text
stringlengths
199
386k
id
stringlengths
18
18
domain
stringclasses
25 values
Astragalus sprucei là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae. Loài này chỉ có ở Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chú thích Tham khảo Neill, D. & Pitman, N. 2004. Astragalus sprucei. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 18 tháng 7 năm 2007. S Thực vật Ecuador Thực vật dễ tổn thương
VI_open-0000000681
Pets_and_Animals
Indigofera nephrocarpoides là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae. Loài này chỉ có ở Yemen. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chú thích Tham khảo Miller, A. 2004. Indigofera nephrocarpoides. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 19 tháng 7 năm 2007. N Thực vật Yemen
VI_open-0000000682
Food_and_Drink
Zapoteca aculeata là một loài thực vật có hoa thuộc họ đậu, Fabaceae, là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chú thích Tham khảo Neill, D. & Pitman, N. 2004. Zapoteca aculeata. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 19 tháng 7 năm 2007. aculeata Thực vật Ecuador
VI_open-0000000683
Science
Cacosmia harlingii là một loài thực vật có hoa thuộc họ Asteraceae. Loài này chỉ có ở Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Chú thích Tham khảo Montúfar, R. & Pitman, N. 2003. Cacosmia harlingii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng 7 năm 2007. Cacosmia Thực vật Ecuador Thực vật dễ tổn thương
VI_open-0000000684
Pets_and_Animals
Actinodaphne cuspidata là một loài thực vật thuộc họ Lauraceae. Nó là loài đặc hữu của Malaysia. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống. Nguồn World Conservation Monitoring Centre 1998. Actinodaphne cuspidata. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng 8 năm 2007. Tham khảo Thực vật Malaysia Actinodaphne
VI_open-0000000685
Science
Leptodactylodon perreti là một loài ếch thuộc họ Astylosternidae. Đây là loài đặc hữu của Cameroon. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông ngòi, sông có nước theo mùa, đầm nước ngọt, và vùng nhiều đá. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Chú thích Tham khảo Amiet, J.-L. 2004. Leptodactylodon perreti. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 7 năm 2007. Leptodactylodon Động vật đặc hữu Cameroon
VI_open-0000000686
Pets_and_Animals
Nectophrynoides tornieri là một loài cóc thuộc họ Bufonidae. Đây là loài đặc hữu của Tanzania. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất nơi sống. Tham khảo Loader, S., Poynton, J.C. &Howell, K. 2004. Nectophrynoides tornieri. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 7 năm 2007. Nectophrynoides Động vật được mô tả năm 1906 Động vật đặc hữu Tanzania
VI_open-0000000687
Pets_and_Animals
Aplastodiscus weygoldti là một loài ếch thuộc họ Nhái bén. Đây là loài đặc hữu của Brasil. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông ngòi. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Nguồn Peixoto, O.L. & Pimenta, B. 2004. Aplastodiscus weygoldti. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 7 năm 2007. Chú thích Tham khảo Aplastodiscus Động vật đặc hữu Brasil
VI_open-0000000688
Pets_and_Animals
Ranoidea spinifera là một loài ếch thuộc họ Pelodryadidae. Đôi khi nó được gọi là Spiny Tree Frog, dù tên gọi này cũng chỉ loài Nyctixalus spinosus của Philippines. Đây là loài đặc hữu của Papua New Guinea. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông ngòi, vườn nông thôn, và rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng. Tham khảo Richards, S., Bickford, D. & Parker, F. 2004. Litoria spinifera. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 7 năm 2007. S Động vật lưỡng cư Papua New Guinea
VI_open-0000000689
Pets_and_Animals
Pachyhynobius shangchengensis là một loài kỳ giông thuộc họ Hynobiidae. Theo tác phẩm của Jian-Li Xiong et all, về mặt gene loài kỳ giông này chứng tỏ là loài đồng nghĩa với Pachyhynobius shangchengensis. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là sông ngòi và các đồn điền. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Chú thích Tham khảo Lau, M.W.N. 2004. Hynobius yunanicus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007. Jian-Li Xiong, Qin Chen, Xiao-Mao Zeng, Er-Mi Zhao and Li-Yan Qing. 2007. Karyotypic, Morphological, và Molecular Evidence for Hynobius Yunanicus as a Synonym của Pachyhynobius Shangchengensis (Urodela: Hynobiidae). Journal of Herpetology 41(4):664-671. Hynobius
VI_open-0000000690
Pets_and_Animals
Tachycnemis seychellensis (tên tiếng Anh: Seychelles Treefrog) là một loài ếch thuộc họ Hyperoliidae. Đây là loài đặc hữu của Seychelles. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông ngòi, đầm nước, đầm nước ngọt, đầm nước ngọt có nước theo mùa, các đồn điền, vườn nông thôn, rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng, và đất có tưới tiêu. T. seychellensis là loài duy nhất thuộc chi Tachycnemis. Tham khảo Nussbaum, R. & Gerlach, J. 2004. Tachycnemis seychellensis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007. Tachycnemis Sơ khai Hyperoliidae Động vật được mô tả năm 1841 Động vật đặc hữu Seychelles Động vật lưỡng cư Seychelles
VI_open-0000000691
Pets_and_Animals
Eleutherodactylus devillei là một loài ếch trong họ Leptodactylidae. Chúng là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, và đài nguyên. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Nguồn Lynch, J., Coloma, L.A. & Ron, S. 2004. Eleutherodactylus devillei. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007. Tham khảo devillei Động vật lưỡng cư Ecuador
VI_open-0000000692
Pets_and_Animals
Eleutherodactylus polychrus là một loài ếch trong họ Leptodactylidae. Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Nguồn Castro, F. & Herrera, M.I. 2004. Eleutherodactylus polychrus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007. Tham khảo polychrus Động vật lưỡng cư Colombia
VI_open-0000000693
Pets_and_Animals
Leptodactylus bufonius là một loài ếch thuộc họ Leptodactylidae. Loài này có ở Argentina, Bolivia, Brasil, và Paraguay. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng cây bụi khô khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất thấp, hồ nước ngọt có nước theo mùa, đầm nước ngọt, vùng đồng cỏ, và ao. Hình ảnh Tham khảo Heyer, R., Reichle, S., Silvano, D. & di Tada, I. 2004. Leptodactylus bufonius. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007. Liên kết ngoài Leptodactylus
VI_open-0000000694
Pets_and_Animals
Telmatobius timens là một loài ếch thuộc họ Leptodactylidae. Loài này có ở Bolivia và Peru. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, và sông ngòi. Chú thích Tham khảo Stuart, S.N. 2006. Telmatobius timens. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007. Telmatobius Động vật lưỡng cư Bolivia Động vật lưỡng cư Peru Động vật lưỡng cư Andes Động vật được mô tả năm 2005 Loài cực kỳ nguy cấp
VI_open-0000000695
Pets_and_Animals
Mantidactylus elegans là một loài ếch trong họ Mantellidae. Chúng là loài đặc hữu của Madagascar. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông, và vùng nhiều đá. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Nguồn Cadle, J. & Raxworthy, C. 2004. Mantidactylus elegans. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Chú thích Tham khảo Mantidactylus Động vật đặc hữu Madagascar
VI_open-0000000696
Pets_and_Animals
Kalophrynus intermedius là một loài ếch trong họ Nhái bầu. Nó được tìm thấy ở Brunei, Indonesia, và Malaysia. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và đầm nước ngọt có nước theo mùa. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Nguồn Inger, R., Iskandar, D., Das, I., Stuebing, R., Lakim, M., Yambun, P. & Mumpuni 2004. Kalophrynus intermedius. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Chú thích Tham khảo Kalophrynus
VI_open-0000000697
Pets_and_Animals
The Striped Caco hoặc Cacosternum striatum (tên tiếng Anh: Striped Metal Frog) là một loài ếch thuộc họ Petropedetidae. Loài này có ở Lesotho, Nam Phi, có thể cả Mozambique, và có thể cả Swaziland. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng cây bụi ẩm khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng ngập nước hoặc lụt theo mùa, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, sông ngòi, và đầm nước. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Chú thích Tham khảo Scott, E. & Minter, L. 2004. Cacosternum striatum. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Liên kết ngoài Cacosternum Động vật lưỡng cư Nam Phi Động vật Lesotho
VI_open-0000000698
Pets_and_Animals
Eurycea tonkawae (tên tiếng Anh: Jollyville Plateau Salamander) là một loài kỳ giông trong họ Plethodontidae. Nó là loài đặc hữu của Travis and Williamson counties, Texas, Hoa Kỳ. Eurycea tonkawae hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Tham khảo (1993): A new species of perennibranchiate salamander (Eurycea, Plethodontidae) from Austin, Texas. Herpetologica 49: 242-259. (2000): Phylogenetic relationships of central Texas hemidactyliine plethodontid salamanders, genus Eurycea, và a taxonomic revision of the group. Herpetological Monographs 14: 1-80. (2001): A new species of subterranean blind salamander (Plethodontidae: Hemidactyliini: Eurycea: Typhlomolge) from Austin, Texas, và a systematic revision of central Texas paedomorphic salamanders. Herpetologica 57: 266-280. Hammerson, G. & Chippindale, P. 2004. Eurycea tonkawae. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Động vật lưỡng cư Mỹ Eurycea
VI_open-0000000699
Pets_and_Animals
Quasipaa yei là một loài ếch thuộc họ Ranidae. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ôn đới và sông ngòi. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất nơi sống. Chú thích Tham khảo Feng, X. 2004. Chaparana yei. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Động vật lưỡng cư Trung Quốc Chaparana en:Chaparana yei
VI_open-0000000700
Pets_and_Animals
Pelophylax cerigensis là một loài ếch thuộc họ Ranidae. Đây là loài đặc hữu của Hy Lạp. Môi trường sống tự nhiên của chúng là thảm cây bụi kiểu Địa Trung Hải, sông ngòi, sông có nước theo mùa, hồ nước ngọt, hồ nước ngọt có nước theo mùa, đầm nước ngọt, đầm nước ngọt có nước theo mùa, đất canh tác, và ao. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Chú thích Tham khảo Beerli, P. & Uzzell, T. 2004. Rana cerigensis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Liên kết ngoài Động vật lưỡng cư châu Âu Pelophylax Động vật được mô tả năm 1994
VI_open-0000000701
Pets_and_Animals
Nhái cây tí hon (danh pháp: Raorchestes parvulus) là một loài ếch trong họ Rhacophoridae. Chúng được tìm thấy ở Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, và có thể cả Lào. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng đất ẩm có cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đầm nước, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Hình ảnh Chú thích Tham khảo van Dijk, P.P. & Ohler, A. 2004. Philautus parvulus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 7 năm 2007. Amphibian and Reptiles of Peninsular Malaysia - Philautus parvulus P Động vật được mô tả năm 1893 Động vật lưỡng cư Myanmar Động vật lưỡng cư Campuchia Động vật lưỡng cư Lào Động vật lưỡng cư Malaysia Động vật lưỡng cư Thái Lan Động vật lưỡng cư Việt Nam Động vật lưỡng cư Bangladesh
VI_open-0000000702
Pets_and_Animals
Fluvidona petterdi là một loài ốc nước ngọt cỡ nhỏ có nắp, là động vật thân mềm chân bụng sống dưới nước trong họ Hydrobiidae. Đây là loài đặc hữu của Úc. Lưu ý: Tất cả cácLoài trong chi này bây giờ dường như đã được chuyển giao cho các chi Austropyrgus. Tham khảo Ponder, W.F. 1996. Angrobia petterdi. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 6 tháng 8 năm 2007. Động vật chân bụng Úc Angrobia Động vật sắp nguy cấp Úc Động vật đặc hữu Úc
VI_open-0000000741
Pets_and_Animals
Palmadusta asellus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cypraeidae, họ ốc sứ. Có một phân loài: Palmadusta asellus asellus (Linnaeus) Miêu tả Phân bố Chúng phân bố ở biển dọc theo Aldabra, Chagos, Comoros, Kenya, Madagascar, Mauritius, Mozambique, Biển Đỏ, Réunion, Seychelles và Tanzania. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Verdcourt, B. (1954). The cowries of the East African Coast (Kenya, Tanganyika, Zanzibar and Pemba). Journal of the East Africa Natural History Society 22(4) 96: 129-144, 17 pls Liên kết ngoài Động vật được mô tả năm 1758 Palmadusta
VI_open-0000000752
Pets_and_Animals
Nodilittorina là một chi ốc biển nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Littorinidae. Nhiều loài trước đây được xếp vào chi này đã được chuyển sang chi Echinolittorina. Các loài Các loài thuộc chi Nodilittorina bao gồm: Nodilittorina unifasciata Chú thích Tham khảo GBIF Littorinidae
VI_open-0000000757
Pets_and_Animals
Babelomurex cariniferus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Muricidae, họ ốc gai. Miêu tả Phân bố Loài này được đưa vào Sách đỏ của IUCN, do nó được coi là loài đặc hữu của Malta. Angola Quần đảo Canaria Cabo Verde Các vùng nước thuộc châu Âu Địa Trung Hải Tây Phi Chúng sống ở độ sâu từ vài mét cho tới hơn 1000 mét. Hình ảnh Chú thích Tham khảo NCBI Babelomurex Động vật được mô tả năm 1834
VI_open-0000000760
Pets_and_Animals
Polinices uberinus là một loài ốc biển săn mồi, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Naticidae, họ ốc Mặt Trăng. Phân bố Miêu tả Chiều dài tối đa của vỏ ốc được ghi nhận là 20 mm. Môi trường sống Độ sâu tối thiểu được ghi nhận là 27 m. Độ sâu tối đa được ghi nhận là 183 m. Chú thích Tham khảo Polinices
VI_open-0000000767
Pets_and_Animals
Izatha phaeoptila là một loài bướm đêm thuộc họ Oecophoridae. Nó là loài đặc hữu của New Zealand, ở đó nó được tìm thấy ở North Island. Sải cánh dài 13–15 mm đối với con đực và 14–18.5 mm đối với con cái. Con trưởng thành bay từ tháng 1 đến đầu tháng 3. Ấu trùng đã được ghi nhận trên địa y mọc trên cành cây. Cũng có một số cá thể ở trên rêu. Chú thích Tham khảo Izatha
VI_open-0000000770
Pets_and_Animals
Macromphalina canarreos là một loài ốc biển rất nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Vanikoridae. Phân bố Miêu tả Chiều dài tối đa của vỏ ốc được ghi nhận là 1.82 mm. Môi trường sống Độ sâu tối thiểu được ghi nhận là 20 m. Độ sâu tối đa được ghi nhận là 20 m. Chú thích Tham khảo Macromphalina Vanikoridae
VI_open-0000000771
Pets_and_Animals
Conus felitae là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Conidae, họ ốc cối. Giống như tất cả các loài thuộc chi Conus, chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng "đốt" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận. Miêu tả Phân bố Chú thích Tham khảo The Conus Biodiversity website F Động vật được mô tả năm 1990
VI_open-0000000781
Pets_and_Animals
Conus roseorapum là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Conidae, họ ốc cối. Giống như tất cả các loài thuộc chi Conus, chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng "đốt" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận. Miêu tả Phân bố Chú thích Tham khảo The Conus Biodiversity website R Động vật được mô tả năm 1990
VI_open-0000000782
Pets_and_Animals
Incerticyclus martinicensis là một loài ốc nhiệt đới có mang và nắp, là động vật thân mềm chân bụng sống trên cạn thuộc họ Neocyclotidae. Đây là loài đặc hữu của Martinique. Nó đã tuyệt chủng. Chú thích Tham khảo Bouchet, P. 1996. Incerticyclus martinicensis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 7 tháng 8 năm 2007. Incerticyclus
