson, tay trống người Mỹ
1954 – Yannis Papathanasiou, kỹ sư và chính trị gia Hy Lạp, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp
1955 – Gennady Lyachin, thuyền trưởng người Nga (m. 2000)
1955 – LaMarr Hoyt, cầu thủ bóng chày người Mỹ
1955 – Mary Beard, học giả và nhà kinh điển học người Anh
1955 – Precestler, đô vật và quản lý người Canada
1955 – Simon Schaffer, học giả và sử gia người Anh về khoa học và triết học
1956 – Christine Lagarde, chính trị gia người Pháp, Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
1956 – Andy Gill, nghệ sĩ guitar kiêm ca sĩ–nhạc sĩ người Anh
1956 – John O'Donohue, nhà thơ, nhà văn, linh mục và triết gia người Ireland (m. 2008)
1956 – Mark R. Hughes, doanh nhân người Mỹ, người sáng lập Herbalife (m. 2000)
1956 – Martin Plaza, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Úc
1956 – Mike Mitchell, cầu thủ bóng rổ người Mỹ (m. 2011)
1956 – Sergei Avdeyev, kỹ sư và phi hành gia người Nga
1957 – Evangelos Venizelos, luật sư và chính trị gia Hy Lạp, Phó Thủ tướng Hy Lạp
1957 – Urmas Arumäe, luật sư và chính khách người Estonia, Bộ trưởng Tư pháp Estonia
1958 – Dave Silk, cầu thủ khúc côn cầu trên băng và huấn luyện viên người Mỹ
1958 – Grandmaster Flash, rapper và DJ người Barbados
1959 – Abdul Ahad Mohmand, đại tá, phi công người Afghanistan
1959 – Andy Andrews, tay vợt người Mỹ
1959 – Azali Assoumani, đại tá và chính trị gia người Comoros, Tổng thống Comoros
1959 – Michel Onfray, nhà triết học và nhà văn người Pháp
1959 – Panagiotis Giannakis, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Hy Lạp
1960 – Danny Wilson, cầu thủ bóng đá người Anh
1960 – Michael Seibert, vũ công và biên đạo múa người Mỹ
1960 – Toomas Vitsut, doanh nhân và chính trị gia người Estonia
1961 – Fiona Phillips, nhà báo người Anh
1961 – Sam Backo, cầu thủ bóng bầu dục người Úc
1961 – Sergei Babayan, nghệ sĩ dương cầm người Armenia gốc Mỹ
1962 – Anton Muscatelli, nhà kinh tế học người Ý gốc Scotland
1963 – Srđan Dragojević, đạo diễn và biên kịch điện ảnh người Serbia
1963 – Alberigo Evani, cầu thủ bóng đá và quản lý người Ý
1963 – Jean–Marc Gounon, tay đua người Pháp
1964 – Dedee Pfeiffer, nữ diễn viên người Mỹ
1965 – Andrew Valmon, huấn luyện viên người Mỹ
1965 – John Sullivan, chính trị gia người Mỹ
1965 – Miki Higashino, nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc người Nhật Bản
1966 – Anna Burke, nữ doanh nhân và chính trị gia người Úc, Chủ tịch thứ 28 của Hạ viện Úc
1966 – Ivica Dačić, nhà báo và chính trị gia người Serbia, Thủ tướng thứ 95 của Serbia
1966 – Tihomir Orešković, doanh nhân người Canada gốc Croatia, Thủ tướng thứ 11 của Croatia
1967 – Trần Cẩm Hồng, ca sĩ và diễn viên người Hồng Kông
1967 – Derrick Thomas, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 2000)
1967 – John Digweed, DJ, nhà sản xuất và diễn viên người Anh
1967 – Reza Sheykholeslam, chính trị gia người Iran
1967 – Spencer Tunick, nhiếp ảnh gia người Mỹ
1967 – Tawera Nikau, cầu thủ bóng bầu dục người New Zealand
1968 – Davor Šuker, cầu thủ bóng đá người Croatia
1969 – Morris Chestnut, diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ
1969 – Paul Lawrie, tay golf và nhà báo người Scotland
1969 – Verne Troyer, diễn viên người Mỹ (m. 2018)
1970 – Sergei Kiriakov, cầu thủ bóng đá người Nga
1971 – Andre Marriner, thành viên Hiệp hội bóng đá Anh
1971 – Bobby Holík, cầu thủ khúc côn cầu người Mỹ gốc Séc
1971 – Chris Potter, nghệ sĩ saxophone và nhà soạn nhạc người Mỹ
1971 – Juan Carlos Plata, cầu thủ bóng đá người Guatemala
1971 – Jyotiraditya Madhavrao Scindia, chính trị gia người Ấn Độ
1971 – Sammie Henson, đô vật và huấn luyện viên người Mỹ
1972 – Lilian Thuram, cầu thủ bóng đá Pháp
1972 – Shane Carruth, đạo diễn, nhà sản xuất, diễn viên, nhà soạn nhạc và nhà quay phim người Mỹ
