Phiên âm
stringlengths
17
308
Dịch nghĩa
stringlengths
33
255
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Kì mẫu hiệu Vương Mẫu giả vi truyền hí thời phương hữu thần Dực duyệt kì diễm sắc nạp chi cập sinh dĩ vi kỷ tử.
Mẹ Nhật Lễ khi đóng trò có tên hiệu là Vương Mẫu , đương có thai, Dục thấy nàng xinh đẹp, nên lấy làm vợ.
455
Thu bát nguyệt, tứ nhật, Nhật Lễ tôn Hiến Từ Hoàng Thái Hậu vi Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái Hậu, Nghi Thánh Hoàng Hậu vi Huy Từ Tá Thánh Hoàng thái hậu .
Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 4, Nhật lễ tôn Hiến Từ hoàng thái hậu làm Hiến Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu; Nghi Thánh hoàng hậu làm Huy Từ Tá Thánh hoàng thái hậu.
457
Nạp Cung Định Vương Phũ nữ vi Hoàng hậu .
Lập con gái Cung Định Vương Phủ làm hoàng hậu.
458
Nhật Lễ bái Hữu tướng quốc Nguyên trác vi Thượng tướng quốc Thái tể .
Nhật Lễ phong Hữu tướng quốc Nguyên trác làm Thượng tướng quốc thái tể.
460
Thập nhị nguyệt, thập tứ nhật, Nhật Lễ thích Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái Hậu vu cung trung.
Tháng 12, ngày 14, Nhật lễ giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng thái hậu ở trong cung.
461
Thái hậu tính nhân hậu, đa hữu tương thành chi công.
Thái hậu vốn người nhân hậu, có nhiều công lao giúp rập .
462
Minh Tông đại hãi, chiếu tất bổ cung nhân, cung ẩu, cung tì án vấn.
Minh Tông sợ lắm, truyền bắt hết các cung nhân, bà mụ, thị tỳ trong cung để tra hỏi.
463
Thái hậu viết: "Thả thử khủng kì trung hữu oan giả.
Thái hậu thưa: "Khoan đã, sợ trong đó có kẻ bị
464
Duy Hựu tức Hoàng Đế vị vu Cần Chính điện, cải nguyên vi Phúc Thái nguyên niên.
Duy Hựu lên ngôi hoàng đế ở điện Cần Chính, đổi niên hiệu là Phúc Thái năm thứ nhất.
468
Thập nhị nguyệt, Điện thí, tứ Nguyễn Khắc Thiệu đẳng nhị danh Tiến sĩ xuất thân, Lê Đình Dự đẳng thất danh đồng Tiến sĩ xuất thân.
Tháng 12, thi Điện, cho bọn Nguyễn Khắc Thiệu 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Lê Đình Dự 7 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
472
Hạ, tứ nguyệt, Thái Bạch kinh thiên.
Mùa hạ, tháng 4, sao Thái Bạch đi ngang trời.
473
mệnh quan khảo hạch thiên hạ sĩ vọng, trừ nhậm phủ huyện đẳng chức.
sai quan khảo hạch các cống sĩ trong nước, người nào có đức vọng bổ làm các chức phủ, huyện.
475
Đông, thập nhị nguyệt, mệnh Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc đồng đốc thị Dương Trí Trạch, Tán lí Phạm Công Trứ đẳng lược định Cao Bằng địa phương, tiến binh thiết phục, trảm đắc tặc tì tướng nhất nhân, phu hoạch tặc đảng nhi hoàn.
Mùa đông, tháng 12, sai Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc cùng Đốc thị Dương Trí Trạch, Tán lý Phạm Công Trứ đi dẹp đất Cao Bằng, tiến quân đặt phục, chém được một viên tỳ tướng của giặc, bắt được đảng giặc rồi về.
476
Hạ, tứ nguyệt, thập cửu nhật, Huỳnh Hoặc nhập Quỷ tú, phạm Tích Thi.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 19, sao Huỳnh Hoặc đi vào phần sao Quỷ, phạm vào sao Tích Thi.
478
Tấn phong Phó đô tướng Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc vi Khâm sai Tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh Chưởng quốc quyền bính Tả tướng, Thái uý Tây quốc công, khai Khiêm Định phủ, phàm quốc gia thứ vụ, tất uỷ tài quyết.