VI_open-0000000785
Pets_and_Animals
Bittium pigrum là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Cerithiidae. Phân bố Miêu tả Chiều dài vỏ lớn nhất được ghi lại là 9.1 mm. Môi trường sống Độ sâu lớn nhất được ghi lại là 183 m. Độ sâu lớn nhất ghi nhận được là 274 m. Chú thích Tham khảo Bittium
VI_open-0000000786
Pets_and_Animals
Vitreorana antisthenesi là một loài ếch trong họ Centrolenidae. Nó là loài đặc hữu của Venezuela. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng mây ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới, và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Nguồn La Marca, E., Manzanilla, J. & Señaris, C. 2004. Hyalinobatrachium antisthenesi. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2007. Frost, Darrel R. 2007. Amphibian Species of the World: an Online Reference. Version 5.1 (10 tháng 10 năm 2007). Electronic Database accessible at http://research.amnh.org/herpetology/amphibia/index.php. American Museum of Natural History, New York, USA. Cisneros-Heredia, D.F. and R.W. McDiarmid. 2007. Revision of the characters of Centrolenidae (Amphibia: Anura: Athesphatanura), with comments on its taxonomy and the description of new taxa of glassfrogs . Zootaxa 1572: 1-82. PDF Available by clicking here Chú thích Tham khảo Antisthenesi Động vật lưỡng cư Venezuela Động vật đặc hữu Venezuela
VI_open-0000000793
Pets_and_Animals
Leistomorpha brontoscopa là một loài bướm đêm thuộc họ Oecophoridae. Nó được tìm thấy ở the Lãnh thổ Thủ đô Úc, New South Wales, Tasmania và Victoria. Ấu trùng ăn lá chết của loài Eucalyptus, gồm Eucalyptus bicostata và Eucalyptus bridgesiana. Chúng thường được tìm thấy ở lá cây chết. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Leistomorpha
VI_open-0000000794
Pets_and_Animals
Ptolemaios XV Caesar Philometor Philopator (tiếng Hy Lạp: Πτολεμαῖος ΙΕ Φιλοπάτωρ Φιλομήτωρ Καῖσαρ, Ptolemaios IE Philopatōr Philometor Kaisar; Latin: Ptolemaeus XV Philipator Philometor Caesar; 23 tháng 6 năm 47 TCN - 30 tháng 8 năm 30 TCN), được biết nhiều hơn với biệt danh Caesarion (phát âm / səzæriən /; tiếng Hy Lạp: Καισαρίων, Kaisariōn, nghĩa là "Tiểu Caesar"; Latin: Caesariō) và Ptolemaios Caesar (phát âm là /tɒləmisiːzər /; tiếng Hy Lạp: Πτολεμαῖος Καῖσαρ, Ptolemaios Kaisar; Latin: Ptolemaeus Caesar), là vị vua cuối cùng của triều đại Ptolemaios, triều đại của Ai Cập, người trị vì cùng với mẹ Cleopatra VII của Ai Cập, từ 02 tháng 9, năm 44 trước Công nguyên. Đến tháng Tám, năm 30 TCN ông là pharaoh duy nhất, khi ông đã bị giết theo lệnh của Octavian, người sẽ trở thành hoàng đế La Mã Augustus. Ông là con trai cả của Cleopatra VII và có thể là con trai ngoài gia thú của Julius Caesar, người mà ông đã được đặt tên cho. Cuộc đời Caesarion được sinh ra tại Ai Cập trong năm 47 trước Công nguyên. Mẹ của ông nhấn mạnh rằng ông là con trai của nhà độc tài La Mã Julius Caesar. Caesarion được cho là đã được thừa kế của Caesar về dáng vẻ và phong cách, nhưng Caesar dường như đã không chính thức thừa nhận ông. Tuy nhiên ông ta có thể đã cho phép ông sử dụng tên của mình. Đó trở thành vấn đề tranh cãi khi con nuôi của Caesar Octavian tham vào cuộc xung đột với Cleopatra. Người Ủng hộ của ông Gaius Oppius đã viết một cuốn sách nhỏ trong đó đã cố gắng để chứng minh rằng Caesar không thể là cha của Caesarion. Cleopatra cũng so sánh mối quan hệ của bà với con trai mình như của nữ thần Ai Cập Isis và người con Horus kỳ diệu của bà. Caesarion dành hai của năm đầu đời của ông, 46-44 trước Công nguyên, ở Roma, nơi ông và mẹ ông là khách mời của Caesar. Cleopatra hy vọng rằng con trai mình cuối cùng sẽ kế thừa cha mình như là người đứng đầu Cộng hòa La Mã cũng như Ai Cập. Sau khi vụ ám sát Caesar, ngày 15 tháng Ba, 44 TCN, Cleopatra và Caesarion trở lại cho Ai Cập. Caesarion được đưa lên cai trị cùng mẹ mình vào ngày 02 Tháng 9, 44 TCN ở tuổi lên ba, mặc dù ông làm vua trên danh nghĩa, với Cleopatra giữ quyền lực thực tế tất cả cho chính mình. Trong giai đoạn căng thẳng dẫn đến cuộc xung đột cuối cùng giữa Marcus Antonius và Octavian (trong tương lai là Hoàng đế Augustus), Antonius chia sẻ quyền kiểm soát nước Cộng hoà trong một bộ ba với Octavian và Lepidus, nhưng Lepidus bị buộc vào phải thoái lui bởi Octavian năm 36 TCN, để lại Antonius và Octavian là đối thủ của nhau. Hai năm sau, năm 34 TCN, Antonius cấp vùng đất phía đông và các chức danh khác nhau cho Caesarion và ba đứa con riêng với Cleopatra. Caesarion được tuyên bố là một vị thần, con trai của thần và "Vua của các vị vua". Tiêu đề hùng vĩ này là "chưa từng có trong việc quản lý các vị vua chư hầu của La Mã" và có thể được xem là "đe dọa" sự vĩ đại 'của người dân La Mã ". Phần lớn nhằm đe dọa Octavian (có tuyên bố về quyền lực dựa trên tình trạng mình là cháu trai của Julius Caesar và cũng là con nuôi), Antonius tuyên bố Caesarion là con trai thực sự của Caesar và là người thừa kế. Sau thất bại của Antonius và Cleopatra trong trận Actium, Cleopatra có vẻ như đã chuẩn bị cho Caesarion tự nắm quyền "cai trị duy nhất mà không có mẹ của mình" Bà có thể có dự định đi sống lưu vong, có lẽ với Antonius, người đã hy vọng ông sẽ được phép rút lui, như Lepidus. Khi Octavian xâm chiếm Ai Cập năm 30 trước Công nguyên, Cleopatra gửi Caesarion, vào lúc này 17 tuổi, tới hải cảng Berenice bên bờ Biển Đỏ để đảm bảo an toàn, với kế hoạch có thể có là một lối thoát tới Ấn Độ. Octavian chiếm được thành phố Alexandria vào ngày 01 Tháng Tám, năm 30 TCN, ngày đánh dấu sự sáp nhập chính thức của Ai Cập vào Cộng hoà La Mã. Marcus Antonius đã tự tử trước khi Octavian tiến vào thành phố, Cleopatra tự sát theo ông ngày 12 tháng 8, năm 30 trước Công nguyên. Tổ tiên Tổ tiên của Caesarion Chú thích Liên kết ngoài Ptolemy XV Caesarion entry in historical sourcebook by Mahlon H. Smith Vua Ai Cập Pharaon Vương triều Ptolemaios Năm 30 TCN Mất thập niên 30 TCN Năm 47 TCN Con hoang của hoàng gia
VI_open-0000000798
News
Ẩm thực Ý đã phát triển qua nhiều thế kỷ với những biến động chính trị và xã hội, với nguồn gốc lùi lại cho đến thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Ẩm thực Ý chịu ảnh hưởng lớn từ Etruscan, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Byzantine, người Do Thái và các món ăn Ả Rập, Etruscan, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Byzantine, và Do Thái. Thay đổi đáng kể đã diễn ra cùng với sự phát hiện Tân thế giới và việc du nhập một loạt cây lương thực như khoai tây, cà chua, ớt và ngô, hiện nay là các thành phần chính của các món ăn, nhưng đã không được du nhập với số lượng lớn cho đến thế kỷ thứ 18. Ẩm thực Ý được chú ý với sự đa dạng trong các vùng miền, phong phú của sự khác biệt trong hương vị, và được biết đến là một trong những nền ẩm thực phổ biến nhất trên thế giới, với ảnh hưởng ra các nước khác trên thế giới. Thành phần và các món ăn khác nhau theo vùng. Nhiều món từng là đặc sản của vùng nhưng đã phát triển mạnh với những thay đổi trong cả nước. Pho mát và rượu vang là một phần quan trọng trong ẩm thực, tên gọi của vùng xuất xứ được luật quy định và với nhiều biến thể (Denominazione di origine controllata) (DOC). Cà phê, đặc biệt là espresso, đã trở thành một phần quan trọng trong ẩm thực Ý. Lịch sử Ẩm thực Ý đã phát triển qua nhiều thế kỷ. Mặc dù nước Ý được biết đến là không thống nhất cho đến thế kỷ XIX, nền ẩm thực có thể tìm ra nguồn gốc lùi về đến thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Qua nhiều thế kỷ, nước láng giềng khu vực, kẻ chinh phục, các đầu bếp cao cấp, biến động chính trị và phát hiện ra Tân thế giới đã ảnh hưởng đến một trong những nền ẩm thực đầu tiên trên thế giới. Cổ đại Người đầu tiên viết về thức ăn Ý được biết đến là Archestratus, một người Sicilia gốc Hy Lạp từ Siracusa, vào thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Ông đã viết một bài thơ nói về cách sử dụng các thành phần món ăn "chất lượng hàng đầu và theo mùa". Ông nói rằng mùi vị không nên bị các loại gia vị, thảo dược và gia vị khác lấn át. Ông đặt tầm quan trọng về việc chế biến đơn giản món cá. Phong cách này dường như bị lãng quên trong thế kỷ thứ I khi De coquinaria lại được xuất bản với 470 công thức nấu ăn kêu gọi sử dụng nhiều loại gia vị và thảo dược. Người La Mã mướn người làm bánh Hy Lạp để sản xuất bánh mì và pho mát nhập khẩu từ Sicilia, vì là Sicilia đã có một danh tiếng là nơi sản xuất pho mát tốt nhất. Người La Mã nuôi dê lấy thịt, và trồng atisô và tỏi tây. Sự đơn giản bị xóa bỏ và thay thế bởi một văn hóa của nghệ thuật ẩm thực mà người La Mã phát triển. Thời gian trôi qua, cuốn De re coquinaria được xuất bản trong thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, nó bao gồm 470 công thức sử dụng nhiều loại gia vị và rau thơm. Người La Mã tuyển dụng người làm bánh Hy Lạp để sản xuất bánh mì và nhập khẩu pho mát từ Sicilia vì ngươi Sicilia có danh tiếng là nhà sản xuất pho mát tốt nhất. Người La Mã nuôi dê để lấy thịt, và trồng atisô và tỏi tây. Hiện đại Đầu thế kỷ 18, sách nấu ăn Ý bắt đầu chú trọng vào tính vùng miền của ẩm thực Ý thay vì Ẩm thực Pháp. Các sách không viết về đầu bếp chuyên nghiệp nữa mà viết về những bà nội trợ giai cấp tư sản. Theo định kỳ dưới dạng sách như La cuoca cremonese ("đầu bếp của Cremona") năm 1794 đưa ra một chuỗi các nguyên liệu theo mùa cùng với các chương về thịt, cá và rau. Thời gian trôi qua, kích thước, sự phổ biến và tần suất của những quyển sách này tăng dần lên. Trong thế kỷ 18, các sách y tế cảnh báo nông dân chống tại đồ ăn tinh chế vì họ tin rằng loại thức ăn này không tốt cho tiêu hoá và cơ thể cần những bữa ăn có lợi cho sức khoẻ. Một số người tin rằng nông dân ăn đồ không tốt vì họ thích thế. Tuy nhiên, nhiều nông dân phải ăn thức ăn thối và bánh mì mốc vì đó là tất cả những gì họ có thể trang trải. Năm 1779, Antonio Nebbia từ Macerata ở vùng Marche, viết Il Cuoco Maceratese ("Đầu bếp của Macerata"). Nebbia chỉ ra sự quan trọng của các loại rau địa phương và pasta, cơm và gnocchi. Về nguyên liệu, ông ấy đánh giá cao rau và thịt gà hơn các loại thịt khác. Năm 1773, Il Cuoco Galante ("Người đầu bếp lịch sự") của Neapolitan Vincenzo Corrado nhấn mạnh đặc biệt về Vitto Pitagorico (đồ chay). Cuốn sách này là cuốn đầu tiên đặt cà chua làm vai trò trung tâm với mười ba công thức về nó. Năm 1790, Francesco Leonardi đã phác thảo lịch sử của ẩm thực Ý từ thời La Mã và đưa ra công thức đầu tiên của ông ấy về nước xốt cà chua trong cuốn L'Apicio moderno ("Apicius hiện đại"). Trong thế kỷ 19, Giovanni Vialardi, đầu bếp của vua Victor Emmanuel, viết A Treatise of Modern Cookery and Patisserie với các công thức "thích hợp cho những gia đình khiêm tốn". Nhiều công thức của ông viết cho các món vùng miền từ Turin bao gồm mười hai công thức về khoai như Genoese Cappon Magro. năm 1829, Il Nuovo Cuoco Milanese Economico bởi Giovanni Felice Luraschi viết về các món ăn Milan như Thận với cá cơm và chanh và Gnocchi alla Romana. La Cucina Genovese của Gian Battista và Giovanni Rattoin năm 1871 viết về ẩm thực Liguria. Cuốn sách này có công thức đầu tiên cho pesto. La Cucina Teorico-Pratica viết bởi Ippolito Cavalcanti có công thức đầu tiên cho pasta với cà chua. La scienza in cucina e l'arte di mangiare bene ("Khoa học nấu ăn và Nghệ thuật ăn"), bởi Pellegrino Artusi, xuất bản lần đầu năm 1891, được đánh giá rộng rãi là phát súng thần công của ẩm thực Ý tân cổ điển, và bây giờ nó vẫn được in. Công thức của nó đến từ Romagna và Toscana, nơi ông ấy sống. Nguyên liệu Ẩm thực Ý có rất nhiều nguyên liệu đa dạng thường được sử dụng, từ hoa quả, nước xốt, thịt, v.v. Ở Bắc Ý, cá (như cá tuyết, hoặc baccalà), khoai tây, gạo, ngô, xúc xích, thịt lợn, và các loại pho mát khác nhau là các nguyên liệu phổ biến nhất. Các món pasta sử dụng cà chua phổ biến trên toàn nước Ý. Ở Bắc Ý dù có rất nhiều các loại mì ống nhồi nhân, Polenta và risotto phổ biến ngang nhau. Nguyên liệu Liguria bao gồm các món cá và hải sản; húng quế (trong pesto), các loại hạt và dầu ô liu rất phổ biến. Ở Emilia-Romagna, các nguyên liệu phổ biến bao gồm giăm bông (prosciutto), xúc xích (cotechino), các loại salami khác nhau, nấm cục, pho mát Grana, Parmigiano-Reggiano, và cà chua (xốt Bolognese hoặc ragù). Ẩm thực Trung Ý truyền thống sử dụng các nguyên liệu như cà chua, tất cả các loại thịt, cá và pho mát pecorino. Ở pasta Toscana (đặc biệt là pappardelle) theo truyền thống được phục vụ với nước xốt thịt (bao gồm thịt thú săn). Cuối cùng ở Nam Ý, cà chua tươi hoặc xốt cà chua, hạt tiêu, ô liu và dầu ô liu, tỏi, atisô, cam, pho mát ricotta, cà tím, bí ngòi, một số loại cá (cá cơm, cá mòi và cá ngừ) và nụ bạch hoa là các ẩm thực địa phương quan trọng. Ẩm thực Ý cũng được biết đến rộng rãi với sự đa dạng của pasta. Pasta bao gồm các loại mì có độ dài, rộng và hình dáng khác nhau. Chúng được đặc tên theo hình dáng—penne, maccheroni, spaghetti, linguine, fusilli, lasagne và nhiều loại khác được nhồi nhân như ravioli và tortellini. Từ pasta cũng được sử dụng để nói về các món mà trong đó sản phẩm từ pasta là nguyên liệu chính. Người ta người ăn nó với nước xốt. Có hàng trăm hình dáng của pasta và ít nhất chúng có tên riêng địa phương. Các ví dụ bao gồm spaghetti (dây mỏng), rigatoni (ống hoặc hình trụ), fusilli (xoáy), và lasagne (tấm). Bột viên, như gnocchi (làm từ khoai tây) và spätzle giống mì, đôi khi cũng được coi là pasta. Chúng đều là truyền thống trong các vùng ở Ý Pasta được phân loại theo hai kiểu cơ bản: khô và tươi. Pasta khô không được làm từ trứng và có thể được chứa đến 2 năm trong điều kiện lý tưởng, trong khi pasta tươi có thể để một vài ngày trong tủ lạnh. Pasta thường được nấu bằng cách luộc. Dưới luật của Ý, pasta khô (pasta secca) chỉ có thể được làm từ bột lúa mì cứng flour hoặc bột semolina lúa mì. Và nó thường được ở dụng ở Nam Ý nhiều hơn sơ với Bắc Ý vì Bắc Ý có truyền thống thích pasta trứng tươi. Bột lúa mì cứng và semolina có màu vàng. Pasta Ý theo truyền thống được nấu theo kiểu al dente (tiếng Ý: cứng để cắn được, nghĩa là không mềm quá). Ngoài Ý, pasta khô thường được làm từ các loại bột khác, nhưng sẽ cho ra sản phẩm mềm hơn và không thể nấu theo kiểu al dente. Có rất nhiều loại bột mì với cấp độ gluten và chất đạm khác nhau phụ thuộc vào loại ngũ cốc được sử dụng. Các loại pasta cụ thể cũng có thể sử dụng các ngũ cốc và phương pháp xay khác, được chỉ rõ theo luật. Một số loại pasta, như pizzoccheri, được làm từ bột mạch ba góc. Pasta tươi có thể bao gồm trứng (pasta all'uovo 'pasta trứng'). Pasta bột mì nguyên cám dần trở nên phổ biến hơn vì nó có lợi cho sức khoẻ hơn so với bột mì tinh chế. Ẩm thực theo vùng Mỗi vùng ở Ý có đặc sản riêng của nó, về cơ bản là ở mức độ vùng miền, nhưng cũng có ở mức độ tỉnh. Sự khác biệt có thể đến từ các quốc gia lân cận (như Pháp và Áo), vùng đó gần với núi hay biển và kinh tế của vùng đó. Ẩm thực Ý cũng thay đổi theo mùa với sự ưu tiên sử dụng các nguyên liệu tươi. Abruzzo và Molise Pasta, thịt và rau là trung tâm của ẩm thực Abruzzo và Molise. Ớt (peperoncini) là điển hình của Abruzzo, mọi người gọi nó là diavoletti ("quỷ nhỏ") bởi độ cay của nó. Vì lịch sử dài của nghề chăn cừu ở Abruzzo và Molise, các món cừu phổ biến ở đây. Thịt cừu thường được sử dụng với pasta. Nấm (thường là nấm dại), hương thảo, và tỏi cũng được sử dụng rộng rãi ở ẩm thực Abruzzo. Nổi tiếng nhất là dầu ô liu tuyệt đối tinh khiết được sản xuất ở những cánh đồng địa phương trên đồi của vùng này, được