1972 – Barron Miles, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ gốc Canada
1973 – Bryan Thao Worra, tác giả, nhà thơ và nhà soạn kịch người Lào gốc Mỹ
1973 – Danny Lloyd, diễn viên và nhà giáo dục người Mỹ
1973 – Magnus Sahlgren, nghệ sĩ guitar và nhà ngôn ngữ học người Thuỵ Điển
1973 – Shelda Bede, cầu thủ bóng chuyền người Brazil
1974 – Christian Paradis, luật sư và chính trị gia người Canada, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Canada thứ 9
1975 – Becky Kellar–Duke, vận động viên chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
1975 – Bengt Sæternes, cầu thủ bóng đá người Na Uy
1975 – Chris Anstey, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Úc
1975 – Fernando Tatís, cầu thủ bóng chày người Dominica
1975 – Joe Cannon, cầu thủ bóng đá Mỹ
1975 – Mohamed Albuflasa, nhà thơ và nhà hoạt động người Bahrain
1975 – Sonali Bendre, nữ diễn viên và người mẫu người Ấn Độ
1975 – Oda Eiichiro, họa sĩ truyện tranh người Nhật Bản
1976 – Mustafa Doğan, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ gốc Đức
1977 – Hasan Salihamidžic, cầu thủ bóng đá người Bosnia
1977 – Ngôn Thừa Húc, diễn viên và ca sĩ người Đài Loan
1977 – Craig Reucassel, diễn viên hài kịch người Úc
1977 – Leoš Friedl, tay vợt người Séc
1977 – María de la Paz Hernández, cầu thủ khúc côn cầu người Argentina
1977 – Rosena Allin–Khan, chính trị gia người Anh
1978 – Yohann Diniz, vận động viên marathon người Pháp
1978 – Philip Mulryne, cầu thủ bóng đá và linh mục người Bắc Ireland
1978 – Nina Bott, diễn viên múa người Đức
1979 – Brody Dalle, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Úc
1979 – Koichi Domoto, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Bản
1980 – Karina Jacobsgaard, tay vợt người Đan Mạch
1980 – Richie Faulkner, nghệ sĩ guitar và nhạc sĩ người Anh
1982 – David Nalbandian, tay vợt người Argentina
1982 – Egidio Arévalo Ríos, cầu thủ bóng đá người Uruguay
1982 – Luke Rodgers, cầu thủ bóng đá người Anh
1983 – Calum Davenport, cầu thủ bóng đá người Anh
1983 – Park Sung–hyun, cung thủ người Hàn Quốc
1984 – José Paolo Guerrero, cầu thủ bóng đá người Peru
1984 – Christian Eigler, cầu thủ bóng đá người Đức
1984 – Lance Brooks, tay ném đá người Mỹ
1984 – Michael Witt, cầu thủ bóng bầu dục Úc
1984 – Rubens Sambueza, cầu thủ bóng đá người Argentina
1984 – Stefano Pastrello, cầu thủ bóng đá người Ý
1985 – Jeff Carter, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
1985 – Steven Davis, cầu thủ bóng đá người Bắc Ireland
1985 – Tiago Splitter, cầu thủ bóng rổ người Brazil
1986 – Glen Davis, cầu thủ bóng rổ người Mỹ
1986 – Lee Sungmin, ca sĩ, vũ công và diễn viên người Hàn Quốc
1986 – Pablo Cuevas, tay vợt người Uruguay
1986 – Ramses Barden, cầu thủ bóng đá người Mỹ
1987 – Devin Setoguchi, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
1987 – Gilbert Brulé, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
1987 – Meryl Davis, vũ công trên băng của người Mỹ
1987 – Ryan Perrilloux, cầu thủ bóng đá người Mỹ
1987 – Serdar Özkan, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ
1988 – Grzegorz Panfil, vận động viên quần vợt người Ba Lan
1989 – Bae Geu–rin, nữ diễn viên người Hàn Quốc
1989 – Jason Pierre–Paul, cầu thủ bóng đá người Mỹ
1989 – Stefan Reinartz, cầu thủ bóng đá người Đức
1991 – Darius Slay, cầu thủ bóng đá người Mỹ
1992 – Daniel Kofi Agyei, cầu thủ bóng đá người Ghana
1992 – René Binder, tay đua người Áo
1992 – Jack Wilshere, cầu thủ bóng đá người Anh
1992 – Nathaniel Peteru, cầu thủ bóng bầu dục người New Zealand
1993 – Jon Flanagan, cầu thủ bóng đá người Anh
1993 – Michael Olaitan, cầu thủ bóng đá người Nigeria
1993 – Randa, rapper người New Zealand
1994 – Brendan Elliot, cầu thủ bóng bầu dục người Úc
1994 – Craig Murray, cầu thủ bóng đá người Scotland
1995 – Sardar Azmoun, cầu thủ bóng đá người Iran