Tiên phong phó đô tướng Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc làm Khâm sai tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh chưởng quốc quyền binh tả tướng Thái uý Tây quốc công, mở phủ Khiêm Định, mọi công việc của nhà nước đều giao cho xử quyết.
479
Thái bảo Phù quận công Trịnh Lịch, Thái phó Hoa quận công Trịnh.
Thái bảo Phù quận công Trịnh Lịch, Thái phó Hoa quận công Trịnh
481
Sầm hận bất đắc chí, nãi xưng binh tác loạn.
Sầm, hận vì bất đắc chí, liền nổi quân làm loạn.
482
Thái uý Tây quốc công Trịnh Tạc phụng chỉ hiệp dữ văn vũ thần liêu tham nghị tấu văn vu Đế, nhưng cáo thiên địa tông miếu.
Thái uý Tây quốc công Trịnh Tạc vâng chỉ nghị bàn với các quan văn võ tâu lên vua biết và tế cáo trời đất, tông miếu.
483
Sơ nhị nhật, xuất binh công thảo, cầm hoạch nghịch Lịch chính thân, kì nghịch Sầm độn nhập Ninh Giang.
Ngày mồng 2, ra quân, đánh bắt được chính tên nghịch Lịch, còn nghịch Sầm thì trốn vào Ninh Giang .
484
Mệnh Thái bảo Khê quận công Trịnh Trượng đốc binh niếp bộ, truy cập ư Chúc Sơn phụ hoạch, hiến nộp, tịnh trí chư quốc pháp.
Sai Thái bảo Khê quận công Trịnh Trượng đốc quân đuổi theo, đuổi kịp ở Chúc Sơn , bắt được dâng nộp, đều đem chém cả.
485
Thời, Tán lí Phạm Công Trứ, võ tướng Đào Quang Nhiêu diệc dự hữu tham tán chinh thảo chi công.
Khi ấy Tán lý Phạm Công Trứ, Võ tướng Đào Quang Nhiêu cũng dự phần công bàn mưu, đánh dẹp.
486
Hựu cấm nhân dân vô đắc tác nặc danh thư, xuý hư truyền thuyết, cổ hoặc nhân tâm.
Lại cấm nhân dân không được làm thư nặc danh lưu truyền chuyện không đâu làm mê hoặc lòng người.
488
Lục nguyệt, thân minh khám tụng điều lệ, dĩ miễn đương quan liêm cần chi pháp, cách tiểu dân cáo kiết chi phong.
Tháng 6, nhắc rõ lại điều luật xét kiện để khuyến khích người làm quan thanh liêm, chăm việc, trừ bỏ thói kiện cáo gian lận của bọn tiểu thương.
489
Thu, thất nguyệt, cấm chư quyền quý cập.
Mùa thu, tháng 7, cấm các nhà quyền quý và
490
các cai nha môn tịnh nhị ti quan bất đắc chiếm thủ xã dân hộ phân, huyện quan diệc bất đắc lạm thu dân tiền.
các nha môn cùng quan hai ty không được lấy tiền của các hộ dân xa, quan huyện cũng không được thu lạm tiền của dân.
491
Kì các tế tiền mễ, tịnh tuỳ đại trung tiểu xã ưng xuất hữu sai, dĩ tỉnh dân phí.
Còn tiền gạo của các kỳ tế lễ đều theo xã lớn, xã vừa, xã nhỏ mà đóng theo mức độ khác nhau để bớt phí tổn cho dân.
492
Xuân, chính nguyệt, nhị thập nhị nhật, vũ bạc, điểu thú đa bị hại.
Mùa xuân, tháng giêng, ngày 22, mưa đá, chim muông bị hại nhiều.
494
Sai chánh sứ Nguyễn Nhân Chính; phó sứ Phạm Vĩnh Miên, Trần Khái, Nguyễn Cổn đẳng đồng thiên triều sứ Đô đốc Lâm Sâm giá hải vãng Phúc Kiến cầu phong vu Minh.
Sai chánh sứ Nguyễn Nhân Chính, phó sứ là bọn Phạm Vĩnh Miên, Trần Khái, Nguyễn Cổn cùng với sứ thiên triều là Đô đốc Lâm Sâm vượt biển sang Phúc Kiến cầu phong với nhà Minh.
