Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Trịnh Cối độ bất năng chi thế nhật ích cô, nãi suất Lại Thế Mĩ, Nguyễn Sư Doãn, Trương Quốc Hoa cập gia tiểu nghênh hàng vu Mạc.
Trịnh Cối tự liệu không chống nổi, thế quân ngày càng cô lập, liền đem bọn Lại Thế Mỹ, Vũ Sư Doãn, Trương Quốc Hoa và vợ con đón hàng họ Mạc.
1,005
Kính Điển nạp chi, tứ Cối.
Kinh Điển tiếp nhận, phong cho Cối
1,006
tước Trung Lương hầu, dĩ Lại Thế Mĩ vi Khánh quận công, Nguyễn Sư Doãn vi Li quận công, Vương Trân vi Sơn quận công, sử các lĩnh bản bộ binh tiền tiến.
tước Trung Lương hầu, lấy Lại Thế Mỹ làm Khánh quận công, Nguyễn Sư Doãn làm Lý quận công, Vương Trân làm Sơn quận công, sai các tướng này dẫn quân bản bộ tiến trước.
1,007
Duy Vũ Sư Thước dục khí bản doanh nhập Yên Trường quan tòng Đế, nhiên sĩ tốt nguyện hàng vu Mạc bất khẳng tương tòng.
Duy có Vũ Sư Thước định bỏ doanh trại vào cửa quan Yên Trường theo vua, nhưng quân lính muốn hàng họ Mạc, không chịu theo.
1,008
Sư Thước bất đắc dĩ dữ chúng quy Mạc.
Sư Thước bất đắc dĩ phải về theo họ Mạc với mọi người
1,009
Mạc tứ tước Thuỷ quận công.
họ Mạc ban tước là Thuỷ quận công.
1,010
Thời, Hoàng Đình Ái trú doanh Kim Bôi giang tương bản bộ binh di cứ Đa Nẫm sách, suất Lê Khắc Thận, Nguyễn Hữu Liêu, dữ Hùng Trà hầu cụ dẫn binh nhập Yên Trường quan lai hội.
Bấy giờ Hoàng Đình Ái đóng quân ở sông Kim Bôi, đem quân bản bộ dời đến giữ sách Đa Nẫm, rồi dẫn Lê Khắc Thận, Nguyễn Hữu Liên và Hùng Trà hầu cùng đem quân vào cửa quan Yên Trường hội quân.
1,011
Hoành quận công tự tướng bản bộ quy Nghệ An dữ Nguyễn Bá quýnh phân thủ kì địa.
Hoành quận công tự đem quân bản bộ về Nghệ An cùng với Nguyễn Bá Quýnh chia giữ đất ấy.
1,012
Nhị thập nhật, Đế sắc phong Trịnh Tùng vi Trường quận công tiết chế.
Ngày 20, vua sắc phong Trịnh Tùng làm trưởng quận công, tiết chế
1,013
thuỷ bộ chư doanh, thống binh thảo tặc.
các dinh thuỷ bộ, cầm quân đánh giặc.
1,014
Thị nhật, Tiết chế Trịnh Tùng hội chư tướng, thiết yến uý lạo quân sĩ.
Hôm ấy, Tiết chế Trịnh Tùng hội các tướng, mở tiệc uý lạo quân sĩ.
1,015
Võ tướng Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Phổ quận công Trịnh Mô, Lương quận công Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Vệ Dương hầu Trịnh Bách, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Nghĩa quận công Đặng Huấn, Lai quận công Phan Công Tích, Vị quận công Lê Khắc Thận, Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu, Hùng Trà hầu Phạm Văn Khoái, Tây Hưng hầu Hà Thọ Lộc, cập tướng hiệu tam thập viên, văn thần lại bộ thượng thư Từ quận công Nguyễn Đình đẳng thập nhị viên, giai chỉ thiên vi thệ đồng mưu hiệp tế nhật dạ kế nghị phân binh cứ thủ các xứ luỹ môn tạc hào thụ sách thiết phục thủ hiểm dĩ phòng Mạc binh.