1996 - Tiền Côn, ca sĩ người Trung Quốc, thành viên nhóm nhạc WayV/NCT
2001 - Winter, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc aespa
Mất
Việt Nam
1854 – Nguyễn Phúc Miên Túc, tước phong Ba Xuyên Quận công, hoàng tử con vua Minh Mạng (s. 1827)
2006 – Trần Xuân Bách, chính trị gia người Việt Nam (s. 1924)
2014 – Hà Thanh, ca sĩ người Việt kiều Mỹ (s. 1937)
Các quốc gia khác
138 – Lucius Aelius, con trai nuôi và là người kế nhiệm Hoàng đế Hadrianus (s. 101)
379 – Basilio Cả, giám mục người Hy Lạp (s. 329)
404 – Telemachus, tu sĩ và kị sĩ Kitô giáo
466 – Lưu Tống Tiền Phế Đế, hoàng đế của triều đại Lưu Tống (s. 449)
510 – Eugendus, trụ trì và vị thánh của Pháp (s. 449)
680 – Javanshir, vua Albania (s. 616)
827 – Adalard của Corbie, trụ trì Frankish
898 – Eudes I, quốc vương của Pháp (s. 860)
951 – Ramiro II, vua của vương quốc León và vương quốc Galicia (s. khoảng năm 900)
962 – Baldwin III, Bá tước vùng Flanders (s. 940)
1189 – Henry của Marcy, tu viện trưởng dòng Xitô (s. 1136)
1204 – Haakon III của Na Uy (s. 1170)
1387 – Charles II xứ Navarre (s. 1332)
1496 – Charles, Bá tước xứ Angoulême (s. 1459)
1515 – Louis XII, quốc vương của Pháp (s. 1462)
1559 – Christian III của Đan Mạch (s. 1503)
1560 – Joachim du Bellay, nhà thơ người Pháp (s. 1522)
1617 – Hendrik Goltzius, họa sĩ người Hà Lan (s. 1558)
1697 – Filippo Baldinucci, sử gia và nhà thơ vùng Florence (s. 1624)
1716 – William Wycherley, nhà viết kịch và nhà thơ người Anh (s. 1641)
1748 – Johann Bernoulli, nhà toán học người Thụy Sĩ (s. 1667)
1766 – James Francis Edward Stuart, người yêu cầu vương vị của Anh (s. 1688)
1782 – Johann Christian Bach, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1735)
1789 – Fletcher Norton, Baron Grantley đệ nhất, luật sư và chính trị gia người Anh, Chủ tịch Hạ viện Anh (s. 1716)
1793 – Francesco Guardi, họa sĩ và nhà giáo dục người Ý (s. 1712)
1796 – Alexandre–Théophile Vandermonde, nhà toán học và hóa học người Pháp (s. 1735)
1817 – Martin Heinrich Klaproth, nhà hóa học người Đức (s. 1743)
1846 – John Torrington, nhà thám hiểm người Anh (s. 1825)
1853 – Gregory Blaxland, nông dân và nhà thám hiểm người Úc (s. 1778)
1862 – Mikhail Ostrogradsky, nhà toán học và vật lý người Ukraine (s. 1801)
1881 – Louis Auguste Blanqui, nhà hoạt động xã hội người Pháp (s. 1805)
1892 – Roswell B. Mason, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thị trưởng thứ 25 của thành phố Chicago (s. 1805)
1894 – Heinrich Rudolf Hertz, nhà vật lý học người Đức (s. 1857)
1894 – Heinrich Hertz, nhà vật lý người Đức (s. 1857)
1896 – Alfred Ely Beach, nhà thiết kế và luật sư người Mỹ, người tạo ra Beach Pneumatic Transit (hay tàu điện ngầm đầu tiên ở thành phố New York (s. 1826)
1906 – Hugh Nelson, chính trị gia người Úc gốc Scotland, Thủ tướng bang thứ 11 của bang Queensland (s. 1833)
1918 – William Wilfred Campbell, nhà thơ và nhà văn người Canada (s. 1858)
1919 – Mikhail Drozdovsky, tướng Nga (s. 1881)
1921 – Theobald von Bethmann–Hollweg, luật sư và chính trị gia người Đức, Thủ tướng thứ năm của Đức (s. 1856)
1922 – István Kühár, linh mục và chính khách người Slovenia (s. 1887)
1929 – Mustafa Necati, công chức và chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ, Bộ trưởng Bộ Môi trường và Kế hoạch đô thị Thổ Nhĩ Kỳ (s. 1894)
1931 – Martinus Beijerinck, nhà vi trùng học và thực vật học người Hà Lan (s. 1851)
1937 – Bhaktisiddhanta Sarasvati, lãnh đạo tôn giáo Ấn Độ, người thành lập Toán Gaudiya (s. 1874)
1940 – Panuganti Lakshminarasimha Rao, nhà văn và nhà giáo dục Ấn Độ (s. 1865)
1944 – Edwin Lutyens, kiến trúc sư người Anh, người thiết kế lâu đài Drogo và Đài tưởng niệm Thiepval (s. 1869)
1944 – Charles Turner, tay chơi cricket người Úc (s. 1862)
1953 – Hank Williams, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ (s. 1923)