đánh dấu theo mức độ chất lượng DOP và được coi là một trong những loại tốt nhất của Ý. Rượu vang như Montepulciano DOCG và Trebbiano d'Abruzzo DOC được coi là trong số các loại rượu vang tốt nhất thế giới. Năm 2012 chai Trebbiano d'Abruzzo Colline Teramane xếp hạng #1 trong lễ trao giải 50 rượu vang Ý tốt nhất. Centerbe ("một trăm thảo mộc") là loại rượu mùi thảo mộc cay cực mạnh (độ cồn 72%) của địa phương. Một loại rượu mùi khác là genziana, sản phẩm trưng cất của rễ gentian. Món nổi tiếng nhất của Abruzzo là arrosticini, các miếng thịt cừu thiến nhỏ trên những que gỗ được nướng trên than. Chitarra (nghĩa đen là "đàn ghi-ta")là một công cụ mà qua đó bột nhào pasta được trải ra để cắt. Ở Teramo, các món ăn địa phương bao gồm súp virtù (được làm với legume, các loại rau và thịt lợn); timballo (pasta dạng tấm có nhân thịt, rau và cơm); và mazzarelle (dồi cừu nhồi với tỏi, marjoram, xà lách, và các loại gia vị). Sự phổ biến của saffron, được trồng ở tỉnh L'Aquila, đã giảm dần trong những năm gần đây. Món phổ biến nhất của Molise là cavatelli, là một loại pasta dài được làm bằng tay giống maccheroni được làm từ bột mì, semolina và nước, thường được phục vụ với nước xốt thịt, súp lơ và nấm. Bánh quy Pizzelle là món tráng miệng phổ biến, được biệt là trong mùa Giáng Sinh. Apulia Apulia là một nơi sản xuất đồ ăn lớn: là nơi sản xuất chính bao gồm lúa mạch, cà chua, bí ngòii, súp lơ xanh, ớt chuông, khoai tây, cà tím, súp lơ trắng, thì là, rau diếp quăn, đậu gà, đậu lăng, các loại đậu và pho mát (như pho mát caciocavallo truyền thống). Apulia cũng là nơi sản xuất dầu ô liu lớn nhất nước Ý. Biển cung cấp lượng cá và hải sản dồi dào được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực vùng miền, đặc biệt là hàu, vẹm. Dê và cừu đôi khi cũng được sử dụng. Vùng này nổi tiếng với pasta làm từ lúa mì cứng và món pasta truyền thống kiểu orecchiette, người ta thường dùng nó với xốt cà chua khoai tây, vẹm,hoặc cime di rapa. Pasta với cà chua bi và rau arugula cũng phổ biến. Các món tráng miệng vùng miền bao gồm zeppola, bánh doughnut thường phủ với đường bột và có nhân custard (sữa trứng), thạch, kem bánh cannoli hoặc một hỗn hợp bơ mật ong. Trong Giáng Sinh, người Apulia làm một loại bánh rất truyền thống có hình hoa hồng gọi là Cartellate . Nó được chiên và chấm vào Vin Cotto, một loại rượu vang biến đổi hoặc trong một số trường hợp là nước ép sung. Basilicata Ẩm thực Basilicata hầu như dựa trên các nguyên liệu không đắt và bắt nguồn sâu sắc từ truyền thống nông thôn. Thịt lợn là một phần mở rộng của ẩm thực vùng miền, người ta thường dùng nó làm xúc xích hoặc được nướng trên xiên. Các loại xúc xích khô từ vùng này là lucanica và soppressata. Lợn rừng và thịt cừu cũng rất phổ biến. Các loại xốt pasta thường dựa trên thịt hoặc rau. Ớt peperoncini cay được sử dụng rộng rãi, cũng như quả được gọi là "peperoni cruschi" (ớt giòn). Vùng này sản xuất các loại pho mát như Pecorino di Filiano PDO, Canestrato di Moliterno PGI, Pallone di Gravina và Paddraccio và dầu ô liu như Vulture PDO. Basilicata được biến đến với pasta troccoli và capunti giống với spaghetti, một loại pasta hình trái xoan ngắn và dày có có hình dạng rống với quả đậu rỗng mở. Người ta thường phục vụ Capunti với xốt cà chua hoặc các loại xốt thịt. Lagane e ceci là một trong các món truyền thống, còn được biết đến là piatto del brigante (món của du côn), pasta được chuẩn bị với đậu gà và cà chua gọt vỏ; rafanata, một loại trứng ốp la với củ cải ngựa; ciaudedda, món rau củ hầm với atisô, khoai tây, đậu răng ngựa và pancetta; và baccalà alla lucana, một trong số ít các công thức nấu ăn với cá. Món tráng miệng bao gồm taralli dolci, được làm với đường và tiểu hồi cần để tạo mùi; và calzoncelli, bánh rát nhân kem hạt dẻ và sô cô la. Loại vang nổi tiếng nhất trong vùng là Aglianico del Vulture DOCG, các loại khác bai gồm Matera DOC, Terre dell'Alta Val d'Agri và Grottino di Roccanova. Basilicata cũng được biết đến với nước khoảng của nó, cái mà được bán rộng rãi khắp Ý. Suối nước hầu hết nằm ở vùng trũng núi lửa của khu vực Vulture. Calabria Ở Calabria, có lịch sử bị cai trị bởi House of Anjou và Napoleon, cùng với ảnh hưởng từ Tây Ban Nha, tác động tới ngôn ngữ và các kỹ năng nấu ăn có thể được nhìn thấy ở cách đặt tên ví dụ như bánh, gatò, từ chữ tiếng Pháp gateau. Hải sản bao gồm cá kiếm, tôm, tôm hùm, nhím biển và mực. Pasta giống như Macaroni được sử dụng rộng rãi trong các món ăn vùng miền, thường được phục vụ với nước xốt dê, bò hoặc lợn với ricotta mặn. Các món chính bao gồm Frìttuli (thịt lợn), các loại xúc xích cay (như Nduja và Capicola), dê và ốc. Dưa gang và dưa hấu theo truyền thống được phục vụ trong salad hoa quả hoặc bọc trong giăm bông. Vang Calabria bao gồm Greco di Bianco, Bivongi, Cirò, Dominici, Lamezia, Melissa, Pollino, Sant'Anna di Isola Capo Rizzuto, San Vito di Luzzi, Savuto, Scavigna, Verbicaro. Một món ăn khác có nguồn gốc Calabria là pizza Calabria nổi tiếng. Loại bizza này dựa trên cấu trúc Napoli với nước xốt cà chua và đế pho mát. Tuy nhiên, điều làm loại pizza này độc đáo là vị cay, nhưng ngon của nó. Một số nguyên liệu có trong pizza Calabria bao gồm: soppressata cay thái mỏng, capicola cay, ớt cay và mozzarella tươi. Pizza Calabria đã trở thành một phần được biết đến rộng rãi trong các nhà hàng Ý khắp thế giới. Campania Campania sản xuất rộng rãi cà chua, ớt, hành lá, khoai tây, atisô, thì là, chanh và cam, chúng đều hấp thụ hương vị của đất vùng núi lửa. Vịnh Napoli cung cấp cá và hải sản. Campania là một trong những nhà sản xuất và tiêu thu pasta lớn nhất ở Italy, đặc biệt là spaghetti. Trong ẩm thực vùng miền, pasta được nấu trong nhiều cách mà bao gồm xốt cà chua, pho mát, sò và động vật có vỏ. Spaghetti alla puttanesca là một món nổi tiếng được làm với ô liu, cà chua, cá cơm, cà chua, bạch hoa, ớt và tỏi. Vùng này cũng nổi tiếng với sự sản xuất mozzarella của nó (đặc biệt là sữa từ trâu nước) được sử dụng trong nhiều món, bao gồm parmigiana (cà tím thái rán được chia tầng với pho mát và cà chua ở giữa, sau đó nướng). Các món tráng miệng bao gồm struffoli (bột chiên ngập dầu), pastiera có thành phần chính là ricotta và sfogliatelle, babà nhúng rượu rum. Bắt nguồn từ ẩm thực Napoli, pizza đã trở nên phổ biến trên rất nhiều phần trên thế giới. Pizza mà món bánh nướng lò dẹt hình tròn thường được phủ với xốt cà chua, pho mát (thường là mozzarella) và các nguyên liệu khác tuỳ thuộc vào văn hoá. Từ khi pizza xuất hiện, nhiều loại pizza khác đã được phát triển. Vì Napoli từng là thủ đô của vương quốc Hai Sicilia, ẩm thực của nó giống với ẩm thực truyền thống của vùng Campania, tạo nên sự cân bằng giữa các món dựa trên nguyên liệu nông thôn (pasta, rau, pho mát) và các món hải sản (cá, động vật giáp xác, động vật thân mềm). Một loạt các công thức nấu ăn bị ăn hưởng từ ẩm thực quý tộc địa phương, nó timballo và sartù di riso, món pasta hoặc cơm với sự chuẩn bị rất kĩ lưỡng, trong khi các món bắt nguồn từ truyền thống phổ biến chứa các nguyên liệu rẻ mà giàu dinh dưỡng, như pasta với đậu và các món pasta khác với rau. Các loại vang vùng miền nổi tiếng là Aglianico (Taurasi), Fiano, Falanghina, và Greco di Tufo. Emilia-Romagna Emilia-Romagna được biết đến với pasta từ bột lúa mì mềm và trứng và có nhân. Tiểu vùng Romagna cũng được biết đến với các món pasta như cappelletti, garganelli, strozzapreti, sfoglia lorda và tortelli alla lastra hoặc loại pho mát squacquerone rất độc đáo, món ăn nhẹ piada nổi tiếng khắp thế giới. Ở tiểu vùng Emilia, ngoài trừ Piacenza là ảnh hưởng nặng nề từ ẩm thực của Lombardia, người ta ít ăn cơm hơn. Polenta, một món từ ngô, phổ biến ở cả Emilia và Romagna. Bologna và Modena nổi bật với các món pasta như tortellini, lasagne, gramigna và tagliatelle, chúng cũng có thể được tìm thấy ở nhiều vùng khác. Giấm balsamic nổi tiếng chỉ được làm ở các thành phố của Emilia bao gồm Modena và Reggio Emilia, tuân theo các phương pháp truyền thốgn. Pho mát Parmigiano-Reggiano được sản xuất ở Reggio Emilia, Parma, Modena và Bologna và được sử dụng nhiều trong nấu ăn, trong khi loại Grana Padano được sản xuất ở Piacenza. Mặc dù bờ biển Adriatic là vùng đánh cá chính (nổi tiếng với lươn và sò), vùng này nổi tiếng hơn với các sản phẩm từ thịt, được biệt là thịt lợn, bao gồm: prosciutto, culatello và salami Felinocủa Parma, pancetta, coppa và salami của Piacenza, mortadella và salame rosa của Bologna, zampone, cotechino và cappello del prete của Modena và salama da sugo của Ferrara. Piacenza cũng được biết đến với một số món từ ngựa và lừa. Các món tráng miệng vùng miền bao gồm zuppa inglese (bánh trứng xốp và rượu mùi Alchermes) và panpepato (bánh Giáng Sinh với tiêu, sô cô la, gia vị và hạnh nhân). Friuli-Venezia Giulia Friuli-Venezia Giulia duy trì, trong ẩm thực của nó, liên kết lịch sử với Đế quốc Áo-Hung. Tỉnh Udine và Pordenone, ở phần phía tây Friuli, được biết đến với thịt muối San Daniele del Friuli, pho mát Montasio, và Frico truyền thống của họ. Các món điển hình các bao gồm pitina (thịt viên từ thịt xông khói), thú săn, các loại gnocchi và polenta khác nhau. Hầu hết các món ăn phía tây bị ảnh hưởng năng nề bởi ẩm thực Áo, Hungary, Slovenia và Croatia: các món điển hình bao gồm món hầm Istria (súp đậu, dưa cải bắp, khoai tây, thịt xông khói và sườn lợn), xúc xích Viên, goulash, ćevapi, bánh strudel táo, gugelhupf. Thịt lợn có thể cay và thường được nấu ở lò nướng mở gọi là fogolar. Các loại rượu vang loại DOC vùng miền bao gồm Collio Goriziano, Friuli Isonzo, Colli Orientali del Friuli và Ramandolo. Liguria Liguria được biết đến với rau và rau thơm (cũng như hải sản) trong ẩm thực của nó. Bánh pie mặn phổ biến, là sự trộn lẫn của rau và atisô cùng với pho mát, sữa đông và trứng. Hành tây và dầu ô liu được sử dụng. Vì thiếu đất trồng lúa mạch, người Liguria dùng cỏ gà trong farinata và món panissa giống polenta. Farinata được ăn không hoặc thêm hành tây, atisô, xúc xích, pho bánh hoặc cá cơm nhỏ. Các quận trên đồi sử dụng hạt dẻ làm nguồn cacbonhydrat. Pasta của Liguria bao gồm corzetti từ thung lũng Polcevera; pansoti, một loại ravioli hình tam giác có nhân rau, piccagge, pasta có hình ruy băng làm từ một chút trứng và phục vụ với xốt atisô hoặc xốt pesto; trenette, làm từ bột lúa mạch nguyên cám cắt thành những dải dài và ăn với pesto, đậu luộc và khoai tây; và trofie, một loại gnocchi của Liguria làm từ bột lúa mạch nguyên cám và khoai luộc, được làm thành dạng xoắn và thả vào pesto. Nhiều người Liguria di cư đến Argentina trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, làm ảnh hưởng đến ẩm thực của đất nước này (nếu không thì ẩm thực này chủ yếu là các sản phẩm từ thịt và sữa mà vùng nội địa Liguria không có). Lazio Các món pasta dựa trên guanciale (giăm bông không xông khói nấu với hàm hoặc má lợn) thường được thấy ở Lazio, như là pasta alla carbonara, và pasta all'amatriciana. Một món pasta của khu vực là arrabbiata, với xốt cà chua cay. Ẩm thực vùng này sử dụng nội tạng rộng rãi, tạo nên những món từ ruột như rigatoni vớt xốt pajata và coda alla vaccinara. Các sản phẩm điển hình của Lazio là pho mát làm từ sữa cừu (Pecorino Romano), porchetta (lợn quay không xương mặn, béo, và ẩm) và vang trắng Frascati. Ảnh hưởng từ cộng đồng người Do Thái cổ có thể được nhận ra ở món carciofi alla giudia truyền thống của ẩm thực La Mã. Lombardia Ẩm thực vùng miền của Lombardia chủ yếu dựa trên các nguyên liệu như ngô, gạo, thịt bò, thịt lợn, bơ, và mỡ. Các món cơm rất phổ biến ở vùng này, thường thấy trong các loại súp cũng như risotto. Phiên bản nổi tiếng nhất là risotto alla milanese, được nêm với saffron và thường được phục với các món chính của Milan, như ossobuco alla milanese (cẳng bê cắt kho với rau, rượu trắng và nước dùng) và cotoletta alla milanese (một loại côtlet rán giống như Wiener schnitzel, nhưng nấu "cả xương"). Các đặc sản vùng miền khác bao gồm cassoeula (một món điển hình mùa đông nấu từ bắp cải và thịt lợn), Mostarda của Cremona (gia vị béo làm từ hoa quả ướt đường và một loại si-rô vị mù tạt), Bresaola của Valtellina (bò muối sấy khô) và Pizzoccheri (một loại pasta hình ruy băng dẹt, được làm với 80% bột kiều mạch và 20% bột mì nấu với rau, khoai tây thái thành cục và chia tầng với pho mát Valtellina Casera ở giữa) và tortelli di zucca (ravioli với nhân bí cỏ) của Mantua kèm theo bơ chảy và theo sau là gà tây nhồi thịt gà hoặc các món thịt hầm khác. Các loại pho mát vùng miền bao gồm Robiola, Crescenza, Taleggio, Gorgonzola và Grana Padano (đồng bằng trung và nam Lombardia hỗ trợ nuôi gia súc). Polenta khá phổ biến ở khắp khu vực này. Các món tráng miệng vùng miền bao gồm bánh Giáng Sinh panettone nổi tiếng (bánh mì ngọt với cam, chanh yên, và vỏ chanh, cũng như nho khô). Marche Ở vùng bờ biển Marche, người ta sản xuất cá và hải sản. Ở đất liền, lợn nuôi và hoang được sử dụng làm xúc xích và giăm bông. Loại giăm bông này không được thái mỏng, mà được cắt thành từng khúc. Lợn sữa, gà và cá thường được nhồi với hương thảo hoặc thì là và tỏi trước khi nướng quay hoặc xiên. Ascoli, tỉnh xa nhất về phía nam của Marche, nổi tiếng với Olive all'ascolana, (ô liu bỏ hạt được nhồi với các loại thịt băm, trứng, pho mát Parmesan, rồi rán). Một sản phẩm nổi tiếng khác của Marche là Maccheroncini di Campofilone, từ thị trấn nhỏ Campofilone, một loại pasta thủ công chỉ làm từ bột cứng và trứng, được cắt mỏng và tan chảy trong mồm. Piemonte Giữa dãy Anpơ và thung lũng Po, với hệ sinh thái đa dạng, vùng này cung cấp ẩm thực tinh xảo và đa dạng nhất vùng bán đảo Ý. Là điển giao của ẩm thực truyền thống Ý và Pháp, Piemonte là vùng của Ý sở hữu số lượng pho mát lớn nhất có trạng thái địa lý được bảo vệ và rượu vang Denominazione di origine controllata. Nó cũng là nơi mà cả hiệp hôi Thức ăn Chậm trường dạy nấu ăn uy tín nhất của Ý, đại học Khoa học Ẩm thực được thành lập. Piemonte là vùng có các hoạt động thu hoạch hạt, nấm ăn, cynara cardunculus, đi săn và đánh cá. Nấm cục, tỏi, rau theo mùa, pho mát và gạo đều được sử dụng. Rượu vang từ nho Nebbiolo ví dụ như Barolo và Barbaresco được sản xuất tại đây cũng như rượu vang từ nho Barbera, vang có ga và Moscato d'Asti ngọt, nhẹ, có ga. Vùng này cũng phổ biến về sản xuất Vermouth và Ratafia. Castelmagno là loại pho mát được đánh giá cao của vùng này. Piemonte cũng phổ biến về chất lượng của thịt bò Carrù. Món ăn điển hình nhất của truyền thống Piemonte là agnolotti (pasta gập lại với thịt bò quay và nhồi rau), Panissa (một món điển hình của Vercelli, là một loại risotto với gạo Arborio hoặc gạo Maratelli, loại đậu Saluggia điển hình, hành tây, rượu vang Barbera, mỡ lợn, salami, muối và tiêu), taglierini (phiên bản mỏng hơn của tagliatelle), bagna cauda (xốt tỏi, cá cơm, dầu ô liu và bơ) và bicerin (đồ uống nóng được làm từ cà phê, sô cô la và sữa nguyên béo). Cuối cùng Piemonte là một trung những thủ đô bánh nướng và sô cô la của Ý, với các sản phẩm như Nutella, gianduiotto và marron glacé nổi tiếng thế giới. Sardegna Lợn sữa và lợn rừng được nướng xiên hoặc luộc trong món hầm với các loại đậu và rau, làm đặc hơn với bánh mì. Các loại rau thơm như bạc hà và sim được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực vùng miền. Sardegna cũng có nhiều loại bánh mì đặc biệt, được làm khô, nên để được lâu hơn các loại bánh ẩm. Một món cũng được nướng là bánh mì carasau civraxiu, coccoi pinatus, một loại bánh rất mang tính trang trí, và pistoccu thường chỉ được làm với bột mì và nước, ban đầu để dành cho người chăn