Võ tướng Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Tấn quận công Trịnh Mô , Lương quận công , Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Vệ Dương hầu Trịnh Bách, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Nghĩa quận công Đặng Huấn, Lai quận công Phan Công Tích, Vị quận công Lê Khắc Thận, Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu, Hùng Trà hầu Phạm Văn Khoái, Tây Hưng hầu Hà Thọ Lộc cùng 30 viên tướng hiệu, văn thần là bọn Lại bộ thượng thư Từ quận công Nguyễn Đình 12 viên, đều chỉ trời mà thề, đồng lòng chung sức, ngày đêm bàn kế đánh giặc, chia quân chiếm giữ cửa luỹ các xứ, đào hào đắp luỹ, đặt phục binh giữ nơi hiểm yếu để phòng quân Mạc.
1,016
Minh nhật, Mạc Kính Điển vọng kiến chi dĩ vi chân thành đại kinh bất cảm cận, tự dữ chư tướng nghị viết: Bất.
Hôm sau, Mạc Kính Điển trông thấy, cho là thành thật, sợ lắm, không dám đến gần, bàn với các tướng rằng: "Không
1,017
Nhược bất tốc chiến tiễu trừ tất vi hậu hoạn.
Không dồn hết công sức, thì chưa dễ dẹp được.
1,018
thị, giang tả tự Da Châu, Tàm Châu, giang hữu tự Lôi Dương, Nông Cống nguyên đầu cụ vi chiến trường cơ hãm vu tặc.
Do vậy, bên tả sông từ Da Châu, Tàm Châu, bên hữu sông, từ đầu nguồn hai huyện Lôi Dương, Nông Cống đều là chiến trường, hầu như mất hết vào tay giặc.
1,019
Thời, Thanh Hoa các huyện nhân dân tán vong điền vô canh chủng đa hoang ngạ yên.
Bấy giờ nhân dân các huyện ở Thanh Hoa tan tác tháo chạy, ruộng đồng bỏ không cày cấy, nhiều người bị chết đói.
1,020
Cửu nguyệt, sai Hà Khê hầu tướng binh xuất thủ Cẩm Thuỷ, Ai Luỹ, nhân phản hàng vu Mạc.
Tháng 9, sai Hà Khê hầu đem quân ra giữ luỹ Ai ở huyện Cẩm Thuỷ, nhân dịp này, y làm phản đầu hàng họ Mạc.
1,021
Đế dĩ Tây Hưng hầu Hà Thọ Lộc đại thủ kì địa.
Vua lấy Tây Hưng hầu Hà Thọ Lộc thay giữ đất ấy.
1,022
Tự thị, Mạc binh húng thất kinh, khủng thủ ngự giả đa bị trảm thích.
Từ đấy, quân Mạc phấp phỏng kinh sợ, lính thủ ngự bị đâm chém nhiều.
1,023
Hậu, hữu đạo đảm diêm nhập luỹ giả cầm hoạch trảm dĩ tuân chúng.
Sau có người gánh trộm muối vào luỹ, bị bắt chém để thị chúng.
1,024
Thị nguyệt, Vũ Sư Thước mật sử nhân tiềm nhập luỹ nội nạp hàng thư, khất phụ tội quy triều.
Tháng ấy, Vũ Sư Thước mật sai người ngầm vào trong luỹ dùng thư đầu hàng, xin mang tội về chầu.
1,025
Đế đắc Sư Thước tín thư, nãi hội chư tướng nghị đại tiến binh dĩ phục.
Vua nhận được thư của Sư Thước, liền hội các tướng bàn đem đại quân tiến đánh để lấy lại
1,026
cảnh thổ, phân vi tam đạo đại tiến.
đất nước, chia quân thành ba đạo cả tiến.
1,027
Sai An quận công Lại Thế Khanh, Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Phổ quận công Trịnh Mô, đẳng lĩnh binh xuất tả lộ thủ An Định du Vĩnh Phúc công lược Tống Sơn.
Sai bọn An quận công Lại Thế Khanh, Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Tấn quận công Trịnh Mô đem quân ra phía tả, từ huyện Yên Định qua huyện Vĩnh Phúc, đánh lấy huyện Tống Sơn.
