Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Thái hậu gia kì trung nhi bất dụng kì ngôn.
Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng lời ấy.
1,407
Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: Tô Hiến Thành thụ thác cô chi kí, tận trung, kiệt thành thiện xử vu biến, tuy chấn hám kích chàng nhi trung lưu ngất hồ chỉ trụ tốt, sử thượng an hạ thuận, bất quý cổ đại thần chi phong.
Sử thần Ngô Sỉ Liên nói: Tô Hiến Thành nhân việc ký thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn đứng vững như cột đá giữa dòng, khiến trên yêu dưới thuận, không thẹn với phong độ của đại thần đời xưa.
1,408
Huống lâm chung chi tế vị quốc tiến hiền, bất dĩ tư ân, thái hậu bất dụng kì ngôn, Lí thị chi bất hạnh dã.
Huống chi đến lúc sắp chết còn vì nước tiến cử người hiền, không vì ơn riêng, thái hậu không dùng lời nói của Hiến Thành là việc không may cho nhà Lý vậy.
1,409
Chiếu cấm hàm diêm thiết khí bất hứa vãng nguyên đầu mậu dịch.
Xuống chiếu cấm không được đem mắm muối và đồ sắt lên bán đổi ở đầu nguồn.
1,410
Canh Tí ngũ niên.
Canh Tý, năm thứ 5 , .
1,411
Xuân, định vương hầu nhập triều lệ.
Mùa xuân, định lệ các vương hầu vào chầu.
1,412
Thu bát nguyệt, đại.
Mùa thu, tháng 8, nước to.
1,413
Tân Sửu lục niên.
Tân Sửu, năm thứ 6 , .
1,414
Xuân chính nguyệt cố thái tử Long Xưởng suất gia thuộc nô lệ tứ hành đạo thiết dục mưu tác loạn.
Mùa xuân, tháng giêng, thái tử củ là Long Xưởng cầm đầu bọn gia thuộc nô lệ trộm cướp bừa bãi, muốn mưu làm loạn.
1,415
Hạ tứ nguyệt Huỳnh Hoặc nhập Nam Đẩu.
Mùa hạ, tháng 4, sao Huỳnh Hoặc đi vào chòm Nam Đẩu.
1,416
Đại cơ dân tử kỷ bán.
Đói to, dân chết gần một nửa.
1,417
Nhâm Dần thất niên.
Nhâm Dần, năm thứ 7 , .
1,418
Xuân chính nguyệt chiếu cầu hiền lương.
Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu cầu người hiền lương.
1,419
Trúc đàn bái tướng, dĩ Ngô Lí Tín vi thượng tướng quân, tương thuỷ bộ quân tuần bổ đạo kiếp.
Đắp đàn phong tướng, lấy Ngô Lý Tín làm Thượng tướng quân, đem quân thuỷ bộ đi tuần bắt trộm cướp.
1,420
Dĩ Lí Kính Tu vi Đế sư, nội tắc phụng thị kinh ốc, ngoại tắc giáo dân trung hiếu, tự thị Chiêu Linh thái hậu bất cảm manh dị đồ.
Lấy Lý Kinh Tu làm Đế sư , trong thì hầu việc giảng sách, ngoài thì dạy dân trung hiếu, từ đấy Chiêu Linh thái hậu không dám manh tâm mưu khác nữa.
1,421
Cấm thiên hạ bất đắc trước hoàng sắc phục.
Cấm người trong nước không được mặc áo sắc vàng.
1,422
Tiêm La quốc lai cống.
Nước Xiêm La sang cống.
1,423
Đông thập nhất nguyệt, Nhâm Ngọ sóc, nhật thực.
Mùa đông, tháng 11, ngày mồng 1 Nhâm Ngọ, nhật thực.
1,424
Giáp Thìn cửu niên.
Giáp Thìn, năm thứ 9 , .
1,425
Tiêm La Tam Phật Tề đẳng quốc thương nhân nhập Vân Đồn trấn tiến bảo vật khất hành mải mại.
Người buôn các nước Xiêm La và Tam Phật Tề vào trấn Vân Đồn dâng vật báu để xin buôn bán.
1,427
Đông thập nguyệt Tư Mông đẳng sách phản tự tương công kích.
Mùa đông, tháng 10, các sách Tư Mông v. v.. làm phản, đánh lẫn nhau .
1,428
Ất Tị thập niên.
Ất Tỵ, năm thứ 10 , .
1,429
Thu thất nguyệt, mệnh Kiến Khang Vương Long Ích suất sư thảo sách chư Man, bình chi.