nuôi, nhưng cũng thường được dùng tại nhà với cà chua, húng, oregano, tỏi, và các loại pho mát mạnh. Tôm rồng, tôm càng, mực, cá ngừ, cá mồi là các loại hải sản chính. Casu marzu là một loại pho mát rất mạnh được sản xuất tại Sardegna, nhưng vướng phải vấn đề pháp lý do mối lo ngại về vệ sinh. Sicilia Sicilia cho thấy dấu tích của tất cả các nền văn hóa xuất hiện trên đảo trong vòng hai thiên niên kỷ trước. Mặc dù ẩm thực này không nghi ngờ gì chủ yếu dựa trên ẩm thực Ý, đồ ăn Sicilia cũng có ảnh hưởng từ đồ ăn Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ả Rập. Dionysus được cho là đã giới thiệu rượu vang đến vùng này: một dấu vết lịch sử về sự ảnh hưởng từ Hy Lạp cổ đại. Người La Mã cổ đại giới thiệu rất nhiều món ăn từ ngỗng. Người Hy Lập Đông La Mã mang đến vị ngọt và chua và người Ả Rập giới thiệu đường, chi cam chanh, gạo, rau chân vịt, và saffron. Người Norman và Saufer thích các món thịt. Người Tây Ban Nha giới thiệu các sản phẩm từ Tân Thế giới bao gồm sô cô la, ngô, gà tây và cà chua. Hầu hết ẩm thực trên đảo khuyến khích việc sử dụng rau tươi như cà tím, ớt chuông, cà chua, và các loại cá như cá ngừ, cá tráp, cá mú, mực nang, và cá kiếm. Ở Trapani, phía cực tây của hòn đảo, ảnh hưởng từ Bắc Phi rõ rệt trong cách sử dụng nhiều món với couscous, thường kết hợp với cá. Đặc sản truyền thống từ Sicilia bao gồm arancini (một loại croquette cơm chiên), pasta alla Norma, caponata, pani ca meusa, và nhiều món tráng miệng và đồ ngọt như cannoli, granita và cassata). Điển hình của Sicilia là một loại rượu nâng độ đỏ gọi là Marsala, giống với rượu vang Đà Lạt và được xuất khẩu rất nhiều. Umbria Nhiều món ăn Umbria được chế biến bằng cách luộc hoặc nướng với dầu ô liu và rau thơm. Các món rau phổ biến và mùa xuân và mùa hè, trong khi mùa thu và mùa đông có các cuộc đi săn và nấm nấm cục đen từ Norcia. Các món từ thịt bao gồm xúc xích lợn rừng truyền thống, gà lôi, ngỗng, bồ câu, ếch và ốc. Castelluccio được biết đến với đậu lăng, Spoleto và Monteleone nổi tiếng với lúa mì spenta. Cá nước ngọt bao gồm lasca, cá hồi, cá rô, cá grayling, lươn, cá barbel, cá thịt trắng và cá hanh. Orvieto và Sagrantino di Montefalco là các loại rượu vang vùng miền quan trọng. Valle d'Aosta Ở Thung lũng Aosta, súp làm đặc với bánh mì là món ăn truyền thống cũng như pho mát, fondue, hạt dẻ, khoai tây và gạo. Polenta là một sản phẩm chủ yếu cùng với bánh mì đen, thịt muối xông khói, Motsetta (thịt sơn dương xông khói) và thú săn từ vùng rừng và núi. Bơ và kem béo là các thành phần quan trọng trong các món hầm, nướng hoặc kho. Các sản phẩm vùng miền điển hình bao gồm pho mát Fontina, Vallée d'Aoste Lard d'Arnad, vang đỏ và Génépi, rượu mùi làm từ ngải. Veneto Venice và nhiều vùng xung quanh ở Veneto được biết đến với risotto, một món ăn có nguyên liệu có thể thay đổi rất nhiều tuỳ theo khu vực, vì cá và hải sản được thêm vào ở vùng gần biển và bí đỏ, măng tây, xà lách Radicchio và đùi ếch xuất hiện ở vùng cách xa Adriatic. Được làm từ bột ngô xay mịn, polenta là một món ăn nông thôn truyền thống điển hình của Veneto và hầu hết vùng Bắc Ý. Nó có thể xuất hiện trong các món xào và nướng và có thể được phục vụ với các loại pho mát, cá khô hoặc các món thịt. Một số món polenta chứa porcini, rapini, hoặc các loại thịt và rau khác, như là chim sẻ nhỏ ở món polenta e osei ở Veneto và Lombardy, hoặc xúc xích. Ở một số khu vực ở Veneto người ta làm polenta từ một loại bột ngô đặc biệt, gọi là biancoperla, nên polenta có màu trắng thay vì màu vàng (còn được gọi là polenta bianca). Đỗ, đậu Hà Lan và các loại legume khác có thể được nhìn thấy ở vùng này với pasta e fagioli (đậu và pasta) và risi e bisi (cơm và đậu Hà Lan). Veneto có nhiều món khó tiêu sử dụng các loại nước xốt và gia vị lạ. Các nguyên liệu như cá khô hoặc đơn giản là cá cơm ướp cũng có thể tìm thấy ở đây. Ra xa khỏi vùng bờ biển người ta ăn nhiều thịt và ít cá hơn. Các sản phẩm điển hình khác là xúc xích như Soppressa Vicentina, salami tỏi, Piave (pho mát) và Asiago (pho mát). Các loại rau chất lượng cao được ưa chuộng, như là xà lách Radicchio đỏ từ Treviso và măng tây trắng từ Bassano del Grappa.Có thể món phổ biến nhất Venice là fegato alla veneziana, gan bê thái mỏng áp chảo với hành tây. Mực và mực nang là các món phổ biến, mực của mực được gọi là nero di seppia. Các món tráng miệng vùng miền bao gồm tiramisu (được làm từ bánh chấm trong cà phê, chia tầng và có hỗn hợp lòng đỏ trứng và pho mát mascarpone đánh ở giữa, và có hương vị của rượu và ca cao), baicoli (bánh quy làm với bơ và vani) và nougat. Các loại rượu vang lừng danh của Veneto là Bardolino, Prosecco, Soave, Amarone và Valpolicella DOC. Cấu trúc bữa ăn Theo truyền thống, các bữa ăn ở Ý thường bao gồm ba hoặc bốn món. Đặc biệt vào cuối tuần, bữa ăn thường được coi là thời gian dành cho gia đình và bạn bè thay vì chỉ để nghỉ ngơi; vì vật, bữa ăn thường dài hơn ở các quốc gia khác. Trong các ngày lễ như đêm Giáng Sinh hoặc đêm Giao Thừa, những bữa tiệc có thể kéo dài nhiều giờ. Ngày nay, thực đơn Ý truyền thống được duy trì chủ yếu cho các sự kiện đặc biệt (ví dụ như đám cưới) trong khi thực đơn hàng ngày chỉ gồm món thứ nhất và/hoặc món thứ hai (món ăn thêm và cà phê). Một khía cạnh nổi bật của ẩm thực Ý là primo hay món đầu tiên thường làm no như risotto hoặc pasta. Ẩm thực Ý cũng có những món đơn (món tất-cả-trong-một), cung cấp cacbohydrat và protein cùng một lúc (ví dụ pasta và legume). Phân loại quán ăn Mỗi loại quán ăn có chức năng riêng và thường gắn liền với chức năng đó. Đồ uống Cà phê Cà phê kiểu Ý (caffè), còn gọi là espresso, được làm từ một hỗn hợp hạt cà phê. Hạt espresso được rang đến mức trung bình hoặc trung bình tối ở phía bắc, và tối hơn ở phía nam. Một quan niệm sai là espresso có nhiều cafêin hơn các loại cà phê khác; trong thực tế ngược lại mới đúng. Quá trình rang dài hơn làm mất đi cafêin. Máy pha espresso hiện đại, được phát minh năm 1937 bởi Achille Gaggia, sử dụng một cái bơm và hệ thống áp suất với nước được làm nóng đến và đẩy với áp suất cao vài gam cà phê mịn trong 25–30 giây, tạo ra 25 mililít chất lỏng. Máy làm cà phê tại nhà đơn giản hơn nhưng cũng hoạt động dưới cùng quy tắc. La Napoletana là một đồ vật có bốn phần với bếp ở trên và phần đế đặt lỏng lẻo trong một cái máy lọc; phần ấm đun được đổ đầy với nước và khi nó sôi, nó được lật lại và chảy nhỏ giọt qua đế. Espresso thường được phục vụ trong cốc demitasse. Caffè macchiato được thêm một chút hơi và bọt sữa ở trên; ristretto mạnh và ít nước hơn; cappuccino được trộn hoặc phủ bên trên với bọt hơi sữa. Nó thường được coi là đồ uống buổi sáng, và thường được dùng sau bữa ăn; caffelatte có lượng cà phê và bọt sữa bằng nhau, giống với café au lait, và người ta thường phục vụ nó trong cốc to. Latte macchiato là một cốc sữa ấm với một chút cà phê và caffè corretto là được thêm vào một vài giọt đồ uống có cồn như grappa hoặc brandy. Bicerin cũng là một loại cà phê Ý, từ Turin. Nó là hỗn hợp cappuccino và sô cô la nóng truyền thống và một chút sữa. Nó khá đặc, và thường thì kem/bọt béo và bột sô cô la được thêm vào bên trên. Đồ uống có cồn Rượu vang Ý sảng xuất lượng vang lớn nhất trên thế giới và là cả nhà xuất khẩu và tiêu thụ rượu vang lớn nhất. Chỉ khoảng một phần tư lượng rượu vang được cho vào chai để bán lẻ. Hai phần ba tổng sản lượng dùng để trộn ở Pháp và Đức. Rượu vang được trưng cất thành rượu mạnh ở Ý vượt qua tổng sản lượng của Tân Thế giới. Có hai mươi vùng rượu vang riêng biệt. Những vườn nho sản xuất rượu vang lớn đang cố loại bỏ hình ảnh vại rượu cổ mà thường gắn liền với rượu vang Ý. Để thúc đẩy điều này, Chính phủ Ý thông qua luật Denominazione di origine controllata (DOC) năm 1963 để quản lý xuất xứ, chất lượng, phương pháp sản xuất và loại nho. Ký hiệu Indicazione Geografica Tipica (IGT) là ký hiệu ít giới hạn hơn để giúp người làm rượu vang tiến tới mức DOC. Năm 1980, chính phủ tạo ra ký hiệu Denominazione di origine controllata e garantita (DOCG), chỉ dành cho những loại vang tốt nhất. Ở Ý rượu vang (cùng với nước) thường được tiêu thụ trong các bữa bữa ăn, mặc dù rất hiếm khi nhìn thấy các bữa ăn được phục vụ với các loại đồ uống khác, cả có cồn hoặc không. Bia Ý sở hữu một loại các loại bia khác nhau, thường là lager nhạt. Bia không phổ biết như rượu vang (mặc dù điều này đang thay đổi, bia đang dần trở nên phổ biến hơn), và lượng tiêu thụ bia trung bình ở Ý ít hơn các nước láng giềng châu Âu, như Vương quốc Anh, Đức và Áo. Trong các hãng phổ biến, nhà máy bia phổ biến nhất là Peroni và Moretti. Bia ở Ý thường được uống ở pizzeria, và Nam Tyrol (vùng nói tiếng Đức) là vùng bia được sản xuất và tiêu thụ nhiều nhất. Khác Cũng có nhiều loại đồ uống có cồn nổi tiếng khác ở Ý. Limoncello,một loại rượu mùi vị chanh từ Sicilia và Nam Ý (Sorrento, Amalfi và Vịnh Napoli), nó là một trong những loại phổ biến nhất. Người ta làm nó từ chanh, nó là một loại đồ uống cực mạnh mà thường được uống với lượng rất nhỏ, trong cốc hoặc chén nhỏ. Amaro Averna là đồ uống có cồn hỗ trợ tiêu hoá ở Sicilia, nó được làm với thảo mộc, và người ta thường uống sau những bữa ăn lớn. Mirto, một loại rượu trưng cất làm từ quả mọng (sim đỏ) và lá (sim trắng), phổ biến Sardinia và các vùng khác. Một đồ uống hỗ trợ tiêu hoá khác là Amaro Lucano từ Basilicata. Grappa là loại đồ uống có cồn điển hình ở Bắc Ý, thường gắn liền với văn hoá của dãy Anpơ và thung lũng Po. Loại grappa phổ biến nhất được trưng cất ở Friuli-Venezia Giulia, Veneto, Piemonte và Trentino. Ba loại đồ uống có cồn hỗ trợ tiêu hoá nổi tiếng nhất của Ý là Martini, Vermouth và Campari. Một loại đồ uống có ga đang trở nên phổ biến trên thế giới và rẻ hơn sâm banh Pháp là prosecco, từ vùng Veneto. Món tráng miệng Theo quan điểm của người Ý, bánh quy và kẹo được phân vào cùng một thứ hạng đồ ngọt. Các loại kẹo truyền thống bao gồm mứt hoa quả, torrone, và hạt dòn, tất cả chúng đều phổ biến trong thời nay. Trong thời Trung Cổ, bắc Ý trở nên rất nổi tiếng cho các sản phẩm hoa quả trộn chất lượng (có dạng giống như marmalade hoặc mứt, ngoại trừ nó đủ cứng để được tạo hình bằng khuôn). Kẹo dragée, mà người Ý gọi là confetti, được dùng để ném trong đám cưới. Ý tưởng mang lại sự lãng mạn từ kẹo bắt đầu từ kẹo dragées của Ý, không muộn hơn đầu thế kỷ 19, và được tiếp tục đến nay cùng với những ghi chú tình yêu bên trong hộp sô cô la Baci nổi tiếng của Ý, bởi Perugina ở Milan. Loại sô cô la đặc biệt nhất là sự kết hợp của hạt phỉ và sô cô la sữa, giống ở trong sô cô la dạng phết như Nutella, được làm từ Ferrero SpA ở Alba, Cuneo, cũng như Baci của Perugnia và nhiều sản phẩm từ sô cô la. Xem thêm Danh sách món ăn Ý Danh sách nhà hàng Ý Ẩm thực San Marino Cấu trúc bữa ăn Ý Tham khảo Ẩm thực Ý Văn hóa Ý
VI_open-0000000813
Food_and_Drink
USS Memphis (CL-13) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Omaha của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi ngừng hoạt động vào năm 1945 và bị tháo dỡ năm 1946. Thiết kế và chế tạo Là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt tên theo thành phố Memphis thuộc tiểu bang Tennessee, Memphis được đặt lườn vào ngày 14 tháng 10 năm 1920 tại Philadelphia, Pennsylvania bởi hãng William Cramp & Sons. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 4 năm 1924; được đỡ đầu bởi cô Elizabeth R. Paine, con gái ngài Thị trưởng thành phố Memphis Rowlett Paine; và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 4 tháng 2 năm 1925 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Henry E. Lackey. Lịch sử hoạt động Những năm giữa hai cuộc thế chiến Vào cuối tháng 2 năm 1925, Memphis lên đường cho chuyến đi chạy thử máy tại vùng biển Caribbe. Vào ngày 13 tháng 4, chiếc tàu tuần dương tham gia lễ khánh thành đài tưởng niệm Thiếu tướng Hải quân Oliver Hazard Perry tại Port-of-Spain, Trinidad. Sáu năm sau khi Perry đánh bại lực lượng Anh tại hồ Erie vào ngày 10 tháng 9 năm 1813, vị đô đốc qua đời trên chiếc tàu frigate John Adams tại Port–of–Spain, và ông được chôn cất tại đây cho đến khi di hài được chuyển về Newport, Rhodes Island bảy năm sau đó. Vào tháng 6, Memphis tham gia cùng hạm đội tuần tiễu ngoài khơi Honolulu, Hawaii cho một chuyến đi đến Nam Thái Bình Dương vào tháng 9, viếng thăm Australia và New Zealand. Từ tháng 10 năm 1925 đến tháng 4 năm 1926, nó hoạt động tại khu vực Tây Ấn trước khi quay trở về cảng nhà tại New York. Sau đó Memphis lên đường đi Châu Âu, đi đến ngoài khơi St. Nazaire, Pháp vào ngày 26 tháng 6, và thay phiên cho tàu tuần dương Pittsburgh trong vai trò soái hạm Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại châu Âu vào ngày 4 tháng 7. Nó đã hoạt động tại các vùng biển châu Âu cho đến năm 1927. Trong chuyến ghé thăm Santander, Tây Ban Nha từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 31 tháng 8 năm 1926, con tàu được Vua Alfonso XIII viếng thăm. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1927, Memphis đón lên tàu Đại úy Charles A. Lindbergh và máy bay của ông tại Southampton, Anh Quốc, sau chuyến bay lịch sử không ngừng nghỉ của ông từ New York đến Paris. Ngày hôm sau, chiếc tàu tuần dương rời Cherbourg, Pháp, về đến Washington, D.C. vào ngày 11 tháng 6 để tiển lên bờ vị hành khách nổi tiếng tại Xưởng hải quân Washington. Trong thời gian còn lại của năm, nó thực hiện nhiệm vụ khảo sát dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Vào tháng 1 năm 1928, Memphis nằm trong thành phần hộ tống cho Tổng thống Calvin Coolidge trong một chuyến đi đến khu vực Tây Ấn. Sau bốn tháng hoạt động tại khu vực Caribbe, chiếc tàu tuần dương chuyển sang phục vụ tại khu vực Đông Thái Bình Dương. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1928, chiếc tàu tuần dương đi đến Balboa, Panama để hoạt động ngoài khơi khu vực Trung Mỹ cho đến tháng 5 năm 1933. Memphis đã phục vụ trong vai trò gìn giữ hòa bình tại Corinto, Nicaragua trong lễ nhậm chức của Tổng thống Juan Bautista Sacasa vào năm 1932. Trong năm năm tiếp theo, nó luân phiên các hoạt động dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ với các chuyến tuần tra đến khu vực nhiều biến động của Tây Ấn. Sau một chuyến viếng thăm hữu nghị đến Australia vào tháng 1 năm 1938, Memphis đi đến Honolulu vào ngày 1 tháng 4 để hoạt động cùng hạm đội cho đến khi nó tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội Tổng thống ngoài khơi San Francisco vào ngày 12 tháng 7 năm 1939. Đến tháng 8, nó lên đường đi Alaska, hoạt động tại đây cho đến đầu năm 1941. Chiến tranh Thế giới thứ hai Vào lúc Hoa Kỳ sắp tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, Memphis trên đường đi sang khu vực bờ Đông. Nó rời Newport vào ngày 24 tháng 4 năm 1941 để tham gia việc tuần tra trung lập tại khu vực tam giác đại dương Trinidad–mũi San Roque–quần đảo Verde, đi đến Recife, Brasil vào ngày 10 tháng 5; nó tiếp tục ở lại hoạt động tại Nam Đại Tây Dương trong hầu hết cuộc chiến tranh. Vào tháng 3 năm 1942, nó hộ tống đoàn tàu vận tải của Lục quân gồm hai tàu chuyển lực lượng đến quần đảo Ascension, nơi Trung đoàn Công binh 38 được cho đổ quân để xây dựng một sân bay như là trạm dừng cho máy bay từ Hoa Kỳ bay đến Châu Phi. Vào tháng 5, nó tuần tra gần các lối ra vào của cảng Fort-de-France, Martinique. Vào tháng 1 năm 1943, chiếc tàu tuần dương treo cờ hiệu của Tổng thống Franklin D. Roosevelt ở ngoài khơi Bathurst, Gambia trong quá trình Hội nghị Casablanca vào các ngày 14-24 tháng 1. Tổng thống đã cùng với Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill phác thảo kế hoạch cho việc chiếm đóng Sicilia và Ý. Từ tháng 2 đến tháng 9, Memphis lại đảm trách nhiệm vụ tuần tra chống tàu vượt phong tỏa, chủ yếu là ngoài khơi Bahia và Recife thuộc Brazil. Các tổng thống Juan José de Amézaga của Uruguay và Getulio Vargas của Brazil đã viếng thăm con tàu vào tháng 1 năm 1944 khi hai nước này có những hỗ trợ quý báu trong việc ngăn chặn "Khe hở Đại Tây Dương". Trong năm tiếp theo, Memphis lên đường đi châu Âu, viếng thăm Naples thuộc Ý vào ngày 16 tháng 1 năm 1945. Vào ngày 27 tháng 1, trong vai trò soái hạm của Đô đốc Harold R. Stark, Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại châu Âu, nó lên đường đi Valletta, Malta, địa điểm diễn ra cuộc hội nghị sơ bộ Đồng Minh chuẩn bị cho cuộc Hội nghị Yalta vào tháng 2. Trước cuối tháng 1, chiếc tàu tuần dương đón hai vị khách quan trọng: Thủy sư Đô đốc Ernest J. King và Thống tướng George C. Marshall. Ngày 18 tháng 2, Memphis đi đến Algiers nơi Tổng thống Roosevelt có cuộc hội đàm Đồng Minh cuối cùng trước khi quay trở về Hoa Kỳ. Trong tám tháng tiếp theo, nó tiếp tục đón tiếp những nhà lãnh đạo hàng đầu. Nó tham gia lễ hội kỷ niệm một năm ngày Đồng Minh đổ bộ xuống St. Raphael và St. Tropez thuộc miền Nam nước Pháp vào ngày 15 tháng 8, và lễ hội Ngày Hải quân tại Naples, Ý vào ngày 27 tháng 10. Vào cuối tháng 11, Memphis rời Tangier đi Philadelphia, Pennsylvania, nơi nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 12. Nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1946; rồi được bán cho hãng Patapsco Scrap Co., tại Bethlehem, Pennsylvania vào ngày 18 tháng 12 để tháo dỡ; công việc tháo dỡ được bắt đầu vào ngày 10 tháng 1 năm 1947. Phần thưởng Tham khảo Bài này có các trích dẫn từ nguồn Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: http://www.history.navy.mil/danfs/m8/memphis-iv.htm Lớp tàu tuần dương Omaha Tàu tuần dương của Hải quân Hoa Kỳ Tàu tuần dương trong Thế Chiến II