1,028
Gia Trường quận công Trịnh Tùng vi Tả tướng tiết chế các xứ thuỷ bộ chư doanh tướng sĩ.
Gia phong Trường quận công Trịnh Tùng làm tả tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh quân thuỷ bộ các xứ.
1,029
Đế tự vi Đô tướng tổng đốc đại binh xuất trung lộ thủ Thuỵ Nguyên, Yên Định trực chí Đông Sơn trú doanh.
Vua tự làm đô tướng, thống đốc đại quân ra đường giữa, từ huyện Thuỵ Nguyên, qua huyện Yên Định thẳng đến đóng quân ở huyện Đông Sơn.
1,030
Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Nghĩa quận công Đặng Huấn, Lai quận công Phan Công Tích, Vệ Dương hầu Trịnh Bách đẳng lĩnh binh xuất Thạch lộ thủ Lôi Dương, Nông Cống, công lược Quảng Xương địa phương.
Bọn Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Nghĩa quận công Đặng Huấn, Lại quận công Phan Công Tích, Vệ dương hầu Trịnh Bách đem quân ra đường phía hữu, qua các huyện Lôi Dương và Nông Cống, đánh lấy miền Quảng Xương.
1,031
doanh bái kiến thỉnh tội.
lạy xin chịu tội.
1,032
Đế uý lạo chi phục những kì tước, phủ kì tướng sĩ tam quân đại hỉ.
Vua dùng lời an ủi, cho giữ chức cũ, vỗ về các tướng sĩ, ba quân đều cả mừng.
1,033
Sư Thước phục chí Tả tướng doanh bái yết, khấp tố cựu tình, cử chúng tận hoan.
Sư Thước lại đến dinh tả tướng, khóc kể lại tình nghĩa xưa, các quân đều rất vui vẻ.
1,034
Mạc binh mỗi chiến triếp bại, bất cảm phục tiến thoái thủ Bút Cương giang doanh.
Từ đấy, quan Thanh lừng lẫy, quân Mạc hễ đánh là thua, không dám tiến đánh nữa, lui về giữ dinh sông Bút Cương.
1,035
Nhị thập nhật, Đế sử nhân tạo phù kiều vu An Liệt giang hạ lưu quá Kim Bôi.
Ngày 20, vua sai người làm cầu phao ở phía hạ lưu sông An Liệt , qua Kim Bôi.
1,036
Đế dữ Tả tướng thống đại binh độ giang chí Kim Tử kinh du Thuần Hựu dĩ tiến kích Mạc chư dinh.
Vua cùng tả tướng đem đại binh qua sông, đến xã Kim Tử , đi tắt qua huyện Thuần Hựu để tiến đánh các dinh quân Mạc.
1,037
Mệnh Vũ Sư Thước chiêu tập bản huyện cựu binh đắc thiên nhân dư vi tiên phong, dữ Mạc binh khiêu chiến vu Lôi Tân giang độ.
Vũ Sư Thước chiêu tập quân cũ của huyện ấy, được hơn 1000 người, cho làm tiên phong khiêu chiến quân Mạc ở bến sông Lôi Tân .
1,038
Lại Thế Khanh, Lê Cập Đệ, đẳng công Tống Sơn, Nga Sơn thủ kì địa, sở chí Mạc binh bôn hội, nhân dân đắc phục kì nghiệp.
Bọn Lại Thế Khanh và Lê Cập Đệ đánh Tống Sơn và Nga Sơn, lấy được, đi đến đâu quân Mạc tan chạy đến đó, nhân dân được trở về yên nghiệp.
1,039
Thập nhị nguyệt, Mạc Kính Điển kiến luỵ.
Tháng 12, bọn Mạc Kính Điển thấy
1,040
chiến bất thắng, nãi nghị viết: Tiến binh công tiễu kình địch dĩ kinh cửu nguyệt bất năng thành công.
đánh mãi không được, bàn rằng: "Tiến quân đánh giặc mạnh đã trải 9 tháng trời mà chưa thành công.
1,041
Thả đông hàn giang hạc cánh, kiêm xuân thuỷ phương sinh lam chướng, tương khởi binh bất túc thực, nhân tư cựu thổ, thuỳ dữ ngã đồng tâm lục lực.