497
Thời, Minh đế tức vị, vi Thanh nhân sở phá.
Khi ấy vua Minh lên ngôi, bị người Thanh đánh phá.
498
Minh thần tái tôn lập Vĩnh Lịch hoàng đế.
Bề tôi nhà Minh lại tôn lập Vĩnh Lịch Hoàng Đế.
499
Minh đế nhân khiển Hàn lâm Phan Kì đẳng lãi sắc thư cáo mệnh tịnh trà kim ngân ấn vãng.
Nhà Minh sai bọn Hàn lâm Phan Kỳ mang sắc thư, cáo mệnh và ấn bạc mạ vàng sang
500
bản quốc, sách phong Thái Thượng Hoàng vi An Nam quốc vương.
nước ta, phong cho Thái thượng hoàng làm An Nam quốc vương.
501
Minh sứ dữ Nhân Chính đẳng lục hành do trấn Nam Quan nhi hồi.
Sứ Minh cùng với bọn Nhân Chính đi đường bộ theo cửa Trấn Nam quan mà về.
502
Long Châu thủ lĩnh Triệu Hữu Kinh vi tộc huynh Triệu Hữu Đào sở sát.
Thủ lĩnh Long Châu là Triệu Hữu Kinh bị người anh họ là Triệu Hữu Đào giết.
504
Kì tử Hữu Khải cầu cứu, ư thị mệnh Quỳnh Nham công Trịnh Lệ tiến binh Thái Nguyên công Cao Bằng, hoạch Triệu Hữu Đào tịnh gia thuộc, điều hồi Kinh, dụ dĩ hoà mục, khiển hoàn bản châu.
Con Kinh là Hữu Khải cầu cứu, bèn sai Quỳnh Nham công Trịnh Lệ tiến quân lên Thái Nguyên, đánh Cao Bằng, bắt được Triệu Hữu Đào và cả gia thuộc đem về Kinh sư, dụ bảo phải hoà mục với nhau rồi cho về bản châu.
505
Đông, thập nguyệt, Hội thí thiên hạ sĩ nhân.
Mùa đông, tháng 10, thi Hội sĩ nhân trong nước.
506
Thượng thân ngự bút tứ Nguyễn Đăng Cảo Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, Nguyễn Viết Cử Tiến sĩ xuất thân, Phạm Văn Đạt đẳng thập ngũ danh đồng Tiến sĩ xuất thân.
Vua đích thân ghi cho Nguyễn Đăng Cảo đỗ tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, Nguyễn Viết Cử đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm Văn Đạt 15 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
509
Minh sứ hành phóng phong lễ, tuyên chế văn viết: "Trẫm duy, đế vương chi hưng, vụ tiên nhu viễn; Xuân thu chi nghĩa, độc tưởng tôn vương.
Sứ Minh làm lễ ban phong, tuyên đọc lời thề rằng: "Trẫm nghĩ, đế vương dấy lên, trước hết vỗ yên ngoài cõi; Xuân Thu nghĩa lớn, riêng lo tưởng lệ tôn vương.
511
Tích ngã Hoàng tổ cương lí thiên hạ, hải ngung nhật xuất tận nhập bản đồ.
Xưa Hoàng tổ ta mở mang bờ cõi, chân trời, góc biển, đều thuộc bản đồ.
512
Đương ngã Long Vũ Hoàng Đế ngự cực Mân điện, nhĩ độc hàng hải lai vương.
Đương khi Long Vũ Hoàng Đế ta ngự ở đất Mân , một mình nước ngươi vượt biển sang triều cống.
513
Duy quốc gia bất bảo viễn vật, thần nhân hưởng chí để gia sự đại chi thành.
Tuy nhà nước không quý vật xa, nhưng làm tôi dâng cống, lòng thành thờ nước lớn thực đáng khen.
514
Niệm yếu hoang diệc ngô xích tử, tích xã phân phiên sở vị nhu viễn dĩ đức.
Nghĩ cõi xa cũng là con đỏ, ta ban đất chia phong, chính là vỗ yên người xa bằng đức.
515
Trẫm dĩ Thần Tông hoàng đế đích tôn, vi tứ hải thần dân suy đái, toản thừa đại thống, phủ lâm vạn phương, viễn mộ Đường đế hiệp hoà chi phong, cận tưởng Hán Tuyên kiêm lâm chi thịnh trị.