VI_open-0000000815
Autos_and_Vehicles
Aulacigastridae là một very small Họ của flies được gọi là sap flies. The family Stenomicridae used to be included within this family, but was moved by Papp năm 1984. The larvae of sap flies feed on the sap của rụng lá và coniferous trees (sap runs) and feed on micro-organisms within the sap. Adults feed on nectar, và other fermenting substances. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Diptera.info Images Aulacigastridae Họ côn trùng
VI_open-0000000817
Pets_and_Animals
Poecilmitis adonis là một loài bướm ngày in the Lycaenidae family. It is endemic to South Africa, ở đó nó is found on the northern slopes of the Gydoberg, the Skurweberg, the Baviaanskloofberg and the Waboomberg, as well as the Elandskloof near Seweweekspoort. The wingspan is 29–36 mm for males and 30–37 mm for females. Adults are on wing from October to March, with peaks in November and January. There are multiple generations per year. The larvae feed on Thesium and Zygophyllum species. They are attended to by Crematogaster liengmei ants. Ghi chú Chrysoritis Côn trùng Nam Phi Động vật đặc hữu Nam Phi
VI_open-0000000819
Pets_and_Animals
Coenagrion vanbrinkae là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae. Loài này được xếp vào nhóm loài thiếu dữ liệu trong sách Đỏ của IUCN năm 2004, de trend van de populatie is volgens de IUCN dalend. Coenagrion vanbrinkae được miêu tả khoa học năm 1993 bởi Lohmann. Chú thích Tham khảo Coenagrion
VI_open-0000000820
Pets_and_Animals
Stygobromus flagellatus là một loài giáp xác trong họ Crangonyctidae. Chúng là loài đặc hữu của Hoa Kỳ. Chú thích Tham khảo Inland Water Crustacean Specialist Group 1996. Stygobromus flagellatus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. F Động vật Mỹ Động vật giáp xác nước ngọt Bắc Mỹ Động vật được mô tả năm 1896
VI_open-0000000822
Pets_and_Animals
là một ấn phẩm tạp chí hàng tháng nổi tiếng có xuất xứ từ Nhật Bản, đăng tải thông tin về anime và manga (và đôi khi là tokusatsu, khoa học viễn tưởng Nhật Bản và trò chơi điện tử). Nó được Kadokawa Shoten ấn hành lần đầu vào ngày 8 tháng 3 năm 1985 với số tháng 4, và phát hành đều đặn vào ngày thứ mười của mỗi tháng tại quốc gia này. Có một phiên bản viết bằng tiếng Anh gọi là Newtype USA; và một phiên bản khác của Newtype cũng được xuất bản ở Hàn Quốc. Các ấn bản spin-off của Newtype cũng tồn tại ở Nhật Bản, như Newtype Hero/Newtype the Live (dành riêng cho tokusatsu) và NewWORDS (hướng tới đối tượng độc giả là người đã trưởng thành), cũng như một số phiên bản phát hành hạn chế (như CLAMP Newtype). Tên của tạp chí này bắt nguồn từ cụm "Newtype" trong dòng thời gian Universal Century của sê-ri Gundam, đặc biệt là Mobile Suit Gundam (1979) và phần tiếp theo Mobile Suit Zeta Gundam (1985). Tạp chí Newtype được in lần đầu một tuần sau khi Zeta Gundam bắt đầu chiếu vào ngày 2 tháng 3 năm 1985. Phiên bản phát hành ở Bắc Mỹ của tạp chí này đã ngừng xuất bản sau khi số tháng 2 năm 2008 của nó ra mắt. Chú thích Liên kết ngoài Tạp chí anime Tạp chí anime và manga Tạp chí Nhật Bản Kadokawa Shoten Tạp chí Kadokawa Shoten
VI_open-0000000824
Arts_and_Entertainment
Otto Braun () (1900-1974) một người cộng sản Đức là người lãnh đạo quân sự cuộc Vạn lý Trường chinh, Trung Quốc trong giai đoạn đầu. Ông sinh ngày 28 tháng 9 năm 1900 tại Ismaning (gần Munich). Otto Braun tham gia thành lập Đảng Cộng sản Đức (DKP) và được Quốc tế Cộng sản gửi đến Trung Quốc vào năm 1934, để tham mưu cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) về chiến lược quân sự trong Cuộc chiến tranh Quốc - Cộng. Vào thời điểm đó Braun mang một cái tên Trung Quốc là Li De (Hán - Việt: Lý Đức), chỉ nhiều năm sau đó người ta mới biết Otto Braun và "Li De" là cùng một người. Tại Hội nghị Tuân Nghĩa năm 1935, trong cuộc Vạn lý Trường chinh, Otto Braun bị mất quyền chỉ huy quân sự. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục tham gia Vạn lý Trường chinh và tiếp tục ở lại Trung Quốc cho đến năm 1939, làm cố vấn quân sự và giảng dạy chiến thuật. Năm 1973, ông xuất bản hồi ký "Chinese Notes". Hồi ký này được các nhà viết sử nghiên cứu và đánh giá có nhiều thông tin có giá trị và hữu ích. Braun chết ở tuổi 74, trong khi đi nghỉ ở Varna, Bulgaria. Ông được chôn cất ở Đông Berlin, cáo phó của ông được trên tờ Pravda và The New York Times. Trong Bộ phim sử thi Trường Chinh dài 24 tập do Truyền hình trung ương Trung Quốc thực hiện năm 2001, có nhân vật Lý Đức do diễn viên người Nga Sergey Georgyevich thủ vai. Tham khảo Freddy Litten (Frederick S. Litten), abstracts from "China and intelligence history" (on the Long March) Braun, Otto. A Comintern Agent in China 1932-1939. Translated by Jeanne Moore. London: C. Hurst, 1982 "Li De yu Zhongguo geming (youguan ziliao)" ("Li De and the Chinese Revolution [Relevant Materials]") by Shi Zhifu; Zhou Wenqi; review in The China Quarterly, No. 118 (Jun., 1989), pp. 373–374, Published by Cambridge University Press on behalf of the School of Oriental and African Studies. "Otto Brauns frühes Wirken in China (1932-1935)" ("Otto Braun's Early Activity in China (1932-1935") by Freddy Litten. Freddy Litten (Frederick S. Litten), abstracts from "China and intelligence history" (on the Long March) Nội chiến Trung Quốc
VI_open-0000000826
News
Otukaia kiheiziebisu là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Calliostomatidae. Miêu tả Phân bố Hình ảnh Chú thích Tham khảo photo of the type specimen (holotype) in the The University Museum, The University of Tokyo. http://clade.ansp.org/obis/search.php/71835 Gastropods.com: Calliostoma (Otukaia) kiheiziebisu K
VI_open-0000000829
Pets_and_Animals
Pienza 'là một đô thị tại tỉnh Sienna ở vùng Veneto, Ý. Đô thị này có diện tích 112  km², dân số là 2231 người (thời điểm 31 tháng 12 năm 2005) Trung tâm lịch sử thành phố Pienza là di sản thế giới UNESCO. Tham khảo Di sản thế giới tại Ý Thành phố của Ý Đô thị tỉnh Sienna Khởi đầu năm 1459
VI_open-0000000835
Jobs_and_Education
Elena Vaenga (tiếng Nga: Еле́на Ва́енга; sinh năm 1977) là một nữ nghệ sĩ Nga nổi tiếng. Cô là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà soạn nhạc, đồng thời là một diễn viên được nhiều người biết đến tại Nga. Thân thế Elena, còn được viết là Yelena, có tên khai sinh là Elena Vladimirovna Khrulyova (Елена Владимировна Хрулёва), sinh ngày 27 tháng 1 năm 1977, tại Snezhnogorsk, Murmansk, Liên Xô. Ông ngoại cô là một Chuẩn đô đốc Hạm đội Phương Bắc Liên Xô, Vasily Semyonovich Zhuravel (Василий Семёнович Журавель).. Sự nghiệp âm nhạc Elena biểu lộ năng khiếu âm nhạc từ rất sớm. "Những chú chim bồ câu" (Голуби) là bài hát đầu tiên được cô sáng tác khi mới lên 9, đã giành được một giải thưởng trong liên hoan các nhà sáng tác trẻ Liên Xô được tổ chức tại Murmansk. Nhờ đó, cô đã nhận được một suất đào tạo về nhạc cổ điển tại địa phương. Sau khi tốt nghiệp Trung học, gia đình cô dời đến sống tại Sankt-Peterburg và theo học ngành biểu diễn piano và giáo viên thanh nhạc tại Nhạc viện N.A. Rimsky-Korsakov. Elena tham gia biểu diễn hòa nhạc từ năm 19 tuổi. Năm 1998, cô chiến thắng trong cuộc thi "Bài hát được yêu thích của năm" của Sankt-Peterburg với bài hát "Người Di-gan". Sau khi tốt nghiệp tại Nhạc viện N.A. Rimsky-Korsakov, cô tiếp tục theo học một khóa học của G. Trostianetsky tại Học viện Sân khấu Sankt-Peterburg để thỏa mong ước thuở nhỏ là trở thành diễn viên. Tuy nhiên, việc học chỉ kéo dài được 2 tháng thì cô nhận được lời mời đến Matxcơva để thu âm album đầu tay. Trong album đầu tiên, Elena hát các sáng tác của các một số nghệ sĩ Nga nổi tiếng lúc bấy giờ như Alexander Marshall, Tatiana Tishinskaja... Cô hoạt động ở Matxcơva trong một năm, sau đó trở lại Sankt-Peterburg. Tại đây, cô theo học khoa Nghệ thuật Sân khấu tại Học viện Kinh tế, Chính sách và Pháp luật Baltic và tốt nghiệp vào năm 2000. Elena tiếp tục trở tại với sự nghiệp biểu diễn. Năm 2002, cô đạt giải thưởng "Bài hát trang nhã". Cô trở thành một ca sĩ được yêu thích, thường xuyên biểu diễn với Dàn hợp tấu Tháng Mười. Năm 2009, cô đoạt giải "Đĩa vàng" với nhạc phẩm "Sương khói" (Курю). Năm sau, cô tiếp tục giành được giải "Đĩa vàng" với nhạc phẩm "Phi trường" (Аэропорт). Chú thích Liên kết ngoài Trang web chính thức của Elena Vaenga О концерте Ваенги Một số nhạc phẩm Elena Vaenga trình bày chính: "Cuộc chiến tranh thần thánh", "Cachiusa", "Chiều Leningrad" (một phiên bản của "Chiều Maxcơva") Sinh năm 1977 Nhân vật còn sống Nữ ca sĩ Nga Nữ ca sĩ thế kỷ 21
VI_open-0000000837
Arts_and_Entertainment
Tông Lệ đường (danh pháp khoa học: Kerrieae) là một tông trong họ Rosaceae. Định nghĩa của tông này là nó là một nhánh phải chứa chi Kerria (loài điển hình là Kerria japonica (L.) DC.), nhưng không phải Amygdaleae, Osmaronieae, Neillieae, Sorbarieae, Spiraeeae hay Pyrodae. Các chi Coleogyne Torr. Kerria DC. Neviusia A. Gray Rhodotypos Siebold & Zucc. Các đặc trưng Các đặc trưng phân biệt phi phân tử: Lá mọc đối ở Coleogyne và Rhodotypos. Bầu nhụy đơn độc ở Coleogyne. Quả là quả hạch con (nuculanium), riêng ở Neviusia là quả bế (achenetum). Số nhiễm sắc thể cơ sở x = 9 (8 ở Coleogyne). Ghi chú
VI_open-0000000839
Science
Dân tộc Nga (Giản thể: 俄罗斯族, Phồn thể: 俄羅斯族, Bính âm: Éluósī-zú, Hán Việt: Nga La Tư tộc) là một trong 56 dân tộc được công nhận chính thức của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Những người này là hậu duệ của những người Nga đã nhập cư đến Trung Quốc từ thế kỷ 17 và nay mang quốc tịch Trung Quốc mà không phải là công dân Nga. Lịch sử Vào thế kỷ 17, Đế quốc Nga đã tổ chức nhiều hành động quân sự chống nhà Thanh. Năm 1644, một nhóm quân Nga bị quân đội nhà Thanh đánh bại, những người còn sống bị nhà Thanh tống giam. Trong Xung đột biên giới Nga-Mãn Châu, gần 100 đã đầu hàng chính quyền nhà Thanh, Hoàng đế Khang Hi đã cho đưa họ tới Tương Hoàng Kỳ ở Nội Mông ngày nay. Hậu duệ của họ tồn tại đến ngày nay và được gọi là Albazinian. Từ năm 1860 đến 1884, rất nhiều người Nga đã đến Hulun Buir để tìm vàng, và năm 1900, quân lính Nga đã tiến vào Trung Quốc, phá hủy một số trạm gác, trước năm 1907 có khoảng 1000 hộ gia đình người Nga định cư tại Ergun. Những người nhập cư người Nga đầu tiên đến Tân Cương là những người Jirjaks, những người bị đàn áp dưới triều đại của Sa hoàng Pyotr vì từ chối cải sang Giáo hội Chính Thống Nga. Họ đã gửi bốn người đưa tin để thương lượng với một tù trưởng người Kazakh là Kala Usman, và được phép định cư tại các Burqin. Sau vài năm họ cũng khai hoang một số khu định cư ở Kanas, Chuguchak và Ili. Năm 1861, 160 Jirjaks đi đến khu vực Lop Nur đến định cư. Mặc dù tất cả các Jirjaks là tín đồ Kitô hữu, họ ít khi quan hệ với các nhóm khác. Theo điều tra dân số năm 1943, đã có 1200 Jirjaks tại Bulqin và Kaba. Rất nhiều người trong số họ đã đến Úc sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 1851, Hiệp ước Kulja được thiết lập, và nhiều thương gia Nga đã tới Tân Cương. Các thương gia Nga đã giết chết khoảng 200 thợ mỏ tại Chuguchak, khiến cho người dân địa phương phẫn uất, các thương nhân Nga sau đó đã bị đốt. Kết quả là, người Nga đã buộc nhà Thanh phải trả tiền bồi thường chiến tranh nặng nề. Năm 1871, Đế quốc Nga xâm chiếm khu vực Ili, và nhiều thương gia Nga di cư đến đó. Khi Bạch vệ binh bị đánh bại trong cuộc chiến chống lại người Bolshevik, nhiều người Cossack và tị nạn đã chạy trốn sang Tân Cương dưới sự lãnh đạo của Tướng Ivanov. Một số người trong đó đã nổi loạn tại Ili và Chuguchak, nhưng cuối cùng bị đàn áp bởi lãnh chúa người Hán tên là Dương Tăng Tân. Một phần trong số họ sau này gia nhập đội quân do chính quyền Tân Cương tuyển dụng. Từ năm 1931 đến 1938, chính quyền Liên Xô đã buộc nhiều người Hán và những người Nga thân thích của họ về Trung Quốc. Hơn 20.000 người Nga vào Trung Quốc thông qua Tân Cương. Và sau năm 1941, nhiều người tị nạn bỏ chạy tới Tân Cương. Dưới sự cai trị của Dương Tăng Tân, người Nga ở Tân Cương được chia làm 3 phần: một số trong những người tị nạn đã nhập quốc tịch Trung Quốc, họ được gọi là "người Quy hóa" (归化人.), và phải điền và viết vào giấy chứng nhận tình nguyện. Ông ra lệnh cho các quan chức từ các vùng khác nhau để phân phối đất đai cho nhóm người này, và cho họ con giống và hạt giống. Một số đã nhập quốc tịch Liên Xô. Những người khác từ chối tham gia một trong hai quốc tịch Năm 1928, khi Kim Thụ Nhân lên nắm quyền, ông đã củng cố sự giám sát và áp đặt lên những người Nga. Sự tự do đi lại và thương mại bị cấm. Theo hồ sơ ghi nhận Công báo Tân Cương, từ 1930-1931 đã có 207 người Nga đã thông qua thủ tục quy hóa ở Ürümqi, và 288 tại Chuguchak. Năm 1933, Jin từ chức. Năm 1935, Đại hội Quốc dân lần thứ 2 được tổ chức, và những người quy hóa đã được chính thức công nhận là một dân tộc thiểu số tại Tân Cương. Năm 1957 thống kê có khoảng 9.000 người dân tộc Nga sống tại Trung Quốc, trong khi thống kê năm 1978 chỉ là 600. Con số người Nga sau đó lại tăng lên 2.935 theo thống kê năm 1982 và 13.504 trong thống kê năm 1990. Có những bất đồng về số người dân tộc Nga tại Trung Quốc. Nhân khẩu Theo thống kê năm 2002. Những người nổi tiếng Trung tướng Lâm Hổ (林虎), Phó Tư lệnh của Không quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAAF). Elizabeta Pavlovna Kishkina (李莎; ), vợ của Lý Lập Tam, một nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cháu gái của Thủ tướng Nga cuối cùng trước Cách mạng tháng Mười. Tưởng Phương Lương (蔣方良; ; Faniya Ipatiyevna Vakhreva), Đệ nhất phu nhân của Trung Hoa Dân quốc từ 1978-88 (vợ của Tưởng Kinh Quốc), tuy nhiên tổ tiên của bà là người Belarus. Nikolai Ivanovich Lunev (尼古拉·伊萬諾維奇·盧尼奧夫; ), đại biểu Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc lần thứ 10. Xem thêm Người Nga Chú thích Nguồn Đọc thêm Liên kết ngoài Security service investigation followed Orthodox priest's deportation Nhóm sắc tộc được Trung Quốc chính thức công nhận Trung Quốc