1954 – Duff Cooper, chính trị gia và nhà ngoại giao Anh, Hiệu trưởng Công tước Lancaster (s. 1890)
1954 – Leonard Bacon, nhà thơ và nhà phê bình người Mỹ (s. 1887)
1955 – Arthur C. Parker, nhà khảo cổ học và sử gia người Mỹ (s. 1881)
1960 – Margaret Sullavan, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1909)
1965 – Emma Asson, sử gia và chính trị gia người Estonia (s. 1889)
1966 – Vincent Auriol, nhà báo và chính trị gia người Pháp, Tổng thống thứ 16 của Cộng hòa Pháp (s. 1884)
1969 – Barton MacLane, diễn viên, nhà viết kịch và biên kịch người Mỹ (s. 1902)
1969 – Bruno Söderström, vận động viên nhảy sào và người ném lao người Thụy Điển (s. 1888)
1971 – Amphilochius của Pochayiv, vị thánh người Ukraine (s. 1894)
1972 – Maurice Chevalier, diễn viên và ca sĩ người Pháp (s. 1888)
1978 – Don Freeman, tác giả và họa sĩ người Mỹ (s. 1908)
1980 – Pietro Nenni, nhà báo và chính trị gia người Ý, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ý (s. 1891)
1981 – Hephzibah Menuhin, nghệ sĩ dương cầm người Mỹ gốc Úc (s. 1920)
1982 – Victor Buono, diễn viên người Mỹ (s. 1938)
1984 – Alexis Korner, ca sĩ và nhạc sĩ người Pháp gốc Anh (s. 1928)
1985 – Sigerson Clifford, nhà thơ, nhà viết kịch và công chức người Ireland (s. 1913)
1992 – Grace Hopper, nhà khoa học máy tính và sĩ quan hải quân Hoa Kỳ (s. 1906)
1994 – Arthur Porritt, Baron Porritt, bác sĩ và chính trị gia người New Zealand, Tổng thống thứ 11 của New Zealand (s. 1900)
1994 – Cesar Romero, diễn viên người Mỹ (s. 1907)
1994 – Edward Arthur Thompson, sử gia người Ireland (s. 1914)
1995 – Eugene Wigner, nhà vật lý và toán học người Hungary gốc Mỹ, đoạt giải Nobel Vật lý (s. 1902)
1996 – Arleigh Burke, Đô đốc Mỹ (s. 1901)
1996 – Arthur Rudolph, kỹ sư người Mỹ gốc Đức (s. 1906)
1997 – Ivan Graziani, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Ý (s. 1945)
1997 – Townes Van Zandt, ca sĩ, nhạc sĩ và nhà sản xuất người Mỹ (s. 1944)
1998 – Helen Wills, tay vợt và huấn luyện viên người Mỹ (sinh năm 1905)
2000 – Colin Vaughan, nhà báo và nhà hoạt động xã hội người Úc gốc Canada (s. 1931)
2001 – Ray Walston, diễn viên người Mỹ (s. 1914)
2002 – Julia Phillips, nhà sản xuất phim và nhà văn người Mỹ (s. 1944)
2003 – Joe Foss, lính, phi công, và chính khách người Mỹ, Thống đốc thứ 20 của bang Nam Dakota (s. 1915)
2003 – Royce D. Applegate, diễn viên và biên kịch người Mỹ (s. 1939)
2005 – Shirley Chisholm, nhà giáo dục và chính trị gia người Mỹ (s. 1924)
2005 – Eugene J. Martin, họa sĩ người Mỹ (s. 1938)
2006 – Harry Magdoff, nhà kinh tế học và nhà báo người Mỹ (s. 1913)
2007 – Leon Davidson, nhà hóa học và kỹ sư người Mỹ (s. 1922)
2007 – Roland Levinsky, nhà hóa sinh học và nghiên cứu sinh người Nam Phi gốc Anh (s. 1943)
2007 – Tillie Olsen, tác giả truyện ngắn người Mỹ (s. 1912)
2008 – Harold Corsini, nhiếp ảnh gia và nhà giáo dục người Mỹ (s. 1919)
2008 – Pratap Chandra Chunder, nhà giáo dục và chính trị gia người Ấn Độ (s. 1918)
2009 – Helen Suzman, nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc người Nam Phi (s. 1917)
2010 – Lhasa de Sela, ca sĩ–nhạc sĩ người Mỹ gốc Mexico (s. 1972)
2011 – Marin Constantin, nhà soạn nhạc và nhạc trưởng người Rumani (s. 1925)
2012 – Kiro Gligorov, luật sư và chính trị gia người Bulgaria gốc Macedonia, Tổng thống đầu tiên của Macedonia (s. 1917)
2012 – Nay Win Maung, bác sĩ, doanh nhân và nhà hoạt động xã hội người Myanmar (Miến Điện) (s. 1962)
2012 – Tommy Mont, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ (s. 1922)
2013 – Christopher Martin–Jenkins, nhà báo Anh (s. 1945)
2013 – Patti Page, ca sĩ và nữ diễn viên người Mỹ (s. 1927)
2014 – Higashifushimi Kunihide, nhà sư và nhà sư người Nhật Bản (s. 1910)
2014 – Juanita Moore, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1914)
2014 – Pete DeCoursey, nhà báo người Mỹ (s. 1961)
