text
stringlengths
199
386k
id
stringlengths
18
18
domain
stringclasses
25 values
Polypodium ensifrons là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Alderw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1913. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polypodium Thực vật được mô tả năm 1913 Unresolved names es:Polypodium ensifrons
VI_open-0000003553
Science
Polypodium macrophyllum là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Mett. mô tả khoa học đầu tiên năm 1856. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polypodium Thực vật được mô tả năm 1856 Unresolved names es:Polypodium macrophyllum
VI_open-0000003554
Science
Polypodium quinquefurcatum là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1887. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polypodium Thực vật được mô tả năm 1887 Unresolved names es:Polypodium quinquefurcatum
VI_open-0000003555
Science
Polypodium violascens là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Mett. mô tả khoa học đầu tiên năm 1866. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polypodium Thực vật được mô tả năm 1866 Unresolved names es:Polypodium violascens
VI_open-0000003556
Science
Marsilea biloba là một loài dương xỉ trong họ Marsileaceae. Loài này được Willd. mô tả khoa học đầu tiên năm 1810. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Marsilea Thực vật được mô tả năm 1810 Unresolved names es:Marsilea biloba
VI_open-0000003559
Science
Lindsaea ambigens là một loài dương xỉ trong họ Lindsaeaceae. Loài này được Ces. mô tả khoa học đầu tiên năm 1877. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Lindsaea Thực vật được mô tả năm 1877 Unresolved names es:Lindsaea ambigens
VI_open-0000003561
Pets_and_Animals
Lindsayopsis scandens là một loài dương xỉ trong họ Lindsaeaceae. Loài này được Kuhn mô tả khoa học đầu tiên năm 1882. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Lindsayopsis Thực vật được mô tả năm 1882 Unresolved names es:Lindsayopsis scandens
VI_open-0000003562
Science
Cephalomanes caudatum là một loài dương xỉ trong họ Hymenophyllaceae. Loài này được Bostock mô tả khoa học đầu tiên năm 1998. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Cephalomanes Thực vật được mô tả năm 1998 Unresolved names es:Cephalomanes caudatum
VI_open-0000003563
Science
Hymenophyllum exiguum là một loài dương xỉ trong họ Hymenophyllaceae. Loài này được Bedd. mô tả khoa học đầu tiên năm 1868. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Hymenophyllum Thực vật được mô tả năm 1868 Unresolved names es:Hymenophyllum exiguum
VI_open-0000003564
Science
Lacostea javanica là một loài dương xỉ trong họ Hymenophyllaceae. Loài này được Prantl mô tả khoa học đầu tiên năm 1875. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Lacostea Thực vật được mô tả năm 1875 Unresolved names es:Lacostea javanica
VI_open-0000003565
Science
Sphaerocionium commutatum là một loài dương xỉ trong họ Hymenophyllaceae. Loài này được C.Presl mô tả khoa học đầu tiên năm 1843. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Sphaerocionium Thực vật được mô tả năm 1843 Unresolved names es:Sphaerocionium commutatum
VI_open-0000003566
Science
Trichomanes niveum là một loài dương xỉ trong họ Hymenophyllaceae. Loài này được Burm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1768. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Trichomanes Thực vật được mô tả năm 1768 Unresolved names es:Trichomanes niveum
VI_open-0000003567
Science
Gleichenia koordersii là một loài dương xỉ trong họ Gleicheniaceae. Loài này được Christ mô tả khoa học đầu tiên năm 1897. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Chi Guột Thực vật được mô tả năm 1897 Unresolved names es:Gleichenia koordersii
VI_open-0000003568
Science
Bolbitis rivularis là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Ching in C.Chr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1934. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Bolbitis Thực vật được mô tả năm 1934 Unresolved names
VI_open-0000003569
Science
Dryopteris × doeppii là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Rothm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1945. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Dryopteris Thực vật được mô tả năm 1945 Unresolved names
VI_open-0000003571
Science
Dryopteris liui là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Ching mô tả khoa học đầu tiên năm 1984. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Dryopteris Thực vật được mô tả năm 1984 Unresolved names es:Dryopteris liui
VI_open-0000003572
Science
Dryopteris pseudoamboinensis là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Rosenst. mô tả khoa học đầu tiên năm 1917. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Dryopteris Thực vật được mô tả năm 1917 Unresolved names es:Dryopteris pseudoamboinensis
VI_open-0000003573
Science
Dryopteris vinosicarpa là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Alderw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1922. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Dryopteris Thực vật được mô tả năm 1922 Unresolved names es:Dryopteris vinosicarpa
VI_open-0000003574
Science
Lastrea chupengensis là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Ridl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1911. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Lastrea Thực vật được mô tả năm 1911 Unresolved names es:Lastrea chupengensis