VI_open-0000000840
People_and_Society
Ba là một tỉnh của Fiji, Nằm ở khu vực tây bắc của Viti Levu, hòn đảo lớn nhất Fiji. Đây là một trong 14 tỉnh của đất nước và là một trong 8 tỉnh trên đảo Viti Levu. Đây là tỉnh đông dân nhất Fiji với số dân là 231.760 người, chiếm trên một phần tư dân số cả nước theo thống kê năm 2007. Tỉnh có diện tích đất liền là 2.634 km², là tỉnh rộng thứ hai cả nước. Tỉnh Ba gồm các thị trấn và các quận Ba, Magodro, Nadi, Nawaka, Tavua, và Vuda. Thành phố Lautoka và Quần đảo Yasawa ở ngoài khơi bờ biển phía tây của đảo Viti Levu. Tham khảo Tỉnh của Fiji Viti Levu
VI_open-0000000841
Jobs_and_Education
Vườn quốc gia The Palms là một vườn quốc gia ở Queensland, Úc. The Palms là một công viên quốc gia nhỏ nằm giữa Cooyar và Yarraman ở Queensland, Australia. Đặc điểm chính của công viên là suối nước đầy dồi dào trong mùa xuân với những cây cọp. Những cây sung sướng, thông bunya và cây thông vòng cũng chiếm ưu thế [1]. Công viên 12,4 ha được tuyên bố vào năm 1950. Số lượng chim chóc trong vườn quốc gia này rất nhiều. Không được phép cắm trại trong công viên nhưng các bữa ăn ngoài trời và đi dạo được phục vụ. Tham khảo Vườn quốc gia Queensland
VI_open-0000000842
Travel_and_Transportation
Võ sĩ chuyên nghiệp (tên gốc tiếng Anh: Black Cloud) là một bộ phim võ thuật của Mỹ do Rick Schroder đạo diễn và được trình chiếu vào năm 2004. Phim kể về sự khởi đầu sự nghiệp chơi quyền Anh của một thanh niên người da đỏ có tên là Mây Đen (Black Cloud) Nội dung phim Mây Đen (do Eddie Spears đóng), là một thanh niên của bộ tộc Navajo một bộ lạc bản địa ở Mỹ, có năng khiếu đấm bốc và học đấm bốc từ nhỏ, nay chuẩn bị để vào cuộc thi thử chọn những người thi đấu Ô Lem píc cho Mỹ. Khi Eddie một cao bồi da trắng (do Rick Schroder thủ vai) quay lại quê của anh để nối lại quan hệ với bạn gái của Mây Đen là Sammi, một cô da đỏ ở địa phương (do Julia Jones đóng) cô này là bạn gái của Mây Đen nhưng trước đó khá chơi bời và từng ngủ với Eddie trong một đêm khi cô này xay xỉn và có thai, cô đẻ được một đứa con lai tên là Tyer, nhưng tay Edie sau đêm chơi bời đó đã bỏ đi, để mặc cô với đứa con của hắn. Eddie quay lại đòi quan hệ tiếp tục với cô nhưng đã bị từ chối vì Sammi giờ đã yêu Mây Đen. Eddie không đạt được mục đích nên quay lại sĩ nhục Mây Đen rằng mẹ anh ta là một người bán dâm và lập tức bị Mây Đen đánh ngất xỉu. Sau đó Mây Đen gặp rắc rối với cảnh sát của địa phương vì dám đánh người da trắng, nhưng cuối cùng mọi việc cũng ổn. Trong một trận đấm bốc để chọn ra đại diện thi đấu cấp Bang ở địa phương, Norm Olsen, một nhà tuyển trạch các vận động viên Ôlimpic Quốc gia (do Peter Greene đóng) có đến tham dự (ông ta đi khắp nơi để tìm nhân tài cho Quốc gia). Sau khi chứng kiến sự thi đấu quyết liệt và nhân tố mới trong con người của Mây Đen ông ta tìm gặp anh. Mây Đen là một thanh niên mảnh khảnh nhưng rắn rỏi, anh có linh hồn của sói trong cơ thể, mỗi khi bị trúng đòn tơi bời thì tinh thần ấy lại nổi lên nhưng con sói đang nhe nanh gầm gừ để rồi bùng phát thành sức mạnh ghê gớm. Điều đó đã thể hiện trong trận đấu của Mây Đen. Khi Olsen đề nghị Mây Đen tham gia kỳ thi để thi đấu cho đội Ô Lim píc Quốc gia Hoa Kỳ thì Mây Đen đã từ chối thẳng thừng vì anh ta căm gét người da trắng và không muốn chiến đấu vì người da trắng và đuổi Olsen đi. Anh ta không muốn tham gia thi đấu mà chỉ muốn cưới và lập gia đình với Sammi, nhưng cuộc tình hai người gặp nhiều rạn nứt và hiểu lầm, nhất là khi Eddie xuất hiện. Mặt khác Mây Đen cũng băn khoăn vì nguồn gốc của mình, anh chỉ biết mình là một người lai giữa người da trắng với người da đỏ (tuy nhiên da đỏ là Gen trội cho nên trông anh không khác lắm với người bản xứ) và anh cũng luôn có thành kiến với người da trắng. Sau đó anh tìm về nơi mình sinh ra để hiểu nguồn gốc của mình và được biết tổ tiên của anh (nội tổ) là một người da trắng nước Đức có tên là Sói Trắng. Bà nội tổ của anh nguyên trước đây là một cô gái trẻ da đỏ chăn bò trên thảo nguyên, một ngày cô bị ba gã cao bồi mập ú da trắng nhìn thấy và rượt bắt theo cô để hiếp dâm, sau khi bị hiếp dâm, cô ta trở nên khủng hoảng tinh thần và đi lang thang với nhiều suy nghĩ trong đầu. Tình cờ cô ta gặp Sói Trắng đang cưỡi ngựa trên đường. Hai người yêu nhau và sinh con với nhau. Sau khi nhận biết được nguồn gốc của mình anh ta đã thay đổi nhiều về suy nghĩ, không thành kiến với người da trắng nữa mà chỉ lo nghỉ về bản thân mình và sự nghiệp thi đấu cùng với gia đình của mình. Mây Đen quay về là giảng hòa với Sammi và cầu hôn với cô này và quyết tâm tập luyện để tham gia giải đấu chuẩn bị cho Ôlempich. Anh ta đã chiến thắng liên tiếp đến khi vào chung kết gặp Rocket Ray Tracy (Pooch Hall thủ vai) một tay đấm có hạng. Một trận chung kết kịch tính đã diễn ra hết sức gay cấn. Ban đầu hai đối thủ lao vào ra đòn quyết liệt với nhau, không ai chịu ai, Nhưng Rocket sau đó dần chiếm ưu thế vì thể lực sung mãn và kinh nghiệm phong phú, anh ta ra đòn liên tục và Mây Đen đai bị dính nhiều đòn, thậm chí phải nằm sân, nhưng anh cũng gắng gượng thi đấu. Những hiệp tiếp theo ưu thế vẫn thuộc về Rocket và đến gần cuối hiệp cuối cùng anh ta tung cú đấm móc khiên Mây Đen bất tỉnh. Trong lúc bất tỉnh Mây Đen mơ gặp lại mẹ của anh và từ đó đã cho anh thêm động lực để thi đấu. Sau cùng anh vùng dậy và máu sói trong anh lại nổi lên và tinh thần thi dấu lên rất cao, anh gầm gừ trong cổ họng và ánh mắt đầy sát khi đó Rocket dù liên tục ra đòn vào anh nhưng lại vô cùng sợ hãi. Cuối cùng Mây Đen bùng nổ, tung đòn dồn dập vào Rocket và tung cú đấm móc hạ gục anh này, giành chiến thắng trong sự vỡ òa sung sướng của người dân địa phương đến dự khán. Đó là một sự khởi đầu hoàn hảo cho một võ sĩ chuyên nghiệp. Tham khảo Liên kết ngoài Official Site Phim võ thuật Mỹ Phim năm 2004 Phim chính kịch Mỹ Phim Mỹ Phim chính kịch thập niên 2000 Phim tiếng Anh Phim độc lập Phim độc lập của Mỹ Phim đạo diễn đầu tay
VI_open-0000000845
Sports
, tên khác là xây dựng năm 1457 bởi Ota Dōkan; là một thành trì nằm trên địa đài thị trấn Kōji (麹町; Kōji-machi) thuộc quận Chiyoda ở Tokyo (Nhật Bản), thời đó được gọi là làng Kōji, Edo, quận Toshima, tỉnh Musashi. Dưới thời Edo, Giang Hộ thành được gọi là Ngự Thành (御城). Tokugawa Ieyasu thiết lập Mạc phủ Tokugawa ở đây. Đó là nơi cư trú của các Chinh di Đại tướng quân và là trị sở chính của Mạc phủ, có chức năng là thủ đô quân sự trong thời kỳ Edo của lịch sử Nhật Bản. Trong giai đoạn này, chỉ riêng thành Giang Hộ đã có từ 5 nghìn đến 6 nghìn người sinh sống và làm việc, trong đó có 1 nghìn Áo Nữ Trung (tức các nữ quan, chính thất, trắc thất, kế thất, phi tần và thị tỳ, nô bộc phục vụ gia tộc tướng quân), 4 nghìn đến 5 nghìn người còn lại là các chức sắc võ quan, võ sĩ, lính tráng và những người làm công tác hậu cần khác. Sau sự kiện đầu hàng của Mạc Phủ và cuộc Minh Trị Duy Tân, thành này đã bị phá bỏ để xây Hoàng cung Tokyo. Lịch sử Sơ khai Nguồn gốc của thành Giang Hộ là Bình Sơn thành (平山城; Hirayama-jō) - khu cư sở nhỏ thuộc tỉnh Musashi, được xây dựng lần đầu tiên bởi Edo Shigenaga - người đứng đầu gia tộc Edo (江戸家; Edo-ka; Giang Hộ gia), một nhánh nhỏ của gia tộc Taira ở kinh đô Kyoto. Không rõ khu cư sở này được xây dựng năm nào, có lẽ vào khoảng cuối thời Heian (794-1185) hoặc đầu thời Kamakura (1185-1333). Đây là nền móng cho tên gọi của thành Giang Hộ sau này. Tới thế kỷ 15, nhiều cuộc nổi loạn bùng phát ở vùng Kanto khiến gia tộc Edo rời đi, từ đó nơi này bị bỏ hoang. Thời kỳ Kamakura Dưới thời Nhật Bản được cai trị bởi Mạc phủ Kamakura, năm 1457, thành Giang Hộ bắt đầu được xây dựng theo yêu cầu của Uesugi Sadamasa bởi Ōta Dōkan - một thuộc hạ của nhánh Ōgigayatsu thuộc gia tộc Uesugi. Thời gian này, thành có quy mô nhỏ, xây dựa trên cư sở cũ của nhà Edo, gồm 3 lớp khúc luân, được bảo vệ bởi những tháp canh yagura (矢倉). Thành Giang Hộ đang dang dở thì năm 1486, trong cuộc xung đột quyền lực của nội bộ nhà Uesugi, Ōta Dōkan bị khép tội phản nghịch và ông bị giết vào ngày 25 tháng 08 ngay tại tư gia của Uesugi Sadamasa ở Sagami (nay là tỉnh Kanagawa). Là quản đốc duy nhất trong việc xây dựng thành, sự kiện Ōta Dōkan bị ám sát khiến quá trình xây dựng thành Giang Hộ bị đình trệ và thành bị bỏ hoang một thời gian. Thành Giang Hộ sau đó là nơi đóng quân của Uesugi Tomooki. Năm 1524, trong trận Takanawahara (còn gọi là cuộc vây hãm Edo), do bị thuộc hạ phản bội, Tomooki tử trận, gia tộc Hōjō chiếm đóng thành, đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến kéo dài 17 năm tranh giành lãnh địa Kanto của nhà Hōjō và nhà Uesugi. Năm 1590, Toyotomi Hideyoshi đưa quân vây hãm thành Odawara. Odawara thất thủ, hai anh em thủ lĩnh nhà Hōjō tự sát. Sau thắng lợi này, Hideyoshi phân cho thuộc hạ cấp cao thân cận nhất của mình là Tokugawa Ieyasu phần lãnh địa gồm 8 tỉnh do nhà Hōjō cai quản ở Kanto, đổi lấy 5 tỉnh của Ieyasu, Ieyasu đồng ý. Sau khi nhận lãnh địa mới, Tokugawa Ieyasu đóng quân tại Giang Hộ và bắt tay vào xây dựng thành trì tại đây. Trước khi Ieyasu tới tiếp quản, mặc dù với vai trò đô thị trung tâm của Musashi, Edo khi đó vẫn chỉ là một làng chài nhỏ nghèo nàn ở Kanto,còn thành Giang Hộ sơ khai bị cây cối bao phủ như rừng rậm và cỏ lau trải dài vô tận. Sau khi Toyotomi Hideyoshi chết, con trai của ông nối ngôi khi mới 5 tuổi trong khi nhiều thuộc hạ lại ủng hộ Ieyasu. Kết quả của trận Sekigahara đã chính thức ghi danh Ieyasu trở thành người cai trị thực sự của Nhật Bản đương thời. Tokugawa Ieyasu nhận danh phong Chinh Di Đại Tướng quân năm 1603, chính thức thiết lập chế độ Mạc phủ Tokugawa. Thời kỳ Tokugawa Dưới sự cai trị của Ieyasu, ông yêu cầu các lãnh chúa từ nhiều phiên tham gia xây dựng cải tạo thành Giang Hộ trở nên bề thế hơn. Tương truyền, Giang Hộ thành được Ieyasu tin tưởng giao phó cho đại danh Tōdō Takatora, mệnh danh là bậc thầy về thành quách thời đó, ông là người thiết kế xây dựng 20 lâu đài nổi tiếng trên khắp Nhật Bản. Bản thiết kế thành Giang Hộ dưới thời Tokugawa Ieyasu là rất lớn và phức tạp, do vậy nó không thể hoàn thành toàn bộ dưới thời ông trị vì. 30 năm sau ngày khởi công, thành Giang Hộ mới hoàn thành, trải qua 3 đời tướng quân là Tokugawa Ieyasu, Hidetada và Iemitsu. Việc xây dựng và nâng cấp thành Giang Hộ quy tụ khoảng 300 nghìn người đến từ hàng trăm gia tộc lớn nhỏ khắp Nhật Bản tham gia. Lúc này, Giang Hộ thành đã trở thành lâu đài có quy mô lớn nhất Nhật Bản, nơi thiết lập trị sở của chính quyền Mạc phủ Tokugawa. Thời kỳ này, thành Giang Hộ được gọi là Ngự Thành (御城; Ojō). Thời kỳ Minh Trị Sau hơn 265 năm cai trị, Mạc phủ Tokugawa dần lâm vào suy thoái. Quản lý đất nước yếu kém cùng nhiều điều khoản nhân nhượng cho người ngoại quốc mà Mạc phủ ký kết đã dấy lên trong lòng dân chúng nỗi phẫn uất từ lâu. Năm 1868, Minh Trị Thiên hoàng chủ trương lấy lại hoàng quyền. Cuộc Minh Trị Duy Tân thành công, tất cả chức sắc phụng sự Mạc phủ bị yêu cầu rời khỏi thành, thành Giang Hộ về tay triều đình không mất giọt máu nào. Sau khi dời đô khỏi Kyoto, Edo trở thành kinh đô mới với tên gọi Tokyo. Sau đó, thành bị phá bỏ để xây dựng hoàng cung mới của hoàng gia Nhật Bản, gọi là Đông Kinh Thành (東京城; Tōkei-jō). Năm 1869, Thiên hoàng Minh Trị đổi tên Đông Kinh Thành thành Hoàng Thành (皇城; Ōjō). Đến năm 1888, Hoàng Thành đổi tên sang Cung Thành (宮城; Kyūjō/Miyagi). Từ sau chiến tranh thế giới II đến nay Sau khi Đế quốc Nhật Bản thua trận trong chiến tranh thế giới thứ hai, hoàng quyền của Thiên hoàng không còn tối cao nữa, phần lớn Cung Thành trở thành công viên mở cửa cho công chúng, khu vực dành cho hoàng gia Nhật Bản thu hẹp lại so với trước và được gọi là Hoàng Cư (皇居; Kōkyo) kể từ năm 1948 cho tới ngày nay. Cấu trúc Thành Giang Hộ được xây dựng chia làm nhiều khu vực có chức năng nhiệm vụ khác nhau, gồm 3 loại hình chính: phòng thủ, cư sở và trị sở. Dưới thời Tokugawa, thành Giang Hộ xây dựng theo kiến trúc phòng thủ đặc trưng của Nhật Bản, gồm nhiều lớp tường thành bao bọc gọi là khúc luân (曲輪; kuruwa) xếp tầng như ruộng bậc thang, có hào sâu và lính canh. Cấu trúc thành Giang Hộ chia thành 4 khu vực là Bản Thành, Tây Chi Hoàn, Hồng Diệp Sơn và Xuy Thượng Ngự Uyển. Bản Thành là cung điện chính, chia thành 3 khu Bản Hoàn, Nhị Chi Hoàn và Tam Chi Hoàn. Bản Thành Bản Thành (本城; Honjō) được chia như sau: Bản Hoàn (本丸; Honmaru): là khu cung điện trung tâm lớn nhất trong thành Giang Hộ, nơi đặt toàn bộ cơ quan đầu não của Mạc phủ Tokugawa và cũng là cư sở của gia đình tướng quân (ở đây chỉ bao gồm tướng mẫu - mẹ ruột của đương kim tướng quân, nhũ mẫu - mẹ nuôi của đương kim tướng quân, Đại Ngự Đài Sở - chính thất của tiên tướng quân, Ngự Đài Sở - chính thất của đương kim tướng quân, các trắc thất, phi tần và các con nhỏ của đương kim tướng quân. Những người khác trong gia đình tướng quân không có cư sở tại đây). Bản Hoàn chia làm hai khu vực là Biểu Ngự Điện (表御殿; Omote Goten) và Áo Ngự Điện (奥御殿; Oku Goten). Trong đó Biểu Ngự Điện là trị sở - nơi đặt sảnh chính để tổ chức các nghi lễ lớn quan trọng, Áo Ngự Điện là cư sở. Áo Ngự Điện lại chia thành hai khu vực nhỏ hơn là Trung Áo (中奥; Nakaoku) và Đại Áo (大奥; Ōoku). Đại Áo là nơi sống của gia đình tướng quân, gồm các cung điện do tướng quân phân chia cho chính thất và các phi tần. Trung Áo là khu cung điện nối Biểu Ngự Điện với Đại Áo, chỉ có số ít các Áo Nữ Trung trong Đại Áo được phép đi lại ở khu vực này. Thiên Thủ (天守; Tenshu) nằm ở phía đông khu vực Bản Hoàn, là một ngọn tháp phòng thủ cao 51 mét, gồm 5 tầng với các ô cửa sổ rất nhỏ, chỉ đủ để mũi tên từ cung bắn ra ngoài. Tháp Thiên Thủ của thành Giang Hộ là tháp phòng thủ lâu đài cao nhất Nhật Bản kể từ khi nó hoàn thành cho tới khi bị hỏa hoạn phá hủy, và sau đó không có tháp Thiên Thủ nào cao hơn nó được xây dựng nữa. Nhị Chi Hoàn (二の丸; Ni-no-Maru): là lớp thành bao bọc Bản Hoàn, là nơi đặt dinh thự của các võ quan cao cấp phục vụ Mạc phủ. Tam Chi Hoàn (三の丸; San-no-Maru) là lớp thành bao bọc Nhị Chi Hoàn, là nơi đặt dinh thự của các võ quan chư hầu của gia tộc tướng quân. Ngày nay, toàn bộ Bản Thành đều không còn tồn tại. Riêng Thiên Thủ chỉ còn lại phần móng, gọi là Thiên Thủ Đài (天守台; Tenshudai). Tây Chi Hoàn Tây Chi Hoàn (西の丸; Nishi-no-Maru) nằm ở phía tây nam của Bản Thành, là một khu cung điện đặt cư sở của thế tử kế vị tướng quân và cũng là cư sở của tiên tướng quân sau khi thoái vị. Ngày nay, Tây Chi Hoàn là Hoàng Cư của hoàng thất Nhật Bản. Hồng Diệp Sơn Hồng Diệp Sơn (紅葉山; Momiji Yama): là một ngọn đồi nhỏ nằm giữa Bản Thành và Tây Chi Hoàn. Dưới thời Edo, nơi đây trồng bạt ngàn cây phong lá đỏ và đó cũng là nguồn gốc của tên gọi này. Hồng Diệp Sơn là nơi đặt lăng mộ của nhiều đời tướng quân nhà Tokugawa. Lăng của tướng quân Tokugawa Ieyasu - người khai sinh ra Mạc phủ Tokugawa được trùng tu trở thành một ngôi đền với tên gọi Đông Hi Cung (東照宮; Tōshōgu). Hằng năm, tướng quân đương kim phải tới đây làm lễ vào ngày 17 tháng 04 với nghi lễ long trọng. Kể từ đời tướng quân Tokugawa Iemitsu, các nhạc công được Mạc phủ triệu từ kinh đô Kyoto tới để thực hiện nghi lễ này, gọi là Hồng Diệp Sơn Lạc Nhân (紅葉山楽人; Momijiyama Rakujin). Hồng Diệp Sơn còn là nơi đặt cơ quan phòng cháy chữa cháy của thành Giang Hộ với tên gọi Hồng Diệp Sơn