2014 – William Mgimwa, chính trị gia người Tanzania, Bộ trưởng Tài chính thứ 13 của Tanzania (s. 1950)
2015 – Boris Morukov, bác sĩ và nhà du hành vũ trụ người Nga (s. 1950)
2015 – Donna Douglas, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1932)
2015 – Mario Cuomo, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc 52 của bang New York (s. 1932)
2015 – Omar Karami, luật sư và chính trị gia người Lebanon, Thủ tướng thứ 58 của Lebanon (s. 1934)
2016 – Dale Bumpers, lính, luật sư, và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc thứ 38 của bang Arkansas (s. 1925)
2016 – Fazu Aliyeva, nhà thơ và nhà báo người Nga (s. 1932)
2016 – Mike Oxley, luật sư và chính trị gia người Mỹ (s. 1944)
2016 – Vilmos Zsigmond, nhà quay phim và sản xuất điện ảnh người Mỹ gốc Hungary (s. 1930)
2017 – Derek Parfit, nhà triết học người Anh (s. 1942)
2017 – Tony Atkinson, nhà kinh tế học người Anh (s. 1944)
2017 – Yvon Dupuis, chính trị gia người Canada (s. 1926)
2018 – Robert Mann, nghệ sĩ violin người Mỹ (s. 1920)
2020
Don Larsen (s. 1929)
David Stern (s. 1942)
Ngày lễ và kỷ niệm
Dương lịch
Tết dương lịch
Quốc khánh
Haiti – 1804
Trung Hoa Dân Quốc – 1912
Sudan – 1956
Cuba – 1959
Samoa – 1962
Brunei – 1984
Cộng hòa Séc – 1993
Slovakia – 1993
Truyền hình
VTV sử dụng logo tròn của Đài Truyền hình Việt Nam
Các ngày lễ khác
Ngày lễ Kitô giáo:
Adalard of Corbie
Basil the Great (Chính thống giáo Đông phương)
Lễ cắt bao quy đầu của Kitô giáo
Lễ Thánh Danh Chúa Jêsus (Hiệp thông Anh giáo, Giáo hội Lutheran)
Lễ hội của những kẻ điên (Châu Âu thời Trung cổ)
Ngày thánh Fulgentius
Ngày thánh Giuseppe Maria Tomasi
Ngày Lễ Phục Sinh của Chúa Giáng Sinh, được coi là một ngày lễ bổn phận thiêng liêng ở một số nước (Giáo hội Công giáo):
Ngày Hòa bình Thế giới
Ngày thánh Telemachus
Ngày thánh Zygmunt Gorazdowski
Ngày 1 tháng 1 (Phụng vụ chính thống Đông Phương)
Ngày cuối cùng của Kwanzaa (người Mỹ gốc Phi)
Ngày thứ tám trong mười hai ngày của lễ Giáng sinh (Tây Cơ đốc giáo)
Ngày Hiến pháp (Ý)
Ngày giải phóng nô lệ châu Phi (Hoa Kỳ)
Ngày đồng Euro (Liên minh châu Âu)
Ngày Quốc kỳ (Litva) kỷ niệm việc treo quốc kì của Lithuania trên đỉnh tháp Gediminas vào năm 1919
Ngày Thành lập (Đài Loan) kỷ niệm việc thành lập Chính phủ lâm thời tại Nam Kinh
Ngày Gia đình toàn cầu
Ngày Quốc tế Linh dương sừng móc của Nepal
Ngày mừng năm mới của Montserrat (Ngày Jump–up)
Ngày Kalpataru (Phong trào Ramakrishna)
Ngày Kamakura Ebisu, từ ngày 1 đến 3 tháng 1 (Kamakura, Kanagawa, Nhật Bản)
Ngày quốc gia cocktail Bloody Mary (Hoa Kỳ)
Ngày tết trồng cây (Tanzania)
Ngày đầu năm mới (lịch Gregorian)
Năm mới của Nhật Bản
Năm mới của Nga (Ngày Novy God)
Lễ hội Ryukyuan (Sjoogwachi) (Quần đảo Okinawa)
Ngày vì Gấu Bắc Cực (Canada và Hoa Kỳ)
Ngày phạm vi công cộng (nhiều quốc gia)
Ngày chiến thắng Cách mạng (Cuba)
Âm lịch
Tết Nguyên Đán
Tham khảo
01
Ngày trong năm | VI_open-0000000014 | People_and_Society |
Ngày 21 tháng 10 là ngày thứ 294 (295 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 71 ngày trong năm.
Sự kiện
1600 – Tokugawa Ieyasu giành thắng lợi trong trận Sekigahara, được xem là mốc khởi đầu Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản.
1805 – Quân Anh đại thắng liên minh Pháp–Tây Ban Nha trong trận Trafalgar.
1824 – Joseph Aspdin nhận bằng sáng chế về xi măng Portland, nay là một trong các loại xi măng thông dụng trên thế giới.
1854 – Florence Nightingale và 38 nữ điều dưỡng đến Thổ Nhĩ Kỳ để chăm sóc cho thương binh Quân đội Anh trong Chiến tranh Krym.
1944 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Cuộc tấn công Thần phong, hay Kamikaze, đầu tiên được tiến hành, mục tiêu là chiến hạm HMAS Australia ở ngoài khơi đảo Leyte thuộc Philippines.
1867 – Tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai của Ernest Hemingway được phát hành lần đầu.
1983 – Đại hội Cân đo quốc tế lần thứ 17 định nghĩa lại chiều dài của một mét là "khoảng cách mà ánh sáng truyền được trong chân không trong khoảng thời gian 1/299.792.458 giây".
Sinh
1822 – Nguyễn Phúc Miên Tể, tước phong Nghĩa Quốc công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1844)
1833 – Alfred Nobel, nhà hóa học, kỹ sư, nhà phát minh, nhà doanh nghiệp Thụy Điển, người đã phát minh ra thuốc nổ dynamite và lập ra các Giải Nobel (m. 1896)
1846 – Edmondo De Amicis, nhà văn, nhà báo và nhà thơ người Ý (m. 1908)
1981 – Nemanja Vidić, cầu thủ bóng đá người Serbia
1982 – Lee Chong Wei, cựu vận động viên cầu lông người Malaysia
1984 – Nguyễn Hoàng Ngân, vận động viên karatedo Việt Nam
1995 – Doja Cat, ca sĩ, rapper người Mỹ
1999 – Ekanit Panya, cầu thủ bóng đá người Thái Lan
Mất
1805 – Phó đô đốc, tử tước Horatio Nelson (s. 1758)
1956 – Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn (s. 1908)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng mười
Ngày trong năm | VI_open-0000000015 | News |
Nghịch lý Banach-Tarski nổi tiếng về kết quả "phi trực giác" của nó và thường được dùng để nhấn mạnh về sự bẻ gãy các ý kiến của con người trên một thể tích. Nghịch lý này được phát biểu bởi hai nhà toán học người Ba Lan Stefan Banach (1892-1945) và Alfred Tarski (1901-1983) vào năm 1924.
Trong trương hợp đặc biệt, nó chỉ ra rằng:
Một hình cầu đặc trong không gian Euclide 3 chiều có thể bị chia nhỏ ra làm một số hữu hạn các phần nhỏ mà sau đó lại được chuyển dịch để cấu trúc thành hai hình cầu có cùng một kích thước với hình cầu nguyên thủy.
Tham khảo
Banach-Tarski
Hình học
Banach-Tarski
Các nghịch lý toán học
Lý thuyết nhóm
Lý thuyết độ đo | VI_open-0000000016 | Science |
Phần mềm quảng cáo hay nhu liệu quảng cáo thường đính kèm với những mẩu quảng cáo nhỏ, chúng thường được phân phát dưới hình thức phần mềm miễn phí hay phiên bản dùng thử. Và chỉ khi bạn trả tiền cho sản phẩm dùng thử đó, các quảng cáo sẽ "teo" nhỏ hoặc biến mất tùy theo chính sách (policy) của hãng phần mềm đó. Bên cạnh đó, phần mềm gián điệp (spyware) cũng là một trong các "biến thể" của phần mềm quảng cáo, chúng được bí mật cài vào máy tính người sử dụng khi họ đang duyệt web. Các spyware này sẽ theo dấu người dùng khi họ lang thang trên Internet và ghi lại chúng, sau đó gửi thông tin về một địa chỉ nào đó trên Internet. Phần lớn các spyware thường vô hại, tuy nhiên, ngày nay bắt đầu xuất hiện nhiều những spyware đính kèm virus, sâu (worm) hoặc "ngựa thành Troa" (Trojan horse) có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho một hoặc một hệ thống máy tính.
Tham khảo
Quảng cáo trên Internet
Quảng cáo trực tuyến | VI_open-0000000017 | Internet_and_Telecom |
Bộ Đà điểu (Struthioniformes) là một bộ gồm các loài chim lớn, không biết bay có nguồn gốc từ Gondwana, phần lớn trong chúng hiện nay đã tuyệt chủng. Không giống như các loài chim không bay khác, các loài đà điểu không có xương chạc trên xương ức của chúng và như thế thiếu nơi neo đủ mạnh cho các cơ cánh của chúng, vì thế chúng không thể bay được mặc dù chúng có các cánh phù hợp cho việc bay lượn.
Phần lớn khu vực đại lục Gondwana cổ đã do các loài đà điểu chiếm lĩnh, hoặc có chúng cho đến thời gian tương đối gần đây.
Các loài còn sinh tồn
Đà điểu châu Phi là loài đà điểu lớn nhất hiện còn tồn tại. Thành viên lớn nhất của loài này có thể cao tới 3 m, cân nặng 135 kg và chạy nhanh hơn ngựa.
Đà điểu Emu là loài đứng thứ hai về kích thước, cao tới 2 m và cân nặng khoảng 60 kg. Giống như đà điểu châu Phi, nó chạy nhanh, là loài chim đầy sức mạnh của đồng bằng và miền rừng.
Cũng có nguồn gốc ở Australia và các đảo phía bắc là 3 loài Đà điểu đầu mào. Chúng ngắn hơn Emu và có cơ thể rắn chắc, đà điểu đầu mào ưa thích các cánh rừng nhiệt đới rậm rạp. Chúng có thể rất nguy hiểm khi bị dồn vào thế bí hay khi chúng bị bất ngờ. Tại New Guinea, trứng của đà điểu đầu mào bị lấy đi và cho nở thành con non để ăn thịt như là một loại đặc sản, mặc dù có (hay có lẽ do) những rủi ro mà chúng gây ra đối với tính mạng con người.