Trẫm là cháu đích tôn của Thần Tông Hoàng Đế, được thần dân trong nước suy tôn, nối giữ nghiệp lớn, cai trị muôn phương, xa thì hâm mộ truyền thống hoà hiệp của Đường đế Nghiêu, gần lại nhớ tới oai thanh gồm trị của Hán Tuyên Đế.
516
Tư xú loại phạm thuận, vi ngã bạc hải đồng thù
Nay loài hôi tanh làm phản, bị cả bốn biển cùng thù.
517
Sở Thục chi tráng sĩ vân hưng, Ngô Việt chi nghĩa kì hưởng ứng.
Tráng sĩ Sở Thục nổi như mây, cờ nghĩa Ngô Việt đều hưởng ứng.
518
Thị dụng khiển từ thần Phan Kì, Khoa thần Lí Dụng Tiếp trì.
Vì thế, sai quan Hàn lâm Phan Kỳ, quan Khoa đài Lý Dụng Tiếp đem
521
Ô hô! Chương phục phụng đế thiên chi mệnh, khuê bích dư yến dực chi hưu.
Đồ phẩm phục vâng tự mệnh trời, ngọc khuê bích truyền tới con cháu.
523
Quân nhĩ quốc, tử nhĩ dân, canh tang diệc thuộc đế đức; hoang phục vương tân phục hưởng cung cầu vô đãi tiền tu.
Làm vua nước ngươi, chăn nuôi dân ngươi, việc nông tang cũng thuộc đức đế; cõi xa về chầu, trấn phiên tới cống, ngọc cung cầu chớ biếng chức xưa.
524
Trẫm duy, Hán gia đồng trụ chi phong, vĩnh tuy Nam phục, Hạ hậu Đồ Sơn chi hội, tái kiến trung nguyên.
Trẫm nghĩ, cột đồng nhà Hán dựng lên, cõi Nam yên mãi, vua Hạ hội ở Đồ Sơn, lại thấy Trung Nguyên.
525
Thu, thất nguyệt, sai quan tuyển duyệt các xứ binh dân, trục hạng dĩ định binh ngạch.
Mùa thu, tháng 7, sai quan tuyển duyệt binh dân các xứ, chia thành từng hạng để định ngạch quân.
528
Hạ, ngũ nguyệt, cấm dân gian bất đắc vọng mạo chức tước dĩ tị binh dịch.
Mùa hạ, tháng 5, cấm dân gian không được mạo nhận càn chức tước để trốn binh dịch .
530
Tam nguyệt, dĩ Nhập nội phán thủ Thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện vi Đô Áp Nha chưởng Thánh Từ cung nội ngoại chư sắc, Văn Túc Vương tử Văn Bích vi Thượng vị Uy Túc hầu .
Tháng 3, lấy Nhập nội phán thủ thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Đô áp nha, coi giữ các sắc mục trong ngoài cung Thánh Từ, lấy con Văn Túc Vương là Văn Bích làm Thượng vị Uy Túc hầu.
532
Thu thất nguyệt, tam nhậtm Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Quang Khải tốt, niên ngũ thập tứ.
Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 3, Thượng tướng thái sư Chiêu Minh Đại Vương Quang Khải mất, thọ 54 tuổi.
533
Quang Khải hữu học thức, thông chư Phiên ngữ.
Quang Khải có học thức, hiểu tiếng nói của các phiên .
534
Sơ Thánh Tông thân chinh, Quang Khải hộ tòng, quỹ tịch hư vị, thích Bắc sứ chí.
Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến.
535
Thái Tông triệu Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn vị viết: Thượng tướng hộ tòng, trẫm dục dĩ khanh vi Tư Đồ dĩ ứng Bắc sứ.
Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo: “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”.
536
Huống Quan gia viễn chinh, Quang Khải hộ tòng, nhi Bệ hạ tự hành phong bái, thượng hạ tình nghĩa khủng hữu vị an, bất thiếp Quan gia cập Quang Khải chi ý.
Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải.
538
Sĩ giá hồi bái mệnh vị vãn.
Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”.
539
Cập Thánh Tông hồi, sự toại tẩm, cái nhị nhân tố bất tương hiệp dã.
Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.
540
Nhất nhật, Quốc Tuấn tự Vạn Kiếp lai, Quang Khải hạ thuyền bác hí cánh nhật nãi hồi.
Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về.
541
Quang Khải diệc viết: Kim nhật đắc Quốc công tẩy tảo.
Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”.
542
Dũ đốc thân vi tướng tương giáp phụ vương thất nhị công vi xưng thủ.
Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
543
Tử Văn Túc Vương Đạo Tái diệc dĩ văn học danh vu thời, Thượng hoàng hậu ái dị chư tòng đệ.
Con ông là Văn Túc Vương Đạo Tái cũng nổi tiếng về văn học thời đó, được Thượng hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác.
546
Kì thân tín sủng dị như thử, dục đại dụng chi, nhi thiên bất giả dĩ niên.
Tin yêu, quý mến Đạo Tái đến như vậy, định dùng ông vào chức to, nhưng trời không cho sống lâu.
547
Tôn Uy Túc công Văn Bích Minh Tông thời Thái bảo, Tăng tôn Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán Nghệ Tông thời Tư đồ, diệc hữu hiển danh.
Cháu là Uy Túc công Văn Bích làm Thái bảo thời Minh Tông, chắt là Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán là Từ đồ đời Nghệ Tông cũng có danh tiếng.
548
Bát nguyệt, Thượng hoàng thân chinh Ai Lao, sinh cầm nhân súc bất khả thắng số.
Tháng 8, Thượng hoàng đích thân đi đánh Ai Lao, bắt được người và súc vật nhiều không kể xiết.
549
Đế khiến Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo giai hành, thu đắc Đại Tạng kinh bộ hồi, lưu Thiên Trường phủ, phó bản san hành .
Vua sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận được bộ kinh Đại Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành.
552
viết: Phụ thiểm xưng Hiếu Hoàng, nghi dĩ thử xưng quan gia .
nói : “Cha tự thẹn xưng là Hiếu Hoàng, nên dùng danh hiệu ấy để gọi Quan gia thì phải”.
553
Thập tam nhật, kinh thành hữu bạn Tây Nhai phường phụ nhân Lê Thị Ta văn phu Phạm Mưu sứ Nguyên bệnh tốt, ai tư bất thực tam nhật, diệc tốt.
Ngày 13, người đàn bà ở phường Tây Nhai phía hữu kinh thành là Lê Thị Ta nghe tin chồng là Phạm Mưu đi sứ nước Nguyên ốm mất, thương nhớ không ăn 3 ngày rồi cũng mất.
554
Thu bát nguyệt, thí văn quan miện sam dĩ hạ.
Mùa thu, tháng 8, thi con trai các quan văn từ miện sam trở xuống
558
nam ư An Hoa nha, xung bổ bản nha thuộc.
ở nha An Hoa, sung bổ làm thuộc viên nha ấy.
559
Bính Thân tứ niên, xuân tam nguyệt, Thượng phẩm Nguyễn Hưng đổ bác, trượng sát chi.
Mùa xuân, tháng 3, Thượng phẩm Nguyễn Hưng đánh bạc, đánh chết.
560
Nhân Huệ Vương Khánh Dư tự Bài Áng nhập triều.
Nhân Huệ Vương Khánh Dư từ Bài Áng vào chầu.
562
Trấn nhân cáo Khánh Dư tham bỉ.
Người trong trấn kiện Khánh Dư tham lam thô bỉ.
563
Khánh dư nhập triều bất quá tứ nhật nhi hồi, cái khủng cửu lưu tao Đế khiển trách dã .
Khánh Dư vào chầu không quá 4 ngày đã trở về, vì sợ ở lâu bị vua khiển trách.
564
sách Hưng Nhượng vương Quốc Tảng phạt Sầm tử sách .
Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng đi đánh sách Sầm Tử.
568
Phạm Ngũ Lão kích phá chi, phục kì cố địa.
Phạm Ngũ Lão đánh bại chúng, lấy lại được đất cũ.
570
Hạ tứ nguyệt, dĩ Trần Thời Kiến vi Kiểm pháp quan nhậm Kinh sư Đại An phủ.
Mùa hạ, tháng 4, lấy Trần Thì Kiến làm Kiểm pháp quan, nhậm chức Đại an phủ Kinh sư.
572
Mỗi tụng chí tắc triết chi dĩ lí sự lai tắc ứng chi dĩ phương.
Mỗi khi có kiện tụng, thì dùng lý lẽ mà bắt bẻ, việc đến thì tìm phương pháp để ứng phó.
575
Thu bát nguyệt, cấm chư nhân bất đắc ư đại thần tông thất chư gia xưng thần .
Mùa thu, tháng 8, cấm mọi người không được xưng là “thần” với các nhà đại thần tôn thất.
576
Phạm Ngũ Lão vi Hữu kim ngô vệ đại.
Lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu kim ngô vệ đại
579
Trí Thượng đô, Thuỷ dạ xoa đô, Chân Kim đô, thích Chân Kim đẳng tự ư ngạch thượng .
Đặt Thượng đô , Thuỷ dạ xoa đô, Chân kinh đô, thích các chữ như “Chân kim”.. lên trán.
581
Ngự sử đại phu Trần Khắc Chung vi Kinh sư đại an phủ .
Lấy Ngự sử đại phu Trần Khắc Chung làm Đại an phủ Kinh sư.
582
Dĩ Trần Thời Kiến vi Nhập nội hành khiển hữu gián nghị đại phu.
Lấy Trần Thì Kiến làm Nhập nội hành khiển hữu gián nghị đại phu.
583
Nhược Nguỵ, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng đẳng tự lâm văn giảm hoạ.
Các các chữ Nguỵ, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt nét.
584
Ngũ nguyệt, dĩ Đoàn Nhữ Hài vi Ngự sử trung tán.
Tháng 5, lấy Đoàn Nhũ Hải làm Ngự sử trung tán.
586
Thượng hoàng dư hành biển quan cung điện tự Thìn chí Tị.
Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ.
587
Thượng hoàng đại nộ, tức hoàn Thiên Trường, chiếu bách quan minh nhật cụ chí Thiên Trường phủ, điểm tập vi giả luận tội.
Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.
588
Đế đại cụ, xu xuất cung môn vô nhân thủ vệ, quá Tư Phúc tự kiến học sinh Đoàn Nhữ Hài tại tự môn.
Vua sợ quá, đi rảo ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa.
589
Vấn viết: Nhữ hà do tại thử? Nhữ Hài thương tốt phục địa đối viết: Thần dĩ tập học ngộ tại thử nhĩ.
Nhữ Hài vội vàng lạy rạp xuống đất tâu: “Thần vì mãi học, đi lỡ ra đây”.
590
tiền tạ quá nhữ nghi vi trẫm thảo biểu văn.
trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu”.
591
Nhữ Hài lập ư Đế tiền, soạn thành chi.
Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu.
592
Hậu nhật đại tảo, chí Thiên Trường phủ phụng biểu tạ tội.
Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội.
593
Nội nhân dĩ Quan Gia phủng biểu nhân đối.
Nội nhân trả lời là người dâng biểu của Quan gia.
594
gia phục Đế vị, bách quan hoàn triều như cố.
gia lại vẫn làm vua; các quan về triều như cũ.
599
Đế hoàn tự Thiên Trường, bái Nhữ Hài vi Ngự sử trung tán.
Vua từ Thiên Trường trở về , phong Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán.
600
Thời hữu kị Nhữ Hài niên thiếu dụng sự, vi thi tiếu chi viết: Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn Trung tán.
Bấy giờ có người ghen Nhữ Hài tuổi trẻ làm quan to, làm thơ chế giễu rằng: Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhữ xú Đoàn trung tán.
601
Cập thụ thị chức, quan sử thần sở tái thực lục, pha hữu mậu ngộ, nãi vi cải chính, những phàn cựu cảo .
Đến khi nhận chức này, xem thực lục của sử thần chép, có chổ lầm lẫn, bèn sửa lại cho đúng, rồi đốt bỏ bản thảo cũ đi.
602
Thu thất nguyệt, tu Yên Tử Ngự Dược am .
Mùa thu, tháng 7, xây am Ngự Dược trên núi Yên Tử.
605
Thượng hoàng tự Thiên Trường phủ phục xuất gia nhập Yên Tử sơn khổ hạnh.
Tháng 8, Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh.
606