Hơn nữa, bây giờ mùa đông rét mướt, sông nước vơi cạn, lại thêm mưa xuân sắp đến, chướng khí sẽ sinh, quân không đủ ăn, người nào cũng nhớ quê, còn ai đồng lòng gắng sức với ta nữa.
1,042
Huống ngã binh tẩm dĩ giải đãi bất như thả tạm hồi binh dĩ đồ hậu cử nhi thủ toàn thắng dã.
Huống chi, quân ta lại dần dần trễ biếng, chi bằng hãy tạm rút quân về, lần sau sẽ đánh tới toàn thắng.
1,043
Câu dục kiên thủ kì địa khủng vô ích ư sự cơ vi địch nhân chi thủ tiếu nhĩ.
Nếu cứ giữ mãi chỗ này, sợ không có ích gì, chỉ khiến quân địch cười cho thôi".
1,044
Nãi lệnh tản trại nhi hồi.
Bèn hạ lệnh nhổ trại mà về.
1,045
Thị thời, Trịnh Cối dữ kì mẫu Thái Vương phu nhân cập gia tiểu, đồng Lại Thế Mĩ, Trương Quốc Hoa đẳng nghiệp dĩ đầu hàng vu Mạc, bất cảm quy nãi suất kì tử đệ nam nữ thiên dư nhân phù hải tuỳ Kính Điển phó kinh, đầu bái vu Mạc.
Bất ngờ Trịnh Cối và mẹ là Thái Vương phu nhân cùng vợ con và bọn Lại Thế Mỹ, Trương Quốc Hoa, đã trót đầu hàng họ Mạc, không dám trở về nữa, bèn đem con em trai gái hơn 1000 người ra biển theo Kính Điển về Kinh sư, đến lạy chào họ Mạc.
1,046
Thạch quận.
Thạch quận
1,047
công suất chúng nghệ khuyết đồn thủ thỉnh tội.
công đem quân đến cửa khuyết rập đầu xin chịu tội.
1,048
Nguyễn Sư Doãn tự suất tử đệ hồi cứ Ngọc Sơn đặc kì sơn cao thuỷ thâm bất khẳng quy thuận.
Nguyễn Sư Doãn đem con em về chiếm giữ huyện Ngọc Sơn , cậy chỗ núi cao sông sâu, không chịu quy thuận.
1,049
Đế nãi lệnh Lê Cập Đệ dữ chư tướng thống tinh binh tòng gian lộ chí Ngọc Sơn tập chi.
Vua sai Lê Cập Đệ cùng các tướng đem quân tinh nhuệ đi đường tắt đến huyện Ngọc Sơn đánh úp.
1,050
Sư Doãn dĩ tiên tri chi hạ thuyền dạ độn đầu hàng vu Mạc.
Sư Doãn đã biết trước, đang đêm xuống thuyền trốn đi đầu hàng họ Mạc.
1,051
Thị tuế, Hà Trung phủ đại thục gia hữu dư túc.
Năm ấy phủ Hà Trung được mùa to, nhà nào cũng thừa thóc.
1,052
Khanh, Nghĩa quận công Đặng Huấn, đẳng cụ vi Thiếu phó, liệt toạ kì thứ.
Khanh, Nghĩa quận công Đặng Huấn, đều được thăng làm thiếu phó, ngôi thứ ở hàng dưới.
1,053
Hựu bái Tả tướng đệ Trịnh Đỗ vi Thiếu bảo, Phúc Diễn hầu Trịnh Đồng vi Vĩnh Thọ hầu, Trịnh Nịnh vi Quảng Diên hầu, sử cụ lĩnh binh thảo tặc dĩ đồ khôi phục.
Lại phong em ruột của tả tướng là Trịnh Đỗ làm thiếu bảo Phúc Diễn hầu; Trịnh Đồng làm Vĩnh Thọ hầu, Trịnh Ninh làm Quảng Diên hầu, đều sai đem quân đánh giặc để mưu khôi phục.