Các loài chim chạy nhỏ nhất là 5 loài chim kiwi ở New Zealand. Kiwi có kích thước cỡ như gà, chúng nhút nhát và nóng tính. Chúng làm tổ trong các hang sâu và sử dụng cơ quan khứu giác phát triển cao để bới đất nhằm tìm kiếm các loài côn trùng nhỏ. Kiwi đáng chú ý vì chúng đẻ trứng có tỷ lệ rất lớn so với kích thước cơ thể. Trứng chim kiwi có thể tương đương với 15-20% trọng lượng cơ thể chim mái.
Nam Mỹ có 2 loài đà điểu châu Mỹ có kích thước trung bình, chạy nhanh trên những cánh đồng cỏ hoang (pampa) ở Nam Mỹ. Các cá thể lớn nhất của loài đà điểu Nam Mỹ lớn (Rhea americana) có thể cao tới 1,5 m và cân nặng 20 – 25 kg. Tại Nam Mỹ còn có 47 loài trong 9 chi, bao gồm các loài chim nhỏ và cư trú dưới đất nhưng không phải là không bay được, thuộc họ Tinamidae và chúng có họ hàng gần với các loài đà điểu.
Các loài tuyệt chủng
Aepyornis, tức "chim voi" ở Madagascar, đã từng là loài chim lớn nhất được biết. Mặc dù chúng thấp hơn những con moa cao nhất, nhưng những cá thể to lớn nhất có thể cân nặng tới 450 kg. Có hai loài đã từng tồn tại khi con người di cư đến từ Borneo và châu Phi, có lẽ trong thế kỷ I. Cả hai dường như đã sống sót một thời gian khá dài: loài Aepyornis mullerornis nhỏ hơn có thể đã biến mất trước còn loài Aepyornis maximus to hơn có thể còn tồn tại cho đến tận đầu thế kỷ XVII.
Họ Dinornithidae (moa) có ít nhất là 11 loài khác nhau từng sinh sống tại New Zealand cho đến khi con người bắt đầu xuất hiện nhiều tại đây vào thế kỷ XIII hay sớm hơn. Chúng có kích thước dao động trong khoảng từ cỡ như gà tây cho tới moa khổng lồ (Dinornis giganteus) với chiều cao đạt 3,3 m (11 ft) và cân nặng tới 250 kg (550 lb). Giống như đà điểu đầu mào, moa chủ yếu sống trong các cánh rừng không có kẻ thù là các loài các động vật ăn thịt. Chúng được cho là bị tuyệt chủng vào khoảng năm 1500 do sự săn bắn trong vài trăm năm kể từ khi có sự định cư của con người. Tuy nhiên, một số người vẫn tin rằng các quần thể nhỏ có thể vẫn còn tồn tại trong các khu vực hoang vắng biệt lập cho tới thời gian gần đây.
Ngoài ra, các mảnh vỏ trứng tương tự như vỏ trứng của Aepyornis cũng được tìm thấy trên quần đảo Canary. Các mảnh này có niên đại tới Trung hay Hậu Miocen, và không có giả thuyết phù hợp nào đã được đề ra là chúng tới đây như thế nào do sự không chắc chắn về việc các đảo này có từng được nối liền với đại lục hay không.
Tiến hóa và hệ thống học
HIện tại tồn tại 2 phương thức tiếp cận phân loại học trong phân loại chim chạy: phương thức thứ nhất, được sử dụng tại bài này, kết hợp các nhóm như là các họ trong bộ Struthioniformes, trong khi phương thức thứ hai cho rằng các dòng dõi đã tiến hóa chủ yếu là độc lập với nhau và vì thế nâng các họ lên cấp bộ (như Rheiformes, Casuariiformes, Apterygiformes v.v.).
Một số nghiên cứu dựa trên hình thái học, miễn dịch học và trình tự DNA chỉ ra rằng các loài chim chạy là đơn ngành. Miêu tả truyền thống về tiến hóa của chim chạy là một nhóm xuất hiện ở dạng chim không bay tại Gondwana trong kỷ Creta, sau đó đã tiến hóa theo các hướng tách biệt do các châu lục bị trôi dạt ra xa nhau. Tuy nhiên, phân tích gần đây về biến thiên gen giữa các loài chim chạy lại mâu thuẫn với điều đó: phân tích DNA dường như chỉ ra rằng các loài chim chạy đã rẽ nhánh ra khỏi nhau quá gần đây để có thể chia sẻ cùng một tổ tiên Gondwana chung. Bên cạnh đó, hóa thạch Trung Eocen của "tiền-đà điểu" Palaeotis từ Trung Âu có thể ngụ ý rằng giả thuyết "ngoài Gondwana" là sai. Ngoài ra, phân tích gần đây với 20 gen hạt nhân đã đặt câu hỏi về tính đơn ngành của nhóm, gợi ý rằng các loài tinamou có thể bay được cũng gộp lại trong phạm vi dòng dõi chim chạy.