Mùa thu, tháng 7, sai Kiến Khang Vương Long Ích đem quân đánh người Man ở sách Viêm, dẹp được.
1,430
Bính Ngọ thập nhất niên.
Bính Ngọ, năm thứ 11 , .
1,431
Xuân chính nguyệt Tống phong đế vi An Nam Quốc Vương chế lược viết: "Tức Lạc quốc dĩ triệu phong, ký tòng thế tập cực chân vương nhi tích mệnh, hà đãi thứ bệ, cái dị lễ dã.
Mùa xuân, tháng giêng, nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc Vương, chế thư đại khái nói: “Ngay bắt đầu đã phong cho tước ấp ở một nước yên vui, được theo lệ cha truyền con nối ban sắc mệnh cho được thực thụ tước vượng, cần gì phải đợi thăng dần theo thứ tự” .
1,432
Thu thất nguyệt hoạch bạch tượng tứ danh Thiên Tư
Mùa thu, tháng 7, bắt được voi trắng, đặt cho tên là Thiên Tư.
1,433
Chiếu cải nguyên Thiên Tư Gia Thuỵ nguyên niên.
Xuống chiếu đổi niên hiệu là Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 1.
1,434
Khiển Lê Hoè Khanh như Tống báo sính.
Sai Lê Hòe Khanh sang nhà Tống đáp lễ.
1,435
Đinh Mùi Thiên Tư Gia Thuỵ nguyên niên.
Đinh Mùi, năm thứ 2 , .
1,436
Hạ tứ nguyệt, lôi chấn thái miếu.
Mùa hạ, tháng 4, sét đánh nhà Thái Miếu.
1,437
Tây Vực tăng lai.
Có nhà sư Tây Vực đến.
1,438
Lục nguyệt địa chấn bạo phong.
Tháng 6, động đất, gió bão.
1,439
Thu thất nguyệt, Giáp Tí sóc nhật thực.
Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1 Giáp Tý, nhật thực.
1,440
Thái sư Đỗ An Di tốt, dĩ Thái phó Ngô Lí Tín phụ chính.
Thái sư Đỗ An Di chết, lấy Thái phó Ngô Lý Tín làm Phụ chính.
1,441
Kỉ Dậu tứ niên.
Kỷ Dậu, năm thứ 4 , .
1,442
Xuân nhị nguyệt, Tân Dậu, sóc, nhật thực, nhật nguyệt sắc xích như huyết.
Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1 Tân Dậu, nhật thực, mặt trời mặt trăng sắc đỏ như máu.
1,443
Canh Tuất ngũ niên.
Canh Tuất, năm thứ 5 , .
1,444
Thu thất nguyệt thái phó Ngô Lí Tín tốt, dĩ Đàm Dĩ Mông vi Thái Phó.
Mùa thu, tháng 7, Thái phó ngô Lý Tín chết, lấy Đàm Dĩ Mông làm Thái phó.
1,445
Tạo Ngoạn Dao chu.
Đóng thuyền Ngoạn Dao.
1,446
Thí thiên hạ sĩ nhân nhập thị ngự học.
Thi các sĩ nhân trong nước để vào hầu vua học.
1,447
Giáp Dần cửu niên.
Giáp Dần, năm thứ 9 , .
1,448
Thu thất nguyệt Hoàng thái tử Sảm.
Mùa thu, tháng 7, hoàng thái tử Sảm sinh.
1,449
sinh phong Đàm nguyên phi vi An Toàn hoàng hậu.
Phong Đàm nguyên phi làm An Toàn hoàng hậu.
1,450
Đại xá thiên hạ.
Đại xá thiên hạ.
1,451
Tứ kì lão thất thập dĩ thướng bạch các nhất sơ.
ban cho người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người một tấm lụa.
1,452
Đại bô nhị nhật vu miếu.
Mở tiệc rượu hai ngày ở miếu.
1,453
Đông thập nguyệt vũ bạo hữu đại như mã thủ giả.
Mùa đông, tháng 10, mưa đá, có tảng to bằng đầu ngựa.
1,454
Tạo Thiên Long bạc.
Đóng thuyền Thiên Long.
1,455
Ất Mão thập niên.
Ất Mão, năm thứ 10 , .
1,456
Xuân nhị nguyệt địa chấn.
Mùa xuân, tháng 2, động đất.
1,457
Lôi chấn Li Minh các.
Sét đánh gác Ly Minh.
1,458
Thí tam giáo tứ xuất thân.
Thi Tam giáo, cho đỗ xuất thân.
1,459
Đinh Tị thập nhị niên.
Đinh Tỵ, năm thứ 12 , .
1,460
Nguyên Hạ lục nguyệt hạn.