1,054
Thất nguyệt, Mạc khiến Kính Điển đốc binh khấu lược Nghệ An các huyện.
Tháng 7, họ Mạc sai Kính Điển đốc suất quân lính vào cướp đánh các huyện ở Nghệ An.
1,056
Thị thời, Nghệ An chi dân cửu uý tặc uy, thế hựu viễn cách, quan quân bất năng cứu trợ, đa hàng vu Mạc.
Bấy giờ, dân Nghệ An sợ uy giặc đã lâu, địa thế lại xa cách, quan quân không thể cứu giúp được, phần nhiều đầu hàng họ Mạc.
1,057
Do thị, Đại hà dĩ Nam cụ vi tặc hữu.
Vì thế, từ sông Cả vào Nam đều là đất của giặc.
1,058
Dung quận công dữ tặc tướng Nguyễn Quyện tương cự, lực bất năng chi nãi khí thuyền tẩu nhập Hoá Châu vi tặc sở hoạch.
Hoàng quận công chống nhau với giặc Nguyễn Quyện, sức không địch nổi, bỏ cả thuyền chạy vào Hoá Châu, bị giặc bắt sống.
1,059
Đại Hà dĩ bắc hựu vi tặc sở hữu.
Từ sông Cả về Bắc, lại thành đất của giặc.
1,060
Tự thị, tặc thế phục chấn sở chí dân giai viễn độn.
Từ đó, thế giặc lại mạnh, đi đến đâu, dân đều bỏ chạy.
1,061
Thị niên, Thuận Hoá, Khang Lộc huyện nhân Mĩ quận công suất sở bộ binh dục đồ Đoan quận công Nguyễn Hoàng, tính kì chúng hàng vu Mạc.
Năm ấy, người huyện Khang Lộc, Thuận Hoá là Mỹ quận công đem quân bản bộ mưu đánh Đoan quận công Nguyễn Hoàng, thôn tính quân lính của Hoàng rồi về hàng họ Mạc.
1,062
Hoàng tri chi, suất dân công sát chi.
Hoàng biết được, đem quân đánh giết chết.
1,063
Thuận Hoá sảo an.
Đất Thuận Hoá tạm yên.
1,064
Mạc binh thoái hồi, Nghệ An phục định.
Quân Mạc rút về, Nghệ An lại yên.
1,065
Thập nguyệt, Đế mệnh Thái phó Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ lĩnh binh lược định Thiên Quan tất bình chi.
Tháng 10, vua sai Thái phó Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ đem quân vào đánh dẹp miền Thiên Quan, đều dẹp yên.
1,066
Thời Ai Lao quốc chủ Sạ Đẩu hiến hùng tượng tứ chích cập bảo vật cầu hôn.
Bấy giờ, chúa nước Ai Lao là Sạ Đẩu dâng 4 con voi đực và vật báu để cầu hôn.
1,067
Đế dục lân quốc hoà hảo, nãi dĩ Đế phi tiền nữ phong Ngọc Hoa công chúa giá chi.
Vua muốn hoà hảo với nước láng giềng, bèn đem con gái riêng của vợ mình, phong làm Ngọc Hoa công chúa gả cho.
1,068
Thị niên, Thanh Hoa chi địa nhất cốc bất thu, dân đại cơ đa lưu vong .
Năm ấy đất Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt.
1,069
Thời, Thuỵ Nguyên huyện Thái Lai sách nhân Lê Cảnh Thuần tự xưng Si nhân hầu.
Bấy giờ, người sách Thái Lai, huyện Thuỵ Nguyên là Lê Cảnh Thuần tự xưng là Si Nhân hầu.
1,070
Đế bổng hương lư đảo thiên tất, hốt hương lư đảo vu địa thượng,.
Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất.
1,071
tri kì vi bất tường, nãi chiếu cải nguyên vi Hồng Phúc nguyên niên.
Vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu thành Hồng Phúc năm thứ 1.
1,072
Tam nguyệt, Lê Cập Đệ âm hoài dị chí, mưu sát Tả tướng dĩ đoạt kì quyền, thường dụ Tả tướng thừa thuyền phù vu giang trung dĩ đồ chi.
Tháng 3, Lê Cập Đệ ngầm có chí khác, mưu giết Tả tướng để đoạt binh quyền, từng rủ Tả tướng đi thuyền ra giữa sông để giết.
1,073
Tả tướng giác, mưu nãi bất quả.
Tả tướng biết được, mưu ấy không thành.
1,074
Tự thị, lưỡng gia tương oán ngoại dạng hiệp lực dĩ đồ kích tặc nội các hoài nghi dĩ phòng gian thích.
Từ đấy, hai nhà thù oán nhau, bên ngoài thì giả vờ hiệp sức để lo đánh giặc, nhưng bên trong thì đều ngờ nhau, đề phòng ám hại nhau.
1,075
Thu thất nguyệt, Mạc sử Kính Điển đốc binh xâm Thanh Hoa, Nghệ An đẳng xứ.
Mùa thu, tháng 7, họ Mạc sai Kính Điển đốc suất quân lính xâm lấn các xứ Thanh Hoa, Nghệ An.
1,076
Đế cập chư tướng nghị, lệnh các huyện duyên hà quân nhân dự đồ tài súc nhập sơn lâm tị cư dĩ phòng tặc binh.
Vua bàn với các tướng, ra lệnh cho quân dân dọc sông của các huyện di chuyển của cải, súc vật tránh vào rừng núi để phòng quân giặc.
1,077
hướng đạo dẫn Hải Dương tướng Lập quận công thống thuỷ binh thuyền lục thập dư sưu thông hải đạo nhập khấu Thuận Hoá, Quảng Nam, đẳng xứ.
dẫn đường cho tướng Hải Dương là Lập quận công đem hơn 60 binh thuyền đi đường biển vào cướp các xứ Thuận Hoá và Quảng Nam.
1,078
Thổ nhân đa hàng.
Dân địa phương nhiều người đầu hàng.
1,079
Tự thị, tặc thế phục đại.
Từ đấy, thế giặc lại mạnh.
1,080
Thái phó Vị quận công Lê Khắc Thận phản, việt luỹ quy hàng vu Mạc.
Thái phó Vi quận công Lê Khắc Thận làm phản, vượt luỹ về hàng họ Mạc.
1,081
Tả tướng Trịnh Tùng thu hoạch kì tử Tuân, Khoái, Thầm, đẳng giai sát chi.
Tả tướng Trịnh Tùng bắt các con của Tuân, Khoái, Thầm đều giết cả.
1,082
Cửu nguyệt, Đế mệnh An quận công Lại Thế Khanh, Phổ quận công Trịnh Mô, Lai quận công Phan Công Tích đẳng lĩnh binh cứu Nghệ An.
Tháng 9, vua sai bọn An quận công Lại Thế Khanh, Tấn quận công Trịnh Mô, Lai quận công Phan Công Tích đem quân đi Nghệ An.
1,083
Cập chí, Mạc binh toại thoái.
Đến nơi thì quân Mạc rút lui
1,084
Nghệ An phục bình .
Nghệ An lại yên.
1,085
Đông thập nhất nguyệt, Đế mệnh Lai quận công Phan Công Tích kinh lược Thuận Hoá, uý lạo.
Mùa đông, tháng 11, vua sai Lai quận công Phan Công Tích đi kinh lược xứ Thuận Hoá, uý lạo
1,086
tướng sĩ.
các tướng sĩ.
1,087
Cập chí, cảnh nội đa trí ý vu Nguyễn Hoàng.
Khi đến xứ đó, rất chú ý đến Nguyễn Hoàng.
1,088
Cập quy, Hoàng thân tống chi.
Khi Công Tích về, Hoàng thân hành đi tiễn.
1,089
Nhị thập nhất nhật, Lê Cập Đệ thường hữu dị chí dục mưu hại Tả tướng Trịnh Tùng.
Ngày 21, Lê Cập Đệ từng có chí khác, định mưu hại Tả tướng Trịnh Tùng.
1,090
Nhữ đẳng tướng sĩ vô đắc kinh bố thoán phản giả hĩ tru.
Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động .
1,091
Đế văn chi hoàng cảm nãi dạ hạnh vu ngoại, tương Hoàng tử tứ nhân dữ cụ chí Nghệ An thành trú tất.
Vua nghe nói vậy, hoang mang nghi hoặc, đương đêm, bỏ chạy ra ngoài, đem theo bốn hoàng tử cùng chạy đến thành Nghệ An và ở lại đó.
1,092
Tả.
Tả
1,093
tướng dữ chư tướng nghị viết: Kim Đế thính tiểu nhân sàm ngôn, nhất đán khinh tương thần khí bá thiên vu ngoại.
tướng bàn với các tướng rằng: Nay vua nghe lời gièm của kẻ tiểu nhân, phút chốc khinh suất đem ngôi báu xuôi giạt ra ngoài.
1,094
phát vi tăng, đào nặc đắc miễn.
đầu làm sư, ẩn trốn được thoát.
1,095
Kim Bảo Lộc, An Lạc, Chu Nguyên đẳng thôn do hữu từ tại, ý Cảo tử ư thử yên.
Nay các thôn Bảo Lộc, An Lạc, Chu Nguyên vẫn còn đền thờ Cảo, có lẽ Cảo chết ở đó.
1,096
Chiêu Tông thần hoàng đế Huý Y, hựu huý Huệ, Thánh Tông chi tằng tôn, Kiến Vương Tân chi đích tôn, Cẩm Giang Vương Sùng chi trưởng tử dã, tại vị thất niên, vị Mạc Đăng Dung sở thí, Thọ nhị thập lục, táng Vĩnh Hưng lăng.
Chiêu Tông Thần Hoàng Đế Tên húy là Y, lại húy là Huệ, là con trưởng của Cẩm Giang Vương Sùng, đích tôn của Kiến Vương Tân, cháu bốn đời của Thánh Tông, ở ngôi 7 năm, bị Mạc Đăng Dung giết, thọ 26 tuổi, chôn ở lăng Vĩnh Hưng.
1,097
Thời, ký bản đãng chính phi dĩ xuất nội, thính gian dua ngoại, hoang cầm thú, hôn ám bất minh, cương phức tự dụng, kì vong dã nghi tai.
Bấy giờ trong buổi loạn lạc, quyền bính không ở trong tay, bên trong thì nghe lời xiểm nịnh gian trá, bên ngoài lại ham mê săn bắn chim muông, ngu tối bất minh, ương ngạnh tự phụ, bị nguy vong là đáng lắm!
1,098
Hồng Thuận bát niên, Tương Dực Đế ngộ hại vô tự, đại thần Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đẳng nghinh nhi lập chi.
Năm Hồng Thuận thứ 8 Tương Dực Đế bị hại, không có con nối, bọn đại thần Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đón lập vua.
1,099
Hậu quy Tây Đô củ suất nghĩa sư trực tiến chí kinh trục Trần Cảo, toại tức vị, cải nguyên Quang.
Sau về Tây Đô, xướng xuất nghĩa quân, tiến thẳng về Kinh sư, đuổi Trần Cảo, rồi lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Quang
1,100
Thiệu, dĩ đản nhật vi Nghi Thiên thánh tiết.
Thiệu, lấy ngày sinh làm Nghi Thiên thánh tiết.
1,101
Thất niên, nhi hạnh ngoại, Mạc Đăng Dung lập đệ Xuân tức vị, giáng đế vi Đà Dương Vương.
Được 7 năm thì ngự ra ngoài, Mạc Đăng Dung lập em ruột vua là Xuân lên ngôi, giáng vua làm Đà Dương Vương.
1,102
Thống Nguyễn ngũ niên, vị Đăng Dung sở sát.
Năm Thống Nguyên thứ 5 , bị Mạc Đăng Dung giết.
1,103
Hậu truy thượng tôn thuỵ vi Thần Hoàng Đế miếu hiệu Chiêu Tông.
Sau được truy dâng thuỵ hiệu là Thần Hoàng Đế, miếu hiệu Chiêu Tông.
1,104
Đinh Sửu Quang Thiệu nhị niên.
Đinh Sửu, Quang Thiệu năm thứ 2.
1,105