Nghiên cứu so sánh đối với toàn bộ trình tự DNA ti thể của các loài chim chạy còn sinh tồn cộng với 2 loài moa (khủng điểu) đặt moa tại vị trí cơ sở, tiếp theo là đà điểu châu Mỹ, tiếp nữa là đà điểu châu Phi, tiếp theo là kiwi, với đà điểu Úc (emu) và đà điểu đầu mào là các họ hàng gần gũi nhất. Một nghiên cứu khác lại đảo lại vị trí tương đối của moa và đà điểu châu Mỹ và chỉ ra rằng chim voi không phải là họ hàng gần của đà điểu châu Phi hay các loài chim chạy khác, trong khi nghiên cứu các gen hạt nhân lại chỉ ra là đà điểu châu Phi rẽ nhánh đầu tiên, tiếp theo là đà điểu châu Mỹ và tinamou, sau đó là kiwi tách ra từ đà điểu Úc và đà điểu đầu mào. Các nghiên cứu chia sẻ các niên đại rẽ nhánh ngụ ý rằng trong khi các tổ tiên của moa có thể từng tồn tại ở New Zealand kể từ khi nó tách ra khỏi các phần khác của Gondwana, các tổ tiên của kiwi dường như bằng một cách nào đó đã phát tán tới đây (New Zealand) từ Australia gần đây hơn, có lẽ thông qua cầu đất liền hay bằng cách "nhảy" qua các đảo. Theo các phân tích có sớm hơn thì đà điểu châu Phi dường như đã tới châu Phi theo một lộ trình nào đó sau khi nó tách khỏi Nam Mỹ (như bằng xâm lấn đại lục Á Âu và sau đó châu Phi tách ra khỏi Ấn Độ), nhưng các dữ liệu hạt nhân chỉ ra rằng đà điểu châu Phi rẽ nhánh đầu tiên có lẽ phù hợp với trình tự tách mảng kiến tạo của Gondwana. Các khía cạnh khác (nhưng không phải tất cả) trong cổ địa sinh học chim chạy là phù hợp với giả thuyết hình thành loài theo địa lý (sự chia tách kiến tạo mảng của Gondwana).
Các nghiên cứu bộ gen phát sinh loài gần đây gợi ý rằng tinamou trên thực tế có thể thuộc về nhóm này. Nếu như thế, nó làm cho nhóm 'chim chạy' trở thành cận ngành chứ không phải đơn ngành. Điều này cũng đặt ra câu hỏi đáng chú ý về tiến hóa của khả năng bay được và khả năng không bay được trong nhóm này, do chim chạy theo truyền thống được cho là có tổ tiên không bay được và là nhóm đơn ngành, trong khi sự rẽ nhánh của tinamou trong phạm vi dòng dõi chim chạy chỉ ra rằng hoặc là khả năng bay được đã tái tiến hóa ở tinamou, hoặc là đã mất đi ở các loài chim chạy khác.
Vào năm 2014, một phân tích phát sinh chủng loài DNA ti thể bao gồm cả các thành viên hóa thạch chỉ ra rằng tinamou lồng sâu bên trong nhóm đà điểu. Đà điểu châu Phi được đặt ở nhánh đầu tiên (cơ sở), tiếp theo là đà điểu Nam Mỹ, sau đó là nhánh chứa moa và tinamou, tiếp theo là hai nhánh cuối cùng, một nhánh chứa emu và đà điểu đầu mào, trong khi nhánh còn lại chứa chim voi và kiwi. Mối quan hệ chị-em của moa-tinamou là phù hợp với các phát hiện khác có sớm hơn cũng như đương thời, trong khi mối quan hệ chị-em của chim voi và kiwi thì là phát hiện mới. Hỗ trợ bổ sung cho điều này cũng thu được từ phân tích hình thái học.
Ảnh hưởng đến văn minh loài người
Vào thời Ai Cập cổ đại, người ta dùng hình lông đà điểu để chỉ ý nghĩa chính nghĩa vì lông đà điểu tương đối bằng nhau.
Các loài viễn tưởng
Chocobo trong loạt trò chơi điện tử Final Fantasy là loài chim viễn tưởng tương tự như các loài chim chạy. Trong các trò chơi này thì chocobo là một dạng phương tiện vận tải,và chúng được cưỡi và kéo xe tương tự như ngựa.
Đáng chú ý là roc (từ tiếng Ba Tư: رخ - rokh) thời Ả Rập trung cổ, theo truyền thuyết là loài chim tương tự như các loài đà điểu và đủ lớn để có thể nhấc bổng cả voi. Theo vài nguồn thì nó chính là đà điểu châu Phi. Quân xe trong cờ vua có lẽ có nguồn gốc từ đây.
Hình ảnh
Ghi chú và Liên kết ngoài
Hóa thạch sống
Đà điểu | VI_open-0000000023 | Pets_and_Animals |
Vietnamese Curated Text Dataset. This dataset is collected from multiple open Vietnamese datasets, and curated with NeMo Curator
Please visit our Tech Blog post on NVIDIA's plog page for details. Link
We utilize a combination of datasets that contain samples in Vietnamese language, ensuring a robust and representative text corpus. These datasets include:
We use NeMo Curator to curate the collected data. The data curation pipeline includes these key steps:
Content diversity
Character based metrics
Token count distribution
Embedding visualization UMAP visualization of 5% of the dataset