VI_open-0000003576
Science
Lastrea retusa là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1947. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Lastrea Thực vật được mô tả năm 1947 Unresolved names es:Lastrea retusa
VI_open-0000003577
Science
Nephrodium contractum là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được T.Moore mô tả khoa học đầu tiên năm 1858. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Nephrodium Thực vật được mô tả năm 1858 Unresolved names es:Nephrodium contractum
VI_open-0000003578
Science
Nephrodium resiniferum là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Hook. & Arn. mô tả khoa học đầu tiên năm 1832. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Nephrodium Thực vật được mô tả năm 1832 Unresolved names es:Nephrodium resiniferum
VI_open-0000003579
Science
Polycampium penangianum là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được C.Presl mô tả khoa học đầu tiên năm 1851. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polycampium Thực vật được mô tả năm 1851 Unresolved names es:Polycampium penangianum
VI_open-0000003580
Science
Polystichum pennigerum là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được Gaudich. mô tả khoa học đầu tiên năm 1828. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polystichum Thực vật được mô tả năm 1828 Unresolved names es:Polystichum pennigerum
VI_open-0000003581
Science
Davallia stolonifera là một loài dương xỉ trong họ Davalliaceae. Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1874. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Davallia Thực vật được mô tả năm 1874 Unresolved names es:Davallia stolonifera
VI_open-0000003584
Science
Alsophila grangaudiana là một loài dương xỉ trong họ Cyatheaceae. Loài này được J.P.Roux mô tả khoa học đầu tiên năm 2009. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Alsophila (chi dương xỉ) Thực vật được mô tả năm 2009 Unresolved names es:Alsophila grangaudiana
VI_open-0000003585
Science
Cyathea elegantula là một loài dương xỉ trong họ Cyatheaceae. Loài này được Domin mô tả khoa học đầu tiên năm 1930. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Cyathea Thực vật được mô tả năm 1930 Unresolved names es:Cyathea elegantula
VI_open-0000003586
Science
Ga Deokjeong là ga số 105 ở Tàu điện ngầm Seoul tuyến 1. Bố trí ga Kể từ tháng 11 năm 2017, cửa chắn sân ga trên sân ga 2 và sân ga 3 đã đi vào hoạt động, sân ga 1 và 4 lắp đặt từ tháng 3 năm 2020 và vận hành từ tháng 10 năm 2020. Lối thoát Lối thoát 1: Trường tiểu học Deogjeong, bưu điện Deokjeong, trường trung học Deokjeong, trung tâm bảo vệ Deokjeong, trung tâm cộng đồng Hoecheon 1-dong Tham khảo Ga tàu điện ngầm Seoul Nhà ga mở cửa vào 1912
VI_open-0000003590
Travel_and_Transportation
Woodwardia dispar là một loài dương xỉ trong họ Blechnaceae. Loài này được Willd. mô tả khoa học đầu tiên năm 1810. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Woodwardia Thực vật được mô tả năm 1810 Unresolved names es:Woodwardia dispar
VI_open-0000003591
Science
Athyrium novoguineensis là một loài dương xỉ trong họ Athyriaceae. Loài này được Wagner & Grether mô tả khoa học đầu tiên năm 1948. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Athyrium Thực vật được mô tả năm 1948 Unresolved names es:Athyrium novoguineensis
VI_open-0000003592
Science
Diplazium aridum là một loài dương xỉ trong họ Athyriaceae. Loài này được Christ mô tả khoa học đầu tiên năm 1908. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Diplazium Thực vật được mô tả năm 1908 Unresolved names es:Diplazium aridum
VI_open-0000003593
Science
Diplazium ophiodontum là một loài dương xỉ trong họ Athyriaceae. Loài này được C.Chr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1934. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Diplazium Thực vật được mô tả năm 1934 Unresolved names es:Diplazium ophiodontum
VI_open-0000003594
Pets_and_Animals
Dicksonia mathewsii là một loài dương xỉ trong họ Dicksoniaceae. Loài này được F mô tả khoa học đầu tiên năm 1850. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Dicksonia Thực vật được mô tả năm 1850 Unresolved names es:Dicksonia mathewsii
VI_open-0000003595
Science
Acronicta perdita là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được tìm thấy từ British Columbia về phía nam đến California. Sải cánh dài 42–46 mm. Con trưởng thành mọc cánh từ tháng 4 đến tháng 7 tùy thuộc vào vị trí. Ấu trùng ăn các loài Ceanothus và Purshia. Chú thích Liên kết ngoài Acronicta
VI_open-0000004204
Pets_and_Animals
Robert "Bob" Donaldson (sinh 27 tháng 8 năm 1868 - mất 28 tháng năm 1947) là một tiền đạo bóng đá người Scotland. Ông từng chơi cho các câu lạc bộ Airdrieonians và Blackburn Rovers trước khi chuyển tới Newton Heath vào năm 1892. Ông là một trong những tay săn bàn vĩ đại nhất của Newton Heath với 66 bàn thắng trong 155 trận. Bàn thắng đầu tiên trong số 66 bàn kể trên được ghi trước chính câu lạc bộ cũ Blackburn Rovers vào ngày 3 tháng 9 năm 1892 và cũng là bàn thắng đầu tiên của câu lạc bộ tại giải vô địch quốc gia. Tuy nhiên, chỉ hai mùa giải sau Newton Heath phải xuống chơi ở giải Hạng hai, nơi Donaldson thi đấu cho tới khi giải nghệ vào năm 1897. Tham khảo Sinh năm 1868 Mất năm 1947 Cầu thủ bóng đá Scotland Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C. Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.