Mùa hạ, tháng 6, hạn.
1,461
Tạo Nghênh Thiềm cung.
Dựng cung Nghênh Thiềm.
1,462
Mậu Ngọ thập tam niên.
Mậu Ngọ, năm thứ 13 , .
1,463
Nguyên Xuân chính nguyệt, chiếu sa thải tăng đồ, tòng Đàm Dĩ.
Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu sa thải các tăng đồ, theo lời tâu của Đàm Dĩ
1,464
Thu thất nguyệt đại thuỷ.
Mùa thu, tháng 7, nước lớn.
1,465
Chiêm Thành sứ lai cống cầu phong.
Sứ Chiêm Thành sang cống và cầu phong.
1,466
Kỉ Mùi thập tứ niên.
Kỷ Mùi, năm thứ 14 , .
1,467
Nguyên Thu thất nguyệt đại thuỷ hoà cốc yêm một.
Mùa thu, tháng 7, nước to, lúa mạ ngập hết.
1,468
Canh Thân thập ngũ niên.
Canh Thân, năm thứ 15 , .
1,470
Xuân chính nguyệt phát túc chẩn bần dân.
Mùa xuân, tháng giêng, đem thóc chẩn cấp cho dân nghèo.
1,471
Thu thất nguyệt Chiêu Linh thái hậu băng.
Mùa thu, tháng 7, Chiêm Linh Thái hậu băng.
1,472
công chế nhạc khúc hiệu Chiêm Thành âm kì thanh, thanh oán ai thương văn giả khấp hạ.
công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo, ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mằt.
1,473
Tăng phó Nguyễn Thường viết: "ngô văn Thi tự vân loạn quốc chi âm oán nhi nộ kim dân loạn quốc khốn chủ thượng tuần du vô độ triều chính vặn loạn dân tâm quai li thị bại vong chi triệu dã.
Tăng phó Nguyễn Thường nói: “Ta nhge bài tựa Kinh Thi nói rằng: Âm thanh của nước loạn nghe như ai oán giận hờn. Nay dân loạn nước nguy, chúa thượng thì rong chơi vô độ, triều đình rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong”.
1,474
Quý Hợi Thiên Gia Bảo Hựu nhị niên.
Quý Hợi, năm thứ 2 , .
1,475
Xuân nhị nguyệt Đại Hưng thổ mộc dinh chư cung điện.
Mùa xuân, tháng 2, làm nhiều việc thổ mộc, dựng các cung điện.
1,476
Thu thất nguyệt điện tiền chỉ huy sứ tri Nghệ An châu Đỗ Thanh châu mục Phạm Diên tấu viết: Chiêm Thành quốc chủ Bố Trì vi kì thúc phụ Bố Điền sở trục, kim tải thê tử ngụ Cơ La hải khẩu, ý dục cầu cứu.
Mùa thu, tháng 7, Điện tiền chỉ huy sứ tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu mục là Phạm Diên tâu rằng: “Vua nước Chiêm Thành là Bố Trì bị chú là Văn Bố Điền đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La , ý muốn cầu cứu”.
1,477
Bát nguyệt đế mệnh Đàm Dĩ Mông, Đỗ An vãng kế kì sự.
Tháng 8 vua sai Đàm Dĩ Mông và Đỗ An đi liệu tính việc ấy.
1,478
Tương chí Cơ La, Đỗ An viết: Bỉ dĩ binh lai lỗ tình nan tín".
Sắp đến cửa biển Cơ La, đỗ An nói: “Kẻ kia đem quân đến đây, lòng nó khó tin được.
1,479
Ngạn vân: "Nghị khổng hội đê, thốn yên liệu ốc".
trước cốt sửa đức, sau hãy khởi công mới phải”.
1,480
Kim Bố Trì khởi đặc nghị khổng, thốn yên nhi dĩ.
Nay Bố Trì há phải là lỗ kiến, tấc khói mà thôi đâu”.
1,481
Dĩ Mông dĩ ngữ Thanh, Diên sử vi chi bị.
Dĩ Mông nói lại ý ấy với Thanh và Diên, bảo phải phòng bị.
1,482
Thanh đẳng viết: "Bỉ dĩ nan lai cầu cứu, hà tất nghi?".
Bọn Thanh nói: “Kẻ kia vì hoạn nạn đến xin cầu cứu, còn phải nghi ngờ gì?”.
1,483
Dĩ Mông nộ dẫn quân hoàn.
Dĩ Mông giận, đem quân về.
1,484
Thanh cộng Diên mưu tập Bố Trì vi tự toàn kế.