Hỏa Chi Phiên (紅葉山火之番; Momijiyama Hi no Ban). Văn Khố Năm 1602, Tokugawa Ieyasu thành lập một thư viện bên trong cung điện của thành Giang Hộ gọi là Phú Sĩ Kiến Đình Văn Khố (富士見亭文庫; Fujimitei Bunko). Thư viện là một kho tàng lưu trữ rất nhiều tác phẩm văn học Nhật Bản kinh điển do chính Ieyasu thu thập. Tới đời tướng quân thứ 3 là Iemitsu, năm 1639, thư viện này được di dời ra Hồng Diệp Sơn và đổi tên thành Phong Sơn Văn Khố (楓山文庫; Fuzan Bunko) hay Hồng Diệp Sơn Bí Các (紅葉山秘閣; Momiji-yama Hikaku). Thời gian này, ngoài các cuốn sách của Ieyasu, nhiều đầu sách văn học Trung Hoa cũng được thu thập về đây. Dưới thời Bunka Bunsei (Văn Hóa Văn Chính), Kondō Jūzo (近藤重蔵; 1771-1829) - nhà thư tịch học, hậu duệ của một gia tộc chư hầu nhà Tokugawa đã dâng lên rất nhiều các tác phẩm, góp phần to lớn trong việc duy trì thư viện. Tổng cộng có trên 100 nghìn văn kiện, văn thư, sách các loại được lưu trữ tại thư viện này, bao gồm nhiều văn bản có giá trị lịch sử rất quan trọng, ví dụ như hồ sơ về phả hệ gia tộc Tokugawa. Từ sau Minh Trị Duy Tân, thư viện được quản lý bởi văn khố Nội các Hoàng gia và ngày nay do Cục Lưu trữ Quốc gia Nhật Bản tiếp quản. Xuy Thượng Ngự Uyển Xuy Thượng Ngự Uyển (吹上御苑; Fukiage Gyoen): là một khu vườn lớn nằm phía sau Tây Chi Hoàn, rộng từ 300 đến 400 nghìn mét vuông với nhiều cây xanh và một dòng sông nhân tạo chảy qua. Từ đời tướng quân thứ 5 - Tokugawa Tsunayoshi đã cho mở rộng khu vườn và sau đó, tướng quân đời thứ 6 là Tokugawa Ienobu lập ra một chức quan quản lý nơi này là Xuy Thượng Phụng Hành (吹上奉行; Fukiage Bugyō). Tới đời tướng quân thứ 8 - Tokugawa Yoshimune cho trồng rất nhiều cây thuốc vào Xuy Thượng Ngự Uyển, biến khu vườn từ nơi vãn cảnh của tướng quân thành nơi cung cấp dược liệu cho thành Giang Hộ. Sau Minh Trị Duy Tân, từ năm 1869, Xuy Thượng Ngự Uyển trở về trạng thái ban đầu, là ngự uyển của hoàng gia. Năm 1961, Chiêu Hòa Thiên hoàng cho xây dựng cung điện riêng tại đây, Xuy Thượng Ngự Uyển bị cấm không cho dân chúng vào trong nữa. Những lần bị phá hủy Việc Tokugawa Ieyasu đặt trị sở tại Edo đã biến vùng đất này từ một làng chài nghèo nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại, chính trị của nước Nhật thời đó. Vùng Edo trở thành đô thị lớn hàng đầu thế giới vào thế kỷ 18 với khoảng hơn 1 triệu người. Dân cư đông đúc, nhà ở và thành trì lại được xây dựng chủ yếu bằng gỗ nên Edo thường xuyên xảy ra hỏa hoạn, đến mức dân gian Nhật Bản có câu "hỏa hoạn và đánh nhau là hoa của Edo" (火事と喧嘩は江戸の花; Kaji to kenka wa Edo no hana). Cộng thêm việc nằm trong vành đai núi lửa Thái Bình Dương, nơi đây cũng thường xuyên gặp thiên tai như động đất. Minh Lịch đại hỏa (明暦の大火; Meireki-no-daika): trận hỏa hoạn rất lớn xảy ra vào năm 1657, tức năm Minh Lịch thứ 3 (明暦三年; Meireki san-nen). Trận hỏa hoạn này phá hủy phần lớn thành Giang Hộ, bao gồm cả tháp Thiên Thủ. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Mạc phủ Tokugawa quyết định không xây dựng lại ngọn tháp này nữa để tiết kiệm chi phí. An Chính đại địa chấn (安政大地震; Ansei dai-jishin): trận động đất lớn năm 1855, tức năm An Chính thứ 2 (安政二年). Sự kiện này phá hủy nhiều tháp canh, cổng và các bức tường khúc luân của thành. Năm 1873, tức năm Minh Trị thứ 6 (明治六年; Meiji roku-nen), một trận hỏa hoạn khác thiêu rụi Tây Chi Hoàn, mà lúc này đang được triều đình sử dụng làm hoàng cung. Sau đó chỉ một phần Tây Chi Hoàn được xây dựng lại. Quan Đông đại chấn tai (関東大震災; Kantō dai-jinsai): những công trình còn lại trong thành bị tàn phá trong trận đại động đất vùng Kanto năm 1923, tức năm Đại Chính thứ 12 (大正十二年; Taishō jūni-nen). Hòa Điền Thương Môn (和田倉門; Wada kura-mon) - một cổng thành bị phá hủy hoàn toàn và nó không được xây dựng lại nữa. Một số cổng khác của thành được khôi phục và tháo dỡ pháo đài bên trên. Trận không kích của không quân Hoa Kỳ năm 1945, tức năm Chiêu Hòa thứ 20 (昭和二十年; Shōwa nijū-nen), đã phá hủy Đại Thủ Môn (大手門; Ōte-mon) - một cổng khác của thành. Cổng này được xây dựng lại vào năm 1967 (Chiêu Hòa thứ 42; 昭和四十二年; Shōwa yonjūni-nen). Ngoài các sự kiện trên, nhiều cung điện bị hoàng gia tháo dỡ để xây dựng hoàng cung mới. Tham khảo Ponsonby-Fane, Richard A. B. (1956). Kyoto: The Old Capital of Japan, 794-1869. Kyoto: The Ponsonby Memorial Society. Liên kết ngoài Rebuilding "Edo-jo" Association National Museum of Japanese History: Folding screens depicting scenes of the attendance of daimyo at Edo castle National Archives of Japan: Ryukyu Chuzano ryoshisha tojogyoretsu, scroll illustrating procession of Ryukyu emissary to Edo, 1710 (Hōei 7). National Archives of Japan: Ryuei Oshirosyoin Toranoma Shingoten Gokyusoku ukagai shitae, scroll showing artwork added to partitions of castle keep during reconstruction after 1844 fire, artist was Kanō Eitoku (1814 - 1891) Tokyo Thành Edo
VI_open-0000000847
News
Vĩnh Bình là một thị trấn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, Việt Nam. Địa lý Thị trấn Vĩnh Bình nằm ở phía tây huyện Châu Thành, có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Vĩnh Hanh Phía tây giáp xã Vĩnh An Phía nam giáp các xã Tân Phú và Vĩnh Nhuận Phía bắc giáp huyện Châu Phú. Thị trấn có diện tích 37,44 km², dân số năm 2019 là 9.762 người, mật độ dân số đạt 261 người/km². Hành chính Thị trấn Vĩnh Bình được chia thành 4 khóm: Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc, Vĩnh Thọ, Phước Thành. Lịch sử Trước đây, Vĩnh Bình là một xã thuộc huyện Châu Thành, được thành lập vào ngày 25 tháng 4 năm 1979 trên cơ sở tách 1/2 ấp Vĩnh Bình và 1/3 ấp Vĩnh Thuận của xã Vĩnh Hanh. Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1107/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Theo đó, thành lập thị trấn Vĩnh Bình trên cơ sở toàn bộ 37,44 km² diện tích tự nhiên và 9.762 người của xã Vĩnh Bình. Chú thích Xem thêm Danh sách thị trấn tại Việt Nam
VI_open-0000000848
Jobs_and_Education
Ziegenrück là một đô thị ở huyện Saale-Orla, bang Thüringen, Đức. Đô thị này có diện tích 8,24 km2, dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 318 người. Thị trấn này nằm bên sông Saale, 22 km về phía đông Saalfeld, và 35 km về phía nam Jena. Tham khảo
VI_open-0000000850
Jobs_and_Education
Pozuelo de Alarcón là một đô thị trong Cộng đồng Madrid, Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích 43,2 km², dân số theo điều tra năm 2010 của Viện thống kê quốc gia Tây Ban Nha là 82.804 người. Đô thị này nằm ở khu vực có độ cao mét trên mực nước biển. Cự ly so với Madrid là 15 km. Tham khảo Ficha municipal = Municipality Summary Sheet from the Institute of Statistics of the Comunidad de Madrid (in Spanish) Pozuelo website: news, culture, stores and companies... Ghi chú Đô thị ở Cộng đồng Madrid
VI_open-0000000852
Jobs_and_Education
Santiago de Querétaro () còn được gọi đơn giản là Querétaro là thành phố lớn nhất và thủ phủ của bang Querétaro, miền trung México. Thành phố nằm về phía tây bắc của Thành phố México khoảng 213 km, về phía đông nam của San Miguel de Allende khoảng 63 km và về phía nam của San Luis Potosí 200 km. Thành phố được chia thành 7 khu vực là Josefa Vergara y Hernández, Felipe Carrillo Puerto, Centro Histórico, Cayetano Rubio, Santa Rosa Jáuregui, Félix Osores Sotomayor và Epigmenio González. Năm 1996, trung tâm lịch sử của Querétaro đã được công nhận là di sản thế giới của UNESCO. Ngày thành lập của thành phố được cho là ngày 25 tháng 7 năm 1531, khi trong một cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và người dân địa phương của khu vực, một nhật thực xảy ra trong thời gian đó và người ta cho rằng Thánh James trên một con ngựa trắng mang theo một cây thánh giá màu hồng xuất hiện, khiến người dân địa phương trong những khu vực đầu hàng. Trên thực tế, Tây Ban Nha thống trị ở đây là dần dần. Ngày nay, thành phố là một trong những phát triển nhanh nhất trong cả nước, với cơ sở kinh tế của nó trong các ngành công nghiệp như hóa chất, sản phẩm giấy, máy móc. Điều này đã gây ra các thành phố và khu vực đô thị thu hút nhiều di dân từ các khu vực khác của Mexico. Thành phố của Queretaro đã có một phát triển công nghiệp và kinh tế nổi bật trong 15 năm qua. Khu vực đô thị của Queretaro có một trong GDP đầu người cao nhất Mexico 20.000 đô la Mỹ năm 2009. Khí hậu Querétaro có khí hậu bán khô hạn (phân loại khí hậu Köppen BSh) với nhiệt độ ôn hòa quanh năm. Hầu hết lượng mưa rơi từ tháng 6 đến tháng 8. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Di sản thế giới tại México Thành phố của México Bang Querétaro Querétaro
VI_open-0000000856
People_and_Society
Valdemorillo là một đô thị trong Cộng đồng Madrid, Tây Ban Nha. Đô thị Torrejón de Velasco có diện tích 93,7 km², dân số theo điều tra năm 2010 của Viện thống kê quốc gia Tây Ban Nha là 11.210 người. Đô thị Torrejón de Velasco nằm ở khu vực có độ cao 815 mét trên mực nước biển. Tham khảo Đô thị ở Cộng đồng Madrid
VI_open-0000000858
Jobs_and_Education
San Rafael del Río là một đô thị trong tỉnh Castellón, Cộng đồng Valencia, Tây Ban Nha. Đô thị San Rafael del Río có diện tích 21,1 km², dân số theo điều tra năm 2010 của Viện thống kê quốc gia Tây Ban Nha là 550 người. Đô thị San Rafael del Río nằm ở khu vực có độ cao 360 mét trên mực nước biển. Tham khảo Đô thị ở Castellón Baix Maestrat
VI_open-0000000861
Jobs_and_Education
Georges Ernest Jean-Marie Boulanger(29 tháng 4 năm 1837-30 tháng 9 năm 1891) là một viên tướng Pháp, từng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Chiến tranh Pháp năm 1886. Ông nhận được sự hâm mộ cuồng nhiệt của số đông công chúng, những người mong muốn ông trở thành độc tài trong một phong trào bất thành tên là chủ nghĩa Boulanger (boulangisme) dưới thời Đệ tam cộng hòa Pháp. Tham khảo Sinh năm 1837 Mất năm 1891 Chuẩn tướng Pháp Đảo chính không thành công
VI_open-0000000862
News
Lâu đài Bodiam là một lâu đài có hào bao quanh thế kỷ 14 gần Robertsbridge ở Đông Sussex, Anh. Nó được xây dựng năm 1385 bởi Sir Edward Dalyngrigge, một hiệp sĩ cũ của Edward III, với sự cho phép của Richard II, có vẻ là để bảo vệ khu vực khỏi bị Pháp xâm lược trong Chiến tranh Trăm năm. Với bố cục hình tứ giác, lâu đài Bodiam không có pháo đài, có các phòng khác nhau của nó được xây dựng xung quanh các bức tường phòng thủ bên ngoài và bên trong tòa án. Góc và lối vào của nó được đánh dấu bởi các tháp, và trên có các lỗ châu mai. Cấu trúc của nó, chi tiết và tọa lạc trong một cảnh quan nước chảy nhân tạo cho thấy rằng bề ngoài là một khía cạnh quan trọng của thiết kế của lâu đài cũng như phòng ngự. Đó là nơi sinh sống của gia đình Dalyngrigge và trung tâm của thái ấp của Bodiam. Sở hữu Bodiam Castle thông qua thông qua nhiều thế hệ của gia đình Dalyngrigges, cho đến khi dòng họ bị tuyệt hậu, khi lâu đài thông qua hôn nhân qua dòng họ Lewknor. Trong các cuộc chiến tranh Hoa Hồng, Sir Thomas Lewknor ủng hộ Nhà Lancaster, khi Richard III của Nhà York đã trở thành vua năm 1483, lực lượng được phái đến vây lâu đài Bodiam. Người ta không ghi chép lại là cuộc bao vây tiến triển tiếp hay không nhưng người ta cho rằng Bodiam đã đầu hàng mà không chống cự nhiều. Lâu đài này bị tịch thu, nhưng trở lại Lewknors khi Henry VII của Nhà Lancaster đã trở thành vua trong 1485. Hậu duệ của các Lewknors sở hữu lâu đài ít nhất cho đến thế kỷ 16. Bằng cách bắt đầu của cuộc nội chiến Anh năm 1641, lâu đài Bodiam thuộc sở hữu của John Tufton. Ông ủng hộ sự nghiệp bảo hoàng, và đã bán lâu đài để giúp tiền phạt đối mà Nghị viện bắt ông phải nộp. Lâu đài này sau đó đã được tháo dỡ, và để lại như một phế tích đẹp cho đến khi nó mua bởi John Fuller năm 1829. Dưới sự bảo trợ của mình, lâu đài được một phần phục hồi trước khi được bán cho George Cubitt, nam tước thứ nhất Ashcombe, và sau đó Chúa Curzon, cả hai người trong số họ tiến hành công việc phục hồi thêm. Lâu đài này được bảo vệ như một công trình xây dựng và Đài tưởng niệm theo lịch trình hạng 1. Nó đã được thuộc sở hữu của National Trust kể từ 1925, hiến tặng của Chúa Curzon khi ông qua đời, và hiện được mở cửa cho công chúng. Tham khảo Ghi chú Cước chú Thư mục tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Information at the National Trust Địa điểm khảo cổ ở East Sussex Lâu đài ở East Sussex Địa điểm thu hút khách ở East Sussex Bảo tàng ở East Sussex Lâu đài nước
VI_open-0000000863
Travel_and_Transportation
Quận Nam (, Hán Việt: Nam khu) là một khu (quận) của thành phố Đài Trung, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Quận có diện tích 6,8101 km², dân số tháng 8 năm 2011 là 114.641 người, mật độ đạt 16834 người/km². Tham khảo Liên kết ngoài Trang thông tin chính thức Đài Trung
VI_open-0000000864
Jobs_and_Education
Sam Lâm () là một khu (quận) của thành phố Cao Hùng, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Đây là một quận nông thôn miền núi và tập trung nhiều người Khách Gia sinh sống. Diện tích của quận là 104,0036 km², dân số vào tháng 8 năm 2011 là 11.919 người thuộc 4.458 hộ gia đình, mật độ cư trú đạt 114,6 người/km². Tham khảo Liên kết ngoài Trang thông tin chính thức Cao Hùng
VI_open-0000000865
Jobs_and_Education
Gran Turismo (viết tắt là GT) là một loạt trò chơi điện tử mô phỏng đua xe nổi tiếng và giành nhiều thành công được phát triển bởi Polyphony Digital. Chỉ được phát hành trên nền PlayStation, Gran Turismo mô phỏng diện mạo và đặc tính của phần lớn các phương tiện giao thông, gần như toàn bộ các xe ô tô có giấy phép ở trong thế giới thực. Từ khi phát hành trò chơi đầu tiên vào tháng 12 năm 1997, hơn 63 triệu bản đã được bán trên toàn thế giới trên các hệ máy PlayStation của Sony. Tổng quan Gran Turismo được phát triển bởi Polyphony Digital và sản xuất bởi Yamauchi Kazunori. Loạt Gran Turismo được đặc trưng bằng khả năng đồ họa, số lượng các phương tiện, độ chi tiết của sự mô phỏng và khả năng đa dạng về việc độ xe. Việc lái xe được làm dựa trên cảm giác thực, độ xe dựa trên các nguyên lý vật lý và âm thanh của động cơ được ghi âm từ tiếng kêu của động cơ thật ngoài đời. Phần lớn cách chơi được lấy từ chế độ mô phỏng. Người chơi bắt đầu với việc mua một chiếc xe ở cửa hàng, tiến hành độ xe để nó có được đặc tính tốt nhất, và tham gia các giải đấu tùy thuộc vào khả năng của chiếc xe. Để có thể tham gia vào các vòng đua khó hơn, người chơi phải trải qua hệ thống kiểm tra, mà qua đó sẽ cung cấp những hướng dẫn để người chơi nâng cao kỹ năng của mình. Các trò chơi Đón nhận Gran Turismo là một trong những loạt trò chơi nổi tiếng nhất, nhận được những sự yêu thích từ những người chơi bình thường cho đến những người chơi chuyên nghiệp. Bởi vì sự thành công của loạt trò chơi này, Kỷ lục Guinness Thế giới đã ghi nhận 7 kỷ lục của Gran Turismo trong cuốn Kỷ lục Guinness Thế giới: Phiên bản Game thủ 2008, gồm có: Số lượng xe nhiều nhất trong một trò chơi đua xe Trò chơi PlayStation bán chạy nhất Chiếc xe cũ nhất trong một trò chơi đua xe Trò chơi đua xe có nhiều hướng dẫn và chỉ thị nhất Trong bài viết cuối cùng của tạp chí PlayStation của Anh, Gran Turismo xếp thứ 5 trong những trò chơi hay nhất mọi thời đại. Tham khảo Liên kết ngoài Website chính thức Loạt trò chơi đua xe Gran Turismo
VI_open-0000000866
Games
Trong tiếng Việt, giò có thể là: Giò là món ăn sử dụng nguyên liệu chính là thịt (gia súc, gia cầm) giã nhuyễn, được gói chặt và luộc chín trong nước. Giò hay giò heo: Là một món ăn thông dụng từ nguyên liệu là chân của heo hay chế biến bằng phương pháp hầm (ninh) hay kho (kho măng) Giò thuật ngữ dùng để chỉ đôi chân của người hay một số động vật (xem giò xem cẳng, co giò chạy...)
VI_open-0000000867
Food_and_Drink
Trong hình học rời rạc, định lý Tverberg, nêu ra bởi , khẳng định rằng một số đủ lớn các điểm trong không gian Euclide d chiều đều có thể chia thành r tập hợp con có bao lồi giao nhau. Cụ thể là, với mọi tập hợp chứa điểm, đều tồn tại một điểm x (không nhất thiết trong số các điểm đã cho) và một cách phân chia các điểm đã cho thành r tập hợp con, sao cho x nằm trong bao lồi của tất cả các tập hợp con. Phân chia cho bởi định lý này gọi là phân chia Tverberg. Ví dụ Khi r = 2, định lý Tverberg khẳng định rằng d + 2 điểm bất kì đều có thể chia thành 2 tập con có bao lồi giao nhau; trường hợp riêng này gọi là định lý Radon. Trong trường hợp này, khi các điểm nằm trong vị trí tổng quát, tồn tại duy nhất một cách phân chia. Trường hợp r = 3 và d = 2 khẳng định rằng bảy điểm bất kì trên mặt phẳng đều có thể được chia thành ba tập hợp con có bao lồi giao nhau. Hình minh họa là một ví dụ của trường hợp này khi bảy điểm là đỉnh của một thất giác đều. Có thể thấy từ ví dụ đó là có nhiều phân chia Tverberg khác nhau cho cùng một tập hợp điểm. Bảy điểm này có thể được chia theo bảy cách khác nhau, chính là cách trong hình vẽ xoay đi các hướng khác nhau. Tham khảo Tham khảo Hình học lồi Hình học rời rạc T Bao lồi
VI_open-0000000870
Science
Pontelandolfo là một thành phố và cộng đồng (comune) thủ phủ tỉnh Benevento trong vùng Campania nước Ý. Đô thị Pontelandolfo có diện tích 28 ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm 2007 là 2457 người. Đô thị này có các đơn vị dân cư (frazioni) sau: Acqua del Campo, Carluni, Ciccotto, Giallonardo, Grotte, Guitto, Lena, Malepara, Marziello, Pianelle, Pontelandolfo Scalo, Pontenuovo, Santa Caterina, Santillo, Sorgenza. Các đô thị giáp ranh: Pontelandolfo tọa lạc trong các đồi Sannio trong tỉnh Benevento nửa chừng giữa Napoli và Campobasso. Khu vực Pontelandolfo ngày nay đã được định cư từ thời rất cổ xưa. Tên của làng xuất phát từ huyền thoại Pontis Landulphi, hoặc cầu của Landolpho, người đã chết bảo vệ cây cầu chống lại người La Mã trong khi dân làng chạy đến nơi an toàn. Cây cầu được cho là đã bắc qua sông Alento. Pontelandolfo chủ yếu là nhớ đến như là địa điểm, cùng với Casalduni, của một vụ thảm sát dân số phần lớn là vô tội của quân đội chiếm đóng Piedmontese vào năm 1861. Nhiều dân làng di cư sang Hoa Kỳ, với một cộng đồng lớn định cư trong và xung quanh Waterbury, Connecticut, nơi họ thành lập Pontelandolfo Community Club. Tham khảo Đô thị tỉnh Benevento Thành phố và thị trấn ở Campania
VI_open-0000000871
Travel_and_Transportation
Hòa Sơn là một xã thuộc huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Địa lý Xã Hòa Sơn nằm ở phía nam huyện Ninh Sơn, có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Mỹ Sơn Phía tây giáp tỉnh Lâm Đồng Phía nam giáp xã Ma Nới Phía bắc giáp xã Quảng Sơn. Xã có diện tích 65,81 km², dân số năm 2019 là 3.756 người, mật độ dân số đạt 57 người/km². Hành chính Xã Hòa Sơn được chia thành 5 thôn: Tân Lập, Tân Bình, Tân Hòa, Tân Hiệp, Tân Định. Chú thích Liên kết ngoài
VI_open-0000000875
Jobs_and_Education
Shibam () (thường được gọi là Shibam Hadhramaut) là một thị trấn nằm ở huyện Shibam, Hadhramaut, Yemen. Thị trấn có khoảng 7000 dân, nó nổi tiếng với các tòa nhà cao tầng làm từ gạch bùn. Lịch sử Những ghi chép được biết đến đầu tiên về thành phố này từ thế kỷ 3. Nó đã từng là kinh đô của Vương quốc Hadramawt. Địa lý Thị trấn nằm ở khu vực trung tâm phía tây của tỉnh Hadhramaut, trong sa mạc Ramlat al-Sab`atayn. Đường chính nối Sana'a và các thành phố khác của miền tây đến các vùng lãnh thổ Viễn Đông Yemen. Các thị trấn gần nhất là Seiyun, nơi có sân bay Seiyun, và Tarim đều ở phía đông. Một con đường khác, đi từ làng Alajlanya ở phía tây, liên kết Shibam tới Al Mukalla, thủ phủ của tỉnh tọa lạc bên bờ Ấn Độ Dương. Kiến trúc Điều đặc biệt của nó chính là việc các công trình của nó được xây bằng gạch bùn, với khoảng 500 tòa tháp cao từ 5-11 tầng, mỗi tầng có từ một đến hai phòng. Phong cách kiến trúc này đã được sử dụng để bảo vệ người dân khỏi sự tấn công của những người du cư. Trong khi Shibam đã tồn tại ước tính khoảng 1.700 năm, thì hầu hết các ngôi nhà của thành phố được xây dựng từ thế kỷ thứ 16. Nhiều tòa nhà trong số đó đã được xây dựng lại nhiều lần trong vài thế kỷ qua. Nó thường được gọi là "các tòa nhà chọc trời lâu đời nhất thế giới" và được mệnh danh là "Manhattan của sa mạc", một trong số những ví dụ cổ xưa nhất và tốt nhất của quy hoạch đô thị dựa trên các nguyên tắc xây dựng dọc. Thành phố có một số tòa nhà gạch bùn cao nhất thế giới, với chiều cao trên 30 mét. Để bảo vệ các tòa nhà trước mưa và xói mòn, các bức tường phải được duy trì thường xuyên bằng cách đắp thêm các lớp bùn bên ngoài. Nằm gần về phía Tarim là cấu trúc cao nhất thung lũng Wadi Hadhramaut, đó là ngọn tháp giáo đường của nhà thờ Hồi giáo Al-Mihdhar cao khoảng 53 mét (175 feet). Đây là ngọn tháp cao nhất ở phía nam bán đảo Ả Rập. Shibam được công nhận là một Di sản thế giới của UNESCO vào năm 1982, và là di sản đầu tiên của Yemen được công nhận. Tuy nhiên, do các xung đột vũ trang cùng công tác bảo vệ quản lý đang có vấn đề nên Shibam đã bị đưa vào Danh sách di sản thế giới bị đe dọa vào năm 2015. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Official Website of the Al-Quaiti Royal Family of Hadhramaut Shibamonline.net Shibam on archnet.org World Heritage Site Travel Adventures Di sản thế giới tại Yemen Kiến trúc Yemen Địa điểm khảo cổ Yemen Di sản thế giới bị đe dọa
VI_open-0000000876
Travel_and_Transportation
Krasnogorsk (tiếng Nga: Красногорск) là một thành phố Nga. Thành phố này thuộc chủ thể Moskva Oblast. Thành phố có dân số 92.545 người (theo điều tra dân số năm 2002). Đây là thành phố lớn thứ 180 của Nga theo dân số năm 2002. Dân số: . Krasnogorsk là thành phố và trung tâm hành chính của huyện Krasnogorsky của tỉnh Moscow, tiếp giáp với ranh giới phía tây bắc của Moscow, bên sông Moskva. Một khu định cư dạng đô thị đã được thiết lập ở đây năm 1932, mà tình trạng thị trấn đã được cấp vào năm 1940.. Trong những năm 1940, Trường Trung ương Chống Phát xít, trong đó nhiều người cộng sản nước ngoài nghiên cứu và giảng dạy, được đặt tại Krasnogorsk. Sau chiến tranh, các nhà khoa học tên lửa V2 của Đức mà quân đội Liên Xô đã bắt giữ đã được định cư ở đây với gia đình của họ. Thành phố này là nhà Câu lạc bộ Zorky Bandy. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của Krasnogorsk Trang web chính thức của Zorky , một câu lạc bộ bandy có trụ sở tại Krasnogorsk Thành phố của Nga Tỉnh Moskva Thành phố Liên Xô
VI_open-0000000877
People_and_Society
Đảng Công lý và Phát triển (, Berber: ⴰⴽⴰⴱⴰⵔ ⵏ ⵜⴰⵏⵣⵣⴰⵔⴼⵓⵜ ⴷ ⵜⴰⵏⴼⵍⵉⵜ, , viết tắt là PJD) là một đảng phái chính trị ở Maroc. Đây là đảng Hồi giáo ôn hòa, đã giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên ở Maroc kể từ khi nước này cải tổ hiến pháp vào mùa hè năm 2011. Đảng công lý và phát triển đã giành được 107 trong số 395 ghế trong Quốc hội Maroc. Trước đây đảng này là đảng đối lập trong Quốc hội Maroc. Đảng PJD nhận được sự ủng hộ rộng rãi của tầng lớp nghèo khổ ở quốc gia Bắc Phi này và hy vọng sẽ thúc đẩy nền tài chính Hồi giáo, nhưng cam kết không áp đặt thể chế hà khắc đối với xã hội Maroc. Tham khảo Đảng phái chính trị Maroc
VI_open-0000000879
News
Tào Huệ bá (chữ Hán: 蔡惠伯; trị vì: 795 TCN - 760 TCN), tên thật là Cơ Trĩ (姬雉), là vị vua thứ chín của nước Tào – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Cơ Trĩ là con của Tào Đái bá – vua thứ 8 nước Tào. Năm 796 TCN, Tào Đái bá mất, Cơ Trĩ lên nối ngôi, tức là Tào Huệ bá. Sử sách không ghi chép sự kiện xảy ra liên quan tới nước Tào trong thời gian ông làm vua. Năm 760 TCN, Tào Huệ bá qua đời. Ông ở ngôi được 36 năm. Con ông là Cơ Thạch Phủ lên nối ngôi. Xem thêm Tào Thạch Phủ Tào Đái bá Tham khảo Sử ký Tư Mã Thiên, thiên: Quản Sái thế gia Phương Thi Danh (2001), Niên biểu lịch sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Thế giới Chú thích Vua nước Tào Năm sinh thiếu Mất năm 760 TCN
VI_open-0000000880
News
NSƯT Quang Lý (5 tháng 4 năm 1949 – 1 tháng 12 năm 2016) tên thật là Phan Hữu Lý, là một ca sĩ người Việt Nam. Ông được khán giả đánh giá là một trong những giọng ca được yêu thích nhất của dòng nhạc trữ tình Việt Nam từ sau 1975. Ông đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú do có nhiều đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam. Tiểu sử Quang Lý sinh ra trong một gia đình gốc Hải Phòng tại Bangkok. Năm 9 tuổi, ông theo gia đình về Việt Nam định cư ở Hải Phòng. Ông lập gia đình năm 25 tuổi. Những ngày đầu trong sự nghiệp hoạt động nghệ thuật, Quang Lý công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, Đoàn ca múa nhạc Hải Phòng. Đầu những năm 70, ông tham gia vào Đoàn văn công Đài Phát Thanh Giải Phóng. Đến năm 1983, Quang Lý đưa gia đình vào Thành phố Hồ Chí Minh rồi làm việc tại đoàn ca múa nhạc Bông Sen cho đến bây giờ. Trong những năm qua, ông cũng làm công tác giảng dạy thanh nhạc tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Hơn 40 năm ca hát, ông vẫn luôn dành tình cảm cho những chiến sĩ năm xưa ngoài mặt trận. Những bản tình ca ông hát dường như không có tuổi, dù đã nghe bao nhiêu lần, nhưng những khán giả say mê giọng hát của Quang Lý vẫn muốn ông cất lên những lời bài ca cũ bằng chất giọng trầm ấm, trữ tình. Năm 2004, NSƯT Quang Lý được mời có mặt trong Hội đồng Nghệ thuật xuyên suốt của chương trình Sao Mai Điểm Hẹn do Đài Truyền hình Việt Nam do VTV3 thực hiện. Bằng những lời góp ý chân tình, thẳng thắn, những nhận xét chuyên môn đúng đắn, ông đã phần nào góp công tìm ra những gương mặt thực tài mới cho nền âm nhạc Việt Nam. Năm 2006, NSƯT Quang Lý phát hành album Vọng Âm Sóng. Khác với những album khác, thường lấy một ca khúc làm chủ đề album thì Nghệ sĩ ưu tú Quang Lý đã được nhà thơ Đỗ Trung Quân với vai trò là một người bạn đã tặng riêng cho ông đề tựa album với lời dẫn: "Sở hữu một giọng hát đẹp đến hiếm hoi, Nghệ sĩ ưu tú Quang Lý vẫn là một bảo đảm thuần nhã, trữ tình cho sự thể hiện những ca khúc danh tiếng của những tiếng sóng, của những dòng sông trôi qua album này". Những ngày đầu tháng 11/2009, NSƯT Quang Lý đã cho ra mắt album mới của mình với tựa đề "Cung Trầm", đặc biệt trong album này có 8 bài hát do ông sáng tác, một bước ngoặt mới trên con đường nghệ thuật của ông. Ông đột ngột qua đời lúc 9h sáng ngày 1 tháng 12 năm 2016 do nhồi máu cơ tim. Danh sách đĩa nhạc Cho em và cũng là cho anh - Quang Lý (2006) Mùa thu & nỗi nhớ Tham khảo Ca sĩ nhạc trữ tình Việt Nam Người Việt sinh tại Thái Lan Người Hải Phòng Ca sĩ Hải Phòng Sinh năm 1949 Mất năm 2016
VI_open-0000000881
Arts_and_Entertainment
1142 Aetolia là một tiểu hành tinh vành đai chính ngày Vành đai tiểu hành tinh, được phát hiện bởi Karl Wilhelm Reinmuth ngày 24 tháng 1 năm 1930 ở Heidelberg. It orbits once every 6 năm. Nó được đặt theo tên Greek region Aetolia, và tên chỉ định ban đầu của nó là 1930 BC. Tham khảo Liên kết ngoài Tiểu hành tinh vành đai chính Được phát hiện bởi Karl Wilhelm Reinmuth Thiên thể phát hiện năm 1930
VI_open-0000000882
Science
1890 Konoshenkova (1968 CD) là một tiểu hành tinh nằm phía ngoài của vành đai chính được phát hiện ngày 6 tháng 2 năm 1968 bởi L. Chernykh ở Nauchnyj. Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 1890 Konoshenkova Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1968
VI_open-0000000885
Science
2400 Derevskaya (1972 KJ) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 17 tháng 5 năm 1972 bởi Smirnova, T. ở Nauchnyj. Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 2400 Derevskaya Tiểu hành tinh vành đai chính Được phát hiện bởi Tamara Mikhaylovna Smirnova Thiên thể phát hiện năm 1972
VI_open-0000000887
Science
2659 Millis (1981 JX) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 5 tháng 5 năm 1981 bởi E. Bowell ở Flagstaff (AM). Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser 2659 Millis Được phát hiện bởi Edward Bowell Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1981
VI_open-0000000888
Science
2926 Caldeira là một tiểu hành tinh vành đai chính với cận điểm quỹ đạo là 2.003887 AU. Nó có độ lệch tâm là 0.1189267 và chu kỳ quỹ đạo là 1252.79 ngày (3.43 năm). Caldeira có vận tốc quỹ đạo trung bình là 19.74977514 km/s và độ nghiêng quỹ đạo là 3.4828 °. Nó được phát hiện ngày 22 tháng 5 năm 1980 bởi Henri Debehogne. Tham khảo Tiểu hành tinh vành đai chính Được phát hiện bởi Henri Debehogne Thiên thể phát hiện năm 1980
VI_open-0000000889
Science
3694 Sharon (1984 SH5) là một tiểu hành tinh nằm phía ngoài của vành đai chính được phát hiện ngày 27 tháng 9 năm 1984 bởi A. Grossman ở Palomar. Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 3694 Sharon Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1984
VI_open-0000000892
Science
4440 Tchantchès là một tiểu hành tinh vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 972.4362407 ngày (2.66 năm). Tiểu hành tinh được phát hiện bởi François Dossin ngày 23 tháng 12 năm 1984. Tham khảo Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1984 Hệ tiểu hành tinh đôi
VI_open-0000000895
Science
4712 Iwaizumi (1989 QE) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 25 tháng 8 năm 1989 bởi Endate và Watanabe ở Kitami. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 4712 Iwaizumi Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1989
VI_open-0000000896
Science
5608 Olmos là một tiểu hành tinh vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 1,567.8586879 ngày (4.29 năm). Nó được phát hiện ngày 12 tháng 3 năm 1993, và đặt tên theo diễn viên Edward James Olmos. Tham khảo Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1993
VI_open-0000000899
Science
{{DISPLAYTITLE:(31411) 1999 AU9}}(31411) 1999 AU9 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD ở trạm Xinglong ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 10 tháng 1 năm 1999. Xem thêm Danh sách các tiểu hành tinh: 31001–32000 Tham khảo Thiên thể phát hiện năm 1999 Tiểu hành tinh vành đai chính
VI_open-0000000915
Science
6184 Nordlund (1987 UQ3) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 16 tháng 10 năm 1987 bởi P. Jensen ở Brorfelde. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 6184 Nordlund Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1987
VI_open-0000000917
Science
6511 Furmanov (1987 QR11) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 27 tháng 8 năm 1987 bởi Chernykh, L. I. ở Nauchnyj. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 6511 Furmanov Thiên thể phát hiện năm 1987 Tiểu hành tinh vành đai chính
VI_open-0000000918
Science
7099 Feuerbach (1996 HX25) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 20 tháng 4 năm 1996 bởi Eric Walter Elst ở La Silla. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 7099 Feuerbach Thiên thể phát hiện năm 1996 Tiểu hành tinh vành đai chính
VI_open-0000000920
Science
7446 Hadrianus (thuộc tên chỉ định 2249 T-2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 29 tháng 9 năm 1973 bởi Cornelis Johannes van Houten, Ingrid van Houten-Groeneveld và Tom Gehrels ở Đài thiên văn Palomar. Liên kết ngoài Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1973
VI_open-0000000921
Science
8041 Masumoto (1993 VR2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 15 tháng 11 năm 1993 bởi F. Uto ở Kashihara. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 8041 Masumoto Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1993
VI_open-0000000922
Science
8822 Shuryanka (1987 RQ2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 1 tháng 9 năm 1987 bởi L. G. Karachkina ở Nauchnyj. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 8822 Shuryanka Thiên thể phát hiện năm 1987 Tiểu hành tinh vành đai chính
VI_open-0000000924
Science
9638 Fuchs (1994 PO7) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 10 tháng 8 năm 1994 bởi Eric Walter Elst ở La Silla. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 9638 Fuchs Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1994
VI_open-0000000926
Science
10830 Desforges (1993 UT6) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 20 tháng 10 năm 1993 bởi E. W. Elst ở Đài thiên văn Nam Âu. The asteroidđược đặt tên theo tên của Jacques Desforges (1723–1791), một mục sư người pháp từng bị giam trong năm 1758 ở Bastille, trong suốt thời gian Đó ông đã nghĩ ra ý tưởng về một chiếc máy bay. Tham khảo Tiểu hành tinh vành đai chính Được phát hiện bởi Eric Walter Elst Thiên thể phát hiện năm 1993
VI_open-0000000929
Science
11827 Wasyuzan (1982 VD5) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 14 tháng 11 năm 1982 bởi H. Kosai và K. Hurukawa ở Trạm Kiso thuộc Đài thiên văn Tokyo. Tham khảo Liên kết ngoài Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1982
VI_open-0000000931
Science
12354 Hemmerechts (1993 QD3) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 18 tháng 8 năm 1993 bởi E. W. Elst ở Caussols. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 12354 Hemmerechts Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1993
VI_open-0000000932
Science
12872 Susiestevens (1998 OZ5) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 21 tháng 7 năm 1998 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 12872 Susiestevens Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1998
VI_open-0000000933
Science
14463 McCarter (1993 GA1) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 15 tháng 4 năm 1993 bởi Spacewatch ở Kitt Peak. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 14463 McCarter Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1993
VI_open-0000000935
Science
16046 Gregnorman (1999 JK) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 5 tháng 5 năm 1999 bởi J. Broughton ở Reedy Creek Observatory. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 16046 Gregnorman Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1999
VI_open-0000000937
Science
17020 Hopemeraengus (1999 DH4) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 24 tháng 2 năm 1999 bởi I. P. Griffin ở Cocoa. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 17020 Hopemeraengus Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1999
VI_open-0000000938
Science
17951 Fenska (1999 JO19) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 10 tháng 5 năm 1999 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 17951 Fenska Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1999
VI_open-0000000939
Science
18873 Larryrobinson (1999 VJ22) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 13 tháng 11 năm 1999 bởi M. Abraham và G. Fedon ở Everstar Observatory. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 18873 Larryrobinson Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1999
VI_open-0000000940
Science
19758 Janelcoulson (2000 GH100) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 7 tháng 4 năm 2000 bởi Nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 19758 Janelcoulson Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 2000
VI_open-0000000941
Science