VI_open-0000004345
Sports
CrAssphage là một loài virus trong ruột người. Người ta đã phát hiện loài virus này trong lúc kiểm tra vật liệu di truyền trong mẫu ruột thuộc 3 kho dữ liệu lớn, một nhóm các chuyên gia quốc tế do Đại học bang San Diego dẫn đầu đã bất ngờ phát hiện được đoạn DNA có độ dài khoảng 100.000 ký tự. CrAssphage có thể ảnh hưởng đến hành vi của một số vi khuẩn thường thấy trong ruột người, chẳng hạn như họ Bacteroides. Tham khảo
VI_open-0000004348
Health
Philippe Mari Henri Roussel, bá tước de Courcy (30 tháng 5 năm 1827 - 8 tháng 11 năm 1887, phiên âm tiếng Việt là Đờ Cuốc-xi) là một trung tướng của quân đội Pháp. Ông nắm chức thống đốc tỉnh Nancy vào năm 1881 trong thời kỳ quan nghiêm trọng lúc Đức chủ trương việc sáp nhập vùng Lorraine. Tại Viễn Đông De Courcy chỉ huy lực lược viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ vào mấy 1885-1886 tức nắm vai trò chủ chốt trong việc áp đặt nền bảo hộ của thực dân Pháp lên Bắc và Trung Kỳ. Thân thế Philippe Henri Marie Roussel de Courcy sinh ngày 30 tháng 7 năm 1827 ở Orléans, Loiret, là con trai của tử tước Pierre Léon Roussel de Courcy (đại úy kỵ binh và thành viên hội đồng tỉnh Seine-et-Marne), cùng nữ nam tước Louise Julie Adele Néverlée. Chị ông là Marie-Edith Roussel de Courcy, kết hôn với Jean-François-Albert du Pouget Nadaillac, một nhà nhân chủng và cổ sinh vật học Pháp. Năm 1857, De Courcy kết hôn với Marie-Mathilde Henriette (1837-1912), con gái của bá tước Goyon. Năm sau chính ông làm trợ lý của bá tước Goyon khi Goyon làm tư lệnh lực lượng chiếm đóng Ý năm 1858. Binh nghiệp Từ trường Saint-Cyr tới chiến tranh ở Ý De Courcy theo học trường sĩ quan quân đội danh tiếng Saint-Cyr (tiếng Pháp: École Spéciale Militaire de Saint-Cyr), nhập học ngày 27 tháng 11 năm 1844 đến 1 tháng 10 năm 1846 thì tốt nghiệp và gia nhập Trung đoàn bộ binh 25 với cấp bậc thiếu úy. Ngày 19 tháng 7 năm 1849, De Courcy thăng cấp trung úy rồi tham gia vào chiến dịch xâm lăng Ý của quân đội Pháp từ 1 tháng 7 năm 1849 tới 31 tháng 8 năm 1849. Sau đó De Courcy được điều sang châu Phi ngày 2 tháng 11 năm 1850 tới năm 1854 thì về Pháp. Trong khi tòng quân ở Bắc Phi De Courcy được thăng đại úy ngày 29 tháng 12 năm 1853. Ông tham gia chiến tranh Crimea trong tiểu đoàn 15 từ ngày 12 tháng 9 năm 1855 tới ngày 19 tháng 6 năm 1856. Sau đó ông lại sang tham chiến ở Ý ngày 21 tháng 2 năm 1858, phục vụ trong trung đoàn bộ binh 25 với cấp bậc tiểu đoàn trưởng cho tới 14 tháng 10 năm 1861. Viễn chinh Mexico Ông tham gia cuộc viễn chinh Mexico của quân đội Pháp từ ngày 26 tháng 8 năm 1862 tới ngày 7 tháng 4 năm 1866, nơi ông chỉ huy tiểu đoàn 1. Trong ba năm tham gia chiến dịch, ông bị thương vì trúng đạn ở Puebla ngày 27 tháng 3 năm 1863. Ông được thăng hàm thiếu tá ngày 12 tháng 8 năm 1864. Ông chuyển sang trung đoàn 3 ngày 2 tháng 2 năm 1865, và sau trận Limopon, ông được thăng hàm đại tá trong trung đoàn viễn chinh, ngày 17 tháng 1 năm 1866. Chiến tranh Pháp-Phổ Sau đó ông đổi chỗ cho đại tá Guilhelm và chuyển sang trung đoàn 90 thuộc tập đoàn quân Sông Rhine. Trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ 1870, ông tham gia vào các trận đánh ngày 14 tháng 8 ở Borny và 16 tháng 8 ở Gravelotte. Được chỉ định chỉ huy lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 1, quân đoàn 3 từ ngày 15 tháng 9 năm 1870. Dù có cấp bậc cao, De Courcy vẫn xông pha làn tên mũi đạn trong trận Mercy ngày 27 tháng 9. Ông bị bắt làm tù binh sau khi Pháp thua trận và sau đó được thả ra. Ông là người chỉ huy lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 1, quân đoàn 5, một trong những đơn vị Pháp đầu tiên tiến vào Paris sau chiến tranh Pháp-Phổ, ngày 24 tháng 4 năm 1871. Tùy viên quân sự tại Nga Ông được giao chỉ huy lữ đoàn 44 ở Brest, Finistère ngày 20 tháng 19 năm 1873. Ngày 3 tháng 8 năm 1875, ông được giao chỉ huy pháo binh của quân đoàn 11 và chỉ huy các đơn vị dưới sư đoàn Valves từ 27 tháng 1 năm 1876. Sau đó De Courcy chuyển sang Bộ ngoại giao Pháp làm việc trong phái bộ tại Nga trong các chiến dịch ở phía đông sông Danube, khi Nga tiến hành chiến tranh với đế chế Ottoman ở vùng Kavkaz. Ông được bộ trưởng chiến tranh Pháp chỉ định làm tùy viên quân sự bên cạnh đại công tước, hoàng tử Nga Michael Nikolaevich từ ngày 8 tháng 10 năm 1877. Lên tướng và hoạt động ở Việt Nam Được thăng hàm thiếu tướng ngày 8 tháng 1 năm 1878 (51 tuổi), De Courcy chỉ huy sư đoàn bộ binh 11 thuộc quân đoàn 6 và các đơn vị dưới sư đoàn ở Nancy từ ngày 12 tháng 2 năm 1878, và sư đoàn bộ binh 32 thuộc quân đoàn 16 và các đơn vị dưới sư đoàn ở Narbonne, Perpignan, Carcassonne và Albi từ ngày 24 tháng 1 năm 1879, sư đoàn bộ binh 15 thuộc quân đoàn 8 và các đơn vị dưới sư đoàn ở Chalon-sur-Saône, Mâcon, Dijon và Auxonne từ ngày 5 tháng 3 năm 1879, sư đoàn bộ binh 11 thuộc quân đoàn 6 và các đơn vị dưới sư đoàn ở Nancy, Toul, Neufchâteau và Troyes từ ngày 20 tháng 10 năm 1880. Ông làm thống đốc Nancy, Toul từ ngày 12 tháng 3 năm 1881, chỉ huy quân đoàn 6 từ ngày 4 tháng 7 năm 1881 và tư lệnh quân đoàn 10 từ ngày 20 tháng 4 năm 1883. Âm mưu của De Courcy Ông được bổ nhiệm chính phủ Brisson tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp tại Bắc Kỳ, Việt Nam ngày 31/5/1885, thay cho tướng Louis Alexandre Esprit Gaston Brière de l'Isle. Courcy đến Hạ Long ngày 1/6/1885, vài ngày trước khi Đô đốc Anatole Amédée