Thanh và Diên cùng mưu đánh úp Bố Trì để làm kế tự bảo toàn.
1,485
Mưu trì phản vi sở sát.
Mưu tiết lộ, thành ra bị Bố Trì giết.
1,486
Nghệ.
Quân Nghệ
1,487
An đại hội, tử giả vô toán.
An tan vỡ, chết không xiết kể.
1,488
Trì đại lược nhi quy.
Bố Trì thả sức cướp bóc rồi về.
1,489
Cửu nguyệt Đại Hoàng giang nhân hựu phản.
Tháng 9, người ở Đại Hoàng giang lại làm phản.
1,490
Sơ Đại Hoàng giang nhân Phí Lang Bảo Lương tấu Đàm Dĩ Mông đố quốc hại dân đẳng tội Dĩ Mông nộ si chi.
Trước đây người Đại Hoàng giang là Phí Lang và Bảo Lương tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông, Dĩ Mông giận lấy roi đánh.
1,491
Lang đẳng do thị tích oán, nhân thiên hạ sầu khổ hướng loạn toại phản.
Bọn Lang vì thế chứa chất oán giận, nhân khi thiên hạ sầu khổ muốn làm loạn, mới cùng nhau phản
1,492
Mệnh Chi hầu Trần Lệnh Hinh vi nguyên soái tương binh thảo chi.
Vua sai chi hậu Trần Lệnh Hinh làm Nguyên soái đem quân đi đánh.
1,493
Nhưng khiển Thượng thư Từ Anh Nhĩ suất Thanh Hoá phủ đồng thời tiến thảo Phí Lang, chiến vu Lộ Bố giang khẩu, bại tích giai tử chi.
Lại sai Thượng thư Từ Anh Nhữ đem quân phủ Thanh Hoá đồng thời tiến đánh Phí Lang, giao chiến ở cửa sông Lộ Bố , bị thua, đều chết cả.
1,494
Giáp Tí tam niên.
Giáp Tý, năm thứ 3 , .
1,495
Xuân chính nguyệt mệnh Đỗ KÍnh Tu thảo Đại Hoàng giang phản nhân bất khắc.
Mùa xuân, tháng giêng, sai Đỗ Kính Tu đi đánh bọn làm phản ở Đại Hoàng giang, không thắng.
1,496
Ất Sửu tứ niên.
Ất Sửu, năm thứ 4 , .
1,497
Xuân tam nguyệt cải nguyên Trị BÌnh.
Mùa xuân, tháng 3, đổi niên hiệu làm Trị Bình
1,498
Long Ứng nguyên niên.
Long Ứng năm thứ 1.
1,499
Xuân nhị nguyệt bái Đàm Dĩ Mông vi Thái Bảo đái củng thần quán.
Mùa xuân, tháng 2, phong Đàm Dĩ Mông làm Thái bảo, được đội mũ củng thần.
1,500
Thời đế doanh tạo bất tức bàn du vô độ nhật dữ cung nữ quan du vi lạc văn thành ngoại hữu đạo thiết bạn vi bất tri hựu tính uý lôi, văn chi chuyết kinh.
Bấy giờ vua xây dựng không ngớt, rong chơi vô độ, hàng ngày cùng cung nữ dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp thì lờ đi như không biết, tính lại sợ sấm, nghe sấm là kinh hoảng.
1,501
Hạnh thần Nguyễn Dư tự ngôn hữu cấm lôi chi thuật.
Người bề tôi được vua yêu là Nguyễn Dư nói mình có phép cấm được sấm.
1,502
Hội lôi minh, sử Dư thí chi, Dư ngưỡng thiên tụng chú nhi lôi ích lệ.
Gặp khi sấm động, vua sai Dư thử phép, Dư ngửa mặt lên trời đọc thần chú, mà sấm càng to thêm.
1,503
Đế cật chi, đối viết: "Thần giới chi cửu hĩ, thiên ích cao nhi bỉ do cường bạo như thử.
Vua vặn hỏi, Dư trả lời: “Thần răn cấm mãi rồi, nhưng vì trời cao nên nó còn dữ tợn như thế!”.
1,504
Đinh Mão tam niên.
Đinh Mão, năm thứ 3 , .
1,505
Xuân chính nguyệt, đạo tặc phong khởi.
Mùa Xuân, tháng giêng, giặc cướp nổi như ong.
1,506
chiếu tuyển đinh nam tráng.
Xuống chiếu chọn các đinh nam, người nào khoẻ mạnh,
1,507
giả sung quân ngũ lệnh lộ quan thống quản thu bổ chi.
sung vào quân ngũ, sai quan các lộ thống quản để bắt .
1,508