Prosper Courbet chết ốm. Courcy làm Tổng công sứ Trung - Bắc Kỳ đầu tiên thay Courbet, đồng thời làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Tên này là đảng viên bảo hoàng hạng nặng, rất khát máu vì từng có mặt trên chiến trường thuộc địa. De Courcy có ít nhiều kinh nghiệm quân sự, nhưng kinh nghiệm ngoại giao thì tên này "dốt đặc thôi". Ngày 27/6/1885, khi De Courcy vừa đến Huế cùng với quan năm Cretin (Cơ-rê-tanh) dẫn 4 đại đội bộ binh vào Huế, Briere de l'Isle ở Hà Nội tuyên bố: "Tôi lại luôn luôn nghĩ rằng cái cách duy nhất để giải quyết hiện tình là phải bắt cóc hai người quan phụ chính". Đồng ý với De l'Isle, De Courcy cũng khẳng định: "Phải giải quyết cả vấn đề này ngay tại Huế". Courcy lập tức gọi Khâm sứ Huế là Lemaire ra báo cáo tường tận, sau đó cử De Champeaux sang thay Lemaire làm Khâm sứ Huế kế tiếp. Được sự đồng ý của chính phủ Paris, ngày 27/6/1885 De Courcy đem bốn đại đội lính thủy đánh bộ cùng hai tàu chiến từ Hải Phòng để vào thẳng Huế. Mục đích của hắn là dùng áp lực quân sự để loại bỏ phe chủ chiến trong triều đình Huế, giải tán quân triều đình ngay sau khi bắt cóc Tôn Thất Thuyết - biến triều đình mới thành công cụ tay sai cho Pháp. De Courcy cũng kiêu ngạo khi nghĩ rằng, với 1.000 quân Pháp và mấy tàu chiến, đại bác ở Huế; hắn đủ sức làm cho triều đình khiếp đảm mà phải quỳ gối trước hắn. Hắn cũng nghĩ rằng, triều đình Huế không thể chống Pháp bằng quân sự. De Courcy là tên võ phu chủ quan hạng nặng, tự phụ và không hề nghe ý kiến của ai cả. Trong sách về nước An-nam, Gosselin viết: "(Courcy) khinh khi người An-nam lắm, ông tin rằng các quan An-nam không dám hành động gì; và ông cũng nghĩ rằng tiểu đoàn (Zouaves) và đại đội bộ binh đã đủ cho ông làm cho hội đồng phụ chính, triều đình và dân An-nam khiếp sợ". Ngày 2/7/1885, De Courcy đưa quân đến cửa Thuận An. Triều đình cử 2 quan đại thần cùng Khâm sứ De Champeaux ra đón. Kinh thành Huế treo cờ và bắn 19 phát đại bác chào mừng, nhưng các quan đại thần lo ngại khi Courcy mang quá nhiều lính, vũ khí. De Courcy tỏ ra không ngại ngùng chi cả, hùng hổ kéo bộ hạ sang sứ quán Pháp rồi vào ngày 3/7, Courcy cho mời hội đồng phụ chính sang "thương nghị" với hắn về việc Courcy được triều yết vua Hàm Nghi và trình quốc thư. Nhưng Tôn Thất Thuyết cảnh giác, cáo bệnh không đi; sang gặp Pháp chỉ có Nguyễn Văn Tường và Phan Thận Duật. Tuy biết âm mưu bị lộ, nhưng De Courcy chưa chịu lùi. Ở triều đình, các quan nhiều lần khuyên Tôn Thất Thuyết sang "hội thương", nhưng ông không nghe và tăng cường quân đội chuẩn bị đối phó. Ít lâu sau, Courcy bèn phái bác sĩ Pháp là Madal sang chữa bệnh nhằm dò xét Thuyết, nhưng ông từ chối khéo rằng mình "không quen dùng thuốc tây" và càng củng cố lực lượng và thành quách cẩn thận hơn nữa. Khoảng chiều ngày 3/7/1885, De Courcy cho đòi được đem quân qua cửa Ngọ Môn vào triều kiến vua Hàm Nghi tại điện Cần Chánh; muốn nhà vua xuống ngai ra đón để Courcy trao bản Hòa ước Giáp Thân. Các quan triều đình phản đối, buộc hắn phải đi cửa cạnh (không được đi cửa giữa) và quân lính không được mang gươm theo; nhưng tên này nhất quyết không chịu. Đến khi tên cố đạo Caspard báo cho hắn về sự chuẩn bị gấp rút của phe chủ chiến, De Courcy hung hăng tuyên bố nếu cần, sẽ dùng vũ lực để đối phó. Tên này gấp rút tập hợp ngay trên 1.400 lính, 15 đại bác và 1 pháo thuyền trên sông Hương, 3 đại đội đóng ở đồn Mang Cá, 2 đại đội đóng ở hữu ngạn sông Hương. Tình hình hết sức căng thẳng. Để giảm căng thẳng, chiều ngày 4/7 Viện Cơ mật đề nghị hội kiến với De Courcy, nhưng hắn từ chối. Courcy cũng từ chối luôn các lễ vật mà Từ Dụ thái hậu cử các quan lễ phục chỉnh tề mang biếu y. Cả cung điện coi hành vi bất nhã đó của Courcy là một sự thóa mạ đối với ngai vàng. Đêm ngày 4/7/1885 (22 tháng 5 âm lịch năm Ất Dậu), Courcy đãi tiệc cho quân lính và sĩ quan ở bên kia sông Hương để họp bàn kế hoạch hành động. Trong bữa tiệc, Courcy một lần nữa bày tỏ âm mưu với Đại tá Metzinger rằng khi bắt được Thuyết, sẽ giải tán quân triều đình, lập lại hội đồng phụ chính. Y huênh hoang tuyên bố: "Tôi luôn luôn gặp may mắn trên con đường sự nghiệp của tôi. Bất cứ nơi nào tôi đi đến, "ngôi sao" của tôi không bao giờ bị lu mờ. Tôi thấy nó đang bừng lên một ánh sáng mới". 11 giờ đêm, tiệc tàn và trăng chưa mọc thì xung quanh sứ quán Pháp có tiếng huyên náo khác thường, ghe thuyền đi lại trên sông nườm nượp. Một viên trung úy trực hôm đó chạy về báo cáo, nhưng hắn bị khiển trách và dọa sẽ phạt tù nếu khai man. Cuộc phản công của phái chủ chiến ở kinh thành Huế Biết trước âm mưu của địch nên mặc dù việc chuẩn bị chưa thật đầy đủ, Tôn Thất Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm giành thế chủ động bằng cách tấn công vào tòa Khâm sứ Pháp. Ông chia thành hai đạo: đạo tiền quân của em trai Tôn Thất Lệ vượt sông đánh vào tòa sứ Pháp, còn đạo quân của Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn sẽ đánh úp, diệt quân Pháp ở đồn Mang Cá. Theo thống kê, đạo quân của Tôn Thất Thuyết có 20.000 người, trong đó có 5.000 thủy quân Đầu canh tư (1 giờ sáng) ngày 5/7/1885 (nhằm ngày 23 tháng 5 năm Ất Sửu), khi trăng tròn mọc lên trong khu tĩnh mịch của chốn đế đô, người ta bỗng nghe tiếng đại bác nổ xé trời - đó là những phát đại bác do Tôn Thất Thuyết ra lệnh cho quân ta bắn vào Trấn Bình đài. Rồi kế đó, tiếng súng nổ vang rền, lửa cháy sáng rực ở đồn Mang Cá và ở cả hai bên bờ sông, nhất là nơi có sứ quán Pháp. Tại Mang Cá, các trai lính bị quân của Tôn Thất Thuyết đốt cháy. Binh lính của ông hò reo dữ dội và ào ạt xông vào phá cửa tây, đánh quân Pháp những đòn sấm sét làm chúng rối loạn. Viên đại úy Brunot bị một phát đạn xuyên qua ngực, chết ngay. Viên đại úy Ruan tử thương. Nhiều trại lính, chuồng ngựa bị thiêu cháy. Chỉ huy đồn Mang Cá là đại tá Pernot vội trấn tĩnh tinh thần của binh lính, chia thành 3 đội quân phòng giữ đồn. Một tốp lấy các bao bột, thùng không rồi đổ đất vào để lấp cửa đồn; một tốp cố dập tắt các đám cháy, tốp còn lại giữ tường đồn và bảo vệ kho thuốc súng. Khi ở Mang Cá đã bắt đầu công kích thì đồng thời đạo quân của Tôn Thất Lệ từ bên kia sông đã nhất loạt xông lên tiến đánh Tòa Khâm sứ Pháp. Cũng từ bên kia sông, các khẩu đại bác được chuẩn bị từ trước đã nhất loạt nhả đạn, yểm trợ cho đạo quân của Tôn Thất Lệ đang đánh chiếm các trại lính ở phía sau Tòa Khâm sứ. Lính Pháp đang ngủ thiu thiu, nghe tiếng súng nổ bèn choàng dậy thì thấy khói tỏa nghi ngút, lửa cháy rực trời. Chúng hốt hoảng bỏ chạy, nhiều tên không kịp mang theo súng, có kẻ còn mặt áo ngủ và đi chân đất. Một số lách qua được đám đông đang bắn chặn họ lại, tìm lối thoát ra. Một nhóm chạy vào dinh sứ quán, nơi De Courcy đang ở. Mái nhà và gầm tòa sứ bị trúng đạn sụp đổ nhiều chỗ. Từ các cửa sổ này, lính Pháp bắn loạn xạ vào các đám cháy và những nhóm người mà chúng nhìn thấy qua ánh lửa. Vì vậy quân của Tôn Thất Thuyết không thể vào sâu được. Từ 2 giờ sáng trở đi, khi thấy phía trong Mang Cá im ắng, Trần Xuân Soạn cho quân chuyển hướng đại bác đặt trong kinh thành, chuyển súng lớn vào cửa Thượng Tứ để chuẩn bị bắn vào gần sứ quán Pháp. Về phía Pháp, do thiếu cảnh giác nên chúng bị thiệt hại khá nhiều và cầm chân được 1.500 lính Pháp không có súng ống bắn xa. Courcy sau những phút hoàn hồn ban đầu, đã lén đánh diện sang đồn Thuận An nhờ hỗ trợ. Gần sáng hôm sau ngày 6/7/1885, một trung đội thủy quân Pháp bất ngờ tấn công và chiếm được 2 cỗ đại bác của quân ta. Khi mặt trời mọc, quân Pháp phản công. Họ chở súng lên đài và nóc tàu bắn qua hạ được quân Nguyễn rất nhiều, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị phá hủy. Pháo hạm Javelin cấp tập bắn dọn đường cho bộ binh Pháp phản công. Dưới sự chỉ huy của Pernot, quân Pháp chia quân làm 3 cánh để tiến vào kinh thành. Họ xung phong từng đợt một, chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt, để tràn vào các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa… Một toán từ Cửa Trài phá cầu Thanh Long, vượt sông Ngự Hà tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường vào Đại Nội. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho, tấn công quân Nam đang tử thủ ở vườn Thượng Uyển, đồng thời cũng để tiếp ứng cho toán quân đang tìm cách phá vỡ cửa Hiển Nhơn (cửa phía Đông vào Đại Nội). Bị tấn công bất ngờ, ban đầu quân Nguyễn anh dũng chống cự, hạ gục Thiếu úy Pellicot, sử dụng các vọng lâu làm pháo đài, gây cháy nổ và làm nhiều quân Pháp bị thương. Bên phía Tòa sứ, đoàn quân của Cheroutre cũng tiến sang, họ cố tràn lên nhưng bị quân Nam nổ súng chặn lại, một số sĩ quan Pháp bị tiêu diệt. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn tiến được vào thành, cùng lúc đó, quân của Bornes và Sajot cũng vừa tiến vào. Dọc đường tiến, quân Pháp ra sức đốt phá, giết chóc, cướp bóc không từ một ai làm náo động kinh thành Huế. Quân ta vừa rút vừa kiên cường chống trả, dùng mọi vũ khí để chặn đánh quân Pháp. Có lúc, quân ta ùa ra và lăn xả vào đội hình của giặc, bắn xuyên qua bụng tên trung úy Lacroix, hạ sát trung úy Heischell cùng vài tên lính đi cùng. Pháo hạm ở Bao Vinh cũng xả loạt đạn lên những nơi có ánh lửa chúng đã thấy Đến gần sáng, đại bác của quân ta bắn thừa dần vì hết đạn. Khoảng 6 giờ sáng, một toán lính Pháp từ sứ quán kéo qua cửa An Hòa, gặp ai giết nấy. Bọn này tràn vào từng nhà lục soát, cướp phá. Thì ra để kích động binh lính, Courcy ra lệnh cho chúng tự do hành động trong 48 tiếng đồng hồ - toán này bị chặn ở cầu Thanh Long và thiệt hại khá nhiều. Lúc 8 giờ sáng, quân Pháp tiến được vào thành, họ hạ cờ triều đình Huế xuống, treo cờ tam tài lên kỳ đài. Sau đó, họ tiếp tục tiến vào Đại Nội, rồi ra sức đốt phá, cướp bóc không từ một ai. Một toán quân Pháp đốt trụi trụ sở Bộ Lại, Bộ Binh và các kho thuốc súng. Quân Pháp chia nhau chiếm giữ các kho tàng, cung điện, thu được nhiều vàng bạc và số tiền hơn một triệu quan, là số tiền mà triều đình không kịp mang đi... Trưa hôm đó, họ chia nhau đi đốt hoặc vùi lấp những thi hài của quân và dân Nam chết trong trận đánh. Mặc dù cướp bóc rất nhiều, nhưng quân Pháp không tìm thấy quân ta vì Tôn Thất Thuyết đã kịp ra ngoại ô. Quân ta bị tổn thất trên 1.000 người, mất 812 khẩu đại bác và nhiều loại vũ khí khác. Nhưng sự trống vắng của triều đình làm cho sứ mạng của De Courcy là thiết lập nền bảo hộ Việt Nam thất bại. De Courcy điện về Paris xin ý kiến, nhưng nội các Brisson lúng túng và chỉ ra lệnh "làm cho tình hình khá hơn". Gosselin nhận định: "Đại tướng làm chủ Hoàng thành và thành phố Huế, điều ấy không ai chối cãi được, nhưng mà quyền hành của ông không vượt ra ngoài cương giới hẹp hòi ấy. Sự thật là sau khi thắng trận, ông bị rắc rối vô cùng vì cuộc xung đột đổ máu ngày 5/7 đã biến đổi tất cả ở xứ An-nam. Vị vua trẻ tuổi đã rời kinh thành rồi, thì ở Huế không còn có chánh phủ, không còn có ai để thi hành các điều ước liên tiếp mà ta đã ký kết với xứ Annam". De Courcy bối rối điên cuồng, âm mưu lập Đồng Khánh lên ngôi Sau sự kiện tháng 7/1885, khắp miền Bắc và Trung Kỳ, nhân dân nổi dậy liên tục và nhiều đồn binh của Pháp bị bao vây. De Courcy hoảng hốt diện cho chính phủ Pháp xin cứu viện, nhưng nội các Brisson không gửi thêm quân và không cho Courcy hành quân hấp tấp; Brisson sợ công luận Pháp đang sôi nổi nhất là trước cuộc tổng tuyển cử Nghị viện vào tháng 9. Bí thế, De Courcy gửi bức điện cho Ngoại trưởng Pháp là De Freycinet, có đoạn: "Cái điều mà tôi sẽ đề nghị với Ngài có thể gọi là rất bạo dạn: bỏ Bắc Kỳ đi, rồi lấy Trung Kỳ và gửi bớt quân về Pháp (...). Như thế ta sẽ không còn lo sợ gì đối với Trung Quốc nữa. Nhiều nhất là Trung Quốc có thể bắt buộc ta triệt quân khỏi đồng bằng Bắc Kỳ". Trong lúc y đang bối rối thì cơ may đã đến: Tam cung và các hoàng tử nhà Nguyễn đã hồi cung. Courcy liền chụp ngay cơ hội này mà phong Nguyễn Văn Tường đứng đầu Viện Cơ mật, Nguyễn Hữu Độ làm phó, De Champeaux làm Thượng thư Bộ Binh. Ngoài ra, De Courcy ép triều đình cử hoàng thân Thọ Xuân vương lúc này 86 tuổi lên ngôi để kêu gọi các quan lại phải cộng tác với Pháp để tiêu diệt "nghịch đảng" Tôn Thất Thuyết và các quan lại chủ chiến. Một số quan lại chủ chiến như Thượng thư Bộ Hộ Phan Thận Duật, Tôn Thất Đính... bị bắt cầm tù, còn Nguyễn Văn Tường bị đày ra đảo Tahiti. Trong khi đó, vua Hàm Nghi không chịu về Huế. Tôn Thất Thuyết đưa vua ra Bắc cùng đội quân 700 người. Nhưng khi đến Thụy Ba, Quảng Trị thì De Courcy đem quân đánh chiếm cửa Nhật Lệ, làm chủ tỉnh Quảng Trị; Hàm Nghi phải trở lại Tân Sở. Được sự giúp đỡ của nhân dân, Hàm Nghi bất chấp việc một số quan lại và tam cung (đứng đầu là thái hậu Từ Dụ) rời bỏ cuộc kháng chiến, đi theo Tôn Thất Thuyết đến sơn phòng Ấu Sơn (huyện Hương Khê, Hà Tĩnh). Ngày 20/9/1885, Tôn Thất Thuyết nhân danh nhà vua viết chiếu Cần Vương lần hai. De Courcy bí thế, không tìm ra cách hữu hiệu để đối phó: phương án 1: nếu không có vua thì cả nước Việt Nam sẽ là thuộc địa - nhưng Pháp có hai khó khăn lớn: (1) Pháp sẽ mất đi đồng minh quan trọng là bọn bảo hoàng bất bình với hành động của thực dân; (2) Pháp công khai xé bỏ Quy ước Thiên Tân, nhưng làm như vậy là gây lại cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Phương án 2: Pháp sẽ lập một ông vua mới nhưng với điều kiện là vua mới này không có ý chống lại Pháp và nhân dân, không được ảnh hưởng gì đến nhân dân - nhưng phương án này cũng khó khăn vì nó sẽ cạnh tranh với Hàm Nghi, một ông vua chính nghĩa. Cuối cùng, ngày 7/9/1885, De Courcy đưa Tam cung về Viện Thương bạc để hỏi ý kiến về việc lập vua mới. Ngày 19/9/1885, Chánh Mông vương (anh của vua Hàm Nghi) lên ngôi tại điện Thái Hòa, niên hiệu Đồng Khánh. Ngay khi Đồng Khánh tức vị, Thái hậu Từ Dụ ra tuyên cáo cho các tỉnh, nếu Hàm Nghi trở về sẽ được phong làm Quận công Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhưng không ảnh hưởng gì đến triều đình kháng chiến Hàm Nghi. Cũng trong ngày 19, Đồng Khánh thân hành sang gặp Courcy và nhận chức vị hoàng đế do hắn ban cho, Courcy "xin" nhà vua cho hắn được dẫn 'thân binh" toàn người Pháp. Cả lễ đăng quang của tân vương, Pháp rút trong kho của triều đình là 2 vạn lạng bạc, 2 vạn quan tiền để chi trả. Kháng chiến của vương triều Hàm Nghi và De Courcy triệu hồi Từ sau khi Hàm Nghi xuất bôn và ra chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương bùng nổ mạnh mẽ ở khắp Trung - Bắc Kỳ. Ngay khi Hàm Nghi bị chặn ở Quảng Bình và phải vòng về Tân Sở, một đạo quân Pháp do tên quan ba Bastide (có cố đạo Mathai và Patinier dẫn đường) vào chiếm Cam Lộ và chặn lại. Nhân dân trong các làng ở Nghệ - Tĩnh chặn đánh quyết liệt để mở đường cho vua đi nơi khác. Khi vua tới Quỳ Hợp và được Sơn phòng sứ Nguyễn Chánh giúp cho chỗ nghỉ chân, trong khi Phan Đình Phùng hoạt động mạnh ở Nghệ An và Lê Ninh cũng hoạt động rất mạnh ở Hà Tĩnh, kêu gọi người Việt và cả dân tộc thiểu số hưởng ứng. Bị lúng túng cả ở Trung và Bắc Kỳ, De Courcy ra Bắc củng cố quân Pháp, họp với Louis Alexandre Esprit Gaston Brière de l'Isle, De Negrier và Charles Auguste Louis Warnet tại Hải Phòng để đối phó với tình hình khẩn cấp ở Trung Kỳ. A. Thomazi nhận định: "Quyền đô hộ của chúng ta chỉ được thừa nhận tại kinh thành và ngoại vi trực tiếp của các đồn binh, những đồn binh ấy lại không phải nhiễu nhõi gì; còn trên tất cả xứ Trung Kỳ thì hoàn toàn vô trật tự". Trong mùa hè 1885, quân Pháp chẳng những bị cột chân và công phá, chúng nó bị thời tiết giết hại rất nhiều. Hành quân liên miên nên chỉ trong 4 tháng của hè - thu 1885, có 4.000 tên lính Pháp (trong đó có trên 30 sĩ quan) chết bệnh hoặc bị thương nặng rồi chết bệnh luôn; lại có 3.200 tên (trong đó có 72 sĩ quan) bị bệnh rất nặng phải vào nhà thương điều trị. Pháp có 5.000 tên lính chỉ đóng quân được đúng 45 vị trí mà thôi - chứng tỏ đất nước chưa lọt vào tay địch. Courcy ra Bắc vào Trung liên tục, cũng không cải thiện được tình hình. Y điện về Paris xin viện binh, nhưng chính phủ ngại ngần không cho. Ảnh hưởng của phong trào Cần Vương lan sang Pháp: cuối năm 1885, Brisson đưa vấn đề Việt Nam ra Nghị viện xin tăng một lượng chiến phí lên tới 79 triệu franc, nhưng tiểu ban về vấn đề Việt Nam do ông Pelletan làm báo cáo viên, phản đối chiến phí. Frepped, Giám mục Agnes thì phản đối kịch liệt việc rút quân. Họ nói: "Các ngài sẽ được gì khi rút quân khỏi Bắc Kỳ ? Nhục nhã và mất danh dự, không có gì khác (...) Cái điều mà cử tri đoàn chỉ trích không phải là bản thân cuộc viễn chinh Bắc Kỳ mà là sự chỉ đạo kém cỏi cuộc viễn chinh ấy (...) Chính những biện pháp nửa vời, sự lẩn chẩn tránh né, những sự hoãn đi hoãn lại; đã cho phép Trung Quốc và Annam tung ra trận những lực lượng mà họ không có lúc ban đầu (...). Các ngài lẽ nào lại gạt ra sau lưng 4.000 giáo dân, mà sai lầm duy nhất của họ là bảo vệ quyền lợi của nước Pháp sao ? Phải, cái công cuộc mở rộng thuộc địa của Pháp quả là điều rất có lợi, rất hợp lý. Đúng là bổ ích và hợp lý nêu ta kéo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ hợp với Campuchia lại, để làm thành một nước mạnh, tương đương với nước Đại Ấn". Phớt lờ các ý kiến phản đối, tiểu ban đã tham khảo các tài liệu mới nhận được từ Bộ Ngoại giao, Bộ Hải quân và Thuộc địa, Bộ Chiến tranh, nghe nhiều ý kiến của các chứng nhân - trong đó Đô đốc Duperre tán thành việc Pháp rút lui khỏi Bắc Kỳ Ngày 21/12/1885, sau bốn ngày tranh cãi, cuộc bỏ phiếu ở Nghị viện cho 274 phiếu thuận cho việc chi chiến phi cho xâm lăng, 270 phiếu nghịch - suýt chút nữa quân Pháp phải rút về nước vì không còn chiến phí. Thấy mình không giành đủ đa số phiếu trong Nghị viện, Nội các Brisson bị đổ, nhường chỗ cho nội các mới của cựu Ngoại trưởng Pháp là Charles de Freycinet, chính thức cầm quyền từ ngày 7 tháng 1 năm 1886. Đầu năm 1886 ở Việt Nam, De Courcy đã phải ra Bắc Kỳ để họp hội nghị quân sự mới ở Hải Phòng, tổ chức một đạo quân gồm 1.500 tên lính do Đại tá Gaston Louis Pernot chỉ huy nhằm truy tìm Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi, xuất phát từ Huế, một đạo quân khác của De Negrier sẽ từ Hải Phòng vượt Thanh Hóa tiến vào để gặp nhau. Cũng vào thời gian này, đại quân Pháp xâm lược mắc chứng bệnh dịch tả ở núi rừng Bắc Trung Bộ làm 4.000 người tử vong. Giữa năm 1886, De Courcy bị gọi về Pháp, thay cho ông chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương là tướng Charles Auguste Louis Warnet và một quan chức dân sự, nghị sĩ Paul Bert, với vai trò thống sứ An Nam và Bắc Kỳ. Qua đời De Courcy trở lại Pháp và được đề nghị một chỗ trong nội các ngày 1 tháng 5 năm 1887, nhưng ông qua đời ở Paris ngày 8 tháng 11 năm 1887, thọ 60 tuổi. Tham khảo Sinh năm 1827 Mất năm 1887 Toàn quyền Đông Dương Thực dân Pháp ở châu Á Vương tước nhà Nguyễn Quân nhân Pháp trong Chiến tranh Pháp-Phổ Quân nhân Pháp trong Chiến tranh Pháp–Đại Nam Cựu sinh viên trường École Spéciale Militaire de Saint-Cyr
VI_open-0000004353
News
Hội nghị Thành Đô (hay gọi là Mật ước Thành Đô) là cuộc hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản của Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc. Cuộc họp mặt này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng. Cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố, tuy nhiên trên trang thông tin chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho đăng hình ảnh chụp trong hội nghị, trong những cột mốc ngoại giao quan trọng. Thành phần tham dự: Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng. Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc. Kết quả của hội nghị là một loạt các thay đổi trong đối nội và đối ngoại, không chỉ giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà còn giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước ASEAN. Bối cảnh Cuối năm 1989 cho đến đầu năm 1990, hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia Đông Âu kể cả Liên Xô lần lượt bị rạn nứt và suy sụp. Kế tiếp là sự kiện Thiên An Môn, khiến các nước phương Tây đồng loạt công kích và thực hiện chính sách cấm vận một số lĩnh vực đối với Trung Quốc. Những diễn biến này làm cho Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như Trung Quốc đều lo lắng trước nguy cơ đổ vỡ của chế độ hoặc sự tấn công quân sự của phương Tây. Cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều muốn bình thường hóa quan hệ với nhau, nhấn mạnh nguy cơ xung đột giữa khối tư bản và xã hội chủ nghĩa trong khi gác lại những xung đột trong quá khứ, mặc dù hai bên đã có xung đột trong thời gian dài trong cuộc chiến tranh Biên giới Việt Trung 1979 và ngoài khơi trong Hải chiến Trường Sa 1988. Quan hệ Việt Trung bấy giờ đã căng thẳng hơn 10 năm. Xúc tiến của Đảng Cộng sản Việt Nam chuyển chính sách sang giai đoạn liên minh "bảo vệ Xã hội Chủ nghĩa" tức là trở lại quan điểm trước kia chia thế giới làm hai khối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Vì mất hậu thuẫn của Liên Xô, Việt Nam trước hoàn cảnh cô lập, thay vì đối đầu với Bắc Kinh, Hà Nội quyết định phải làm hòa với Trung Quốc để tránh cái họa chiến tranh tái diễn giữa hai nước xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo Việt Nam lấy yếu tố hai nước cùng chung ý thức hệ nên phải liên kết lại, trong khi bỏ qua sự chỉ trích "bá quyền" và "bành trướng" của Trung Quốc được nhấn mạnh bấy lâu. Quan điểm này được thuật lại rõ ràng khi Lê Đức Anh sang Phnôm Pênh cuối năm 1990. Lê Đức Anh thông báo lại với bộ Chính trị Campuchia, bao gồm Thủ tướng Hun Sen, nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung là: "Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá chủ nghĩa cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Chúng ta (Việt Nam và Campuchia) phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc." Kể từ đó nhà nước Việt Nam càng đề cao cảnh giác diễn biến hòa bình trong khi củng cố liên hệ với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Theo phân tích của Lý Gia Trung (cựu Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam), việc Trung Quốc muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam là do các biện pháp trừng phạt của phương Tây sau vụ Thiên An Môn khiến Trung Quốc không còn tin tưởng vào các nước phương Tây nữa. Mối lo ngại ngày càng tăng của ASEAN về ý đồ của Trung Quốc trong khu vực cũng làm đe dọa đến khả năng kiểm soát kết quả giải quyết vấn đề Campuchia của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc biết rằng Việt Nam đang xúc tiến ngoại giao với Mỹ, Trung Quốc e ngại nếu tiếp tục duy trì sự thù địch thì sẽ đẩy Việt Nam xích lại gần hơn với Mỹ, về lâu dài điều này rất bất lợi cho Trung Quốc. Trong khi đó, việc nhà nước Việt Nam muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc xuất phát từ những nguyên nhân sau: Vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam khi đó là sự lạc hậu về kinh tế. Việt Nam bị Mỹ bao vây cấm vận, trong khi nguồn hỗ trợ chính là Liên Xô và các nước Đông Âu thì đang tan rã. Do vậy, việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có được đối tác kinh tế mới rất tiềm năng: Trung Quốc là đất nước rộng lớn (diện tích đứng thứ 3 thế giới, sau Nga và Canada) và đông dân nhất thế giới, có tiềm năng rất lớn để trở thành siêu cường kinh tế, lại là láng giềng của Việt Nam nên việc buôn bán hàng hóa rất thuận lợi. 10 năm chiến tranh tại biên giới Trung Quốc khiến Việt Nam hao tổn rất nhiều nhân lực và kinh tế. Ở thời điểm đó, thỏa hiệp với Trung Quốc để Việt Nam có thể tập trung phát triển là điều cần thiết. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ giúp chiến tranh ở biên giới chấm dứt. Sau 10 năm Chiến tranh biên giới Tây Nam, về cơ bản Việt Nam đã ổn định được tình hình Campuchia, nhưng Khmer Đỏ vẫn chưa bị tiêu diệt hết (phần lớn là nhờ sự giúp sức của Mỹ và Trung Quốc), lực lượng này vẫn có khả năng tiếp tục gây bất ổn tại Campuchia. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có thể yên tâm rút quân khỏi Campuchia, đồng thời mở ra cơ hội hợp tác với các nước ASEAN. Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ mở ra luôn cơ hội bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, do nước này luôn muốn tranh giành ảnh hưởng tại Đông Nam Á với Trung Quốc (thực tế về sau cho thấy chỉ 4 năm sau, Mỹ cũng đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam). Quá trình Trước Hội nghị Thành Đô một năm vào tháng 10 năm 1989, Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Cách mạng Nhân dân Lào kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào, khi sang thăm Trung Quốc có đề cập tới việc bình thường hóa bang giao Việt - Trung với Chủ nhiệm Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình. Đặng ra điều kiện, Việt Nam phải hoàn toàn rút quân khỏi Campuchia. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, dưới sự cố gắng của nhiều phía, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, tại phòng khách Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 16 tháng 8 năm 1990, Hoàng Nhật Tân, con trai Hoàng Văn Hoan, đến Đại sứ quán Trung Quốc gặp Trương Đức Duy để nhắn lời của Nguyễn Văn Linh, là muốn gặp trực tiếp phía lãnh đạo Trung Quốc. Ngày 21 Trương Đức Duy trực tiếp tới gặp Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, thay vì Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng bộ Ngoại giao vì thái độ chống Trung Quốc của ông Thạch. Duy ngỏ ý muốn nói chuyện thẳng với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Sáng ngày 22, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến với Trương Đức Duy tại Nhà khách Bộ Quốc phòng. Đến ngày 28, sứ quán Trung Quốc nhận được chỉ thị, là Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng thăm Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9 năm 1990. Do Á Vận Hội sắp cử hành ở Bắc Kinh, để tiện bảo mật, nên họ sắp xếp địa điểm hội đàm tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Đáng ghi nhận là Hà Nội không cử Nguyễn Cơ Thạch đi tham dự vì phải nhượng bộ Bắc Kinh vốn không chấp nhận lập trường của ông Thạch. Hội nghị diễn ra tại khách sạn Kim Ngưu, nội dung chính trong cuộc hội nghị là vấn đề giải quyết chính trị xung đột Campuchia và vấn đề khôi phục bình thường quan hệ Trung - Việt. Tuy Việt Nam nhấn mạnh liên minh Xã hội Chủ nghĩa khi hòa hoãn với Trung Quốc, Bắc Kinh coi cuộc gặp gỡ chủ yếu là buộc Việt Nam phải rút khỏi Campuchia. Bắc Kinh chỉ thay đổi lập trường khi Hoa Kỳ công bố sẵn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch lúc bấy giờ đang xúc tiến với Ngoại trưởng Mỹ là James Baker nhưng việc đó không thành tựu. Kết quả thực hiện sau Thành Đô Quân sự Sau hội nghị, Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia. Trung Quốc cũng rút quân khỏi một số khu vực tại biên giới 2 nước. Các xung đột quân sự tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc cũng chấm dứt. Vấn đề Campuchia Theo BBC, Bắc Kinh đã tiết lộ băng ghi âm cho thấy các nhà lãnh đạo Việt Nam đồng ý để cho lực lượng chống Hun Sen trong chính phủ liên minh mới chiếm ưu thế. Điều này đồng nghĩa với việc Hà Nội chấp nhận rút hẳn khỏi Campuchia. Từ đó Campuchia dần xa rời Việt Nam. Khi xem xét lại, đây chủ yếu là do sức ép của quốc tế do các quốc gia lớn dẫn đầu nêu trong Liên Hợp Quốc về việc họ cho là "Việt Nam xâm lược Campuchia " Trao đổi thương mại và nối lại ngoại giao Ngày 5 Tháng 11, 1991, tức hơn một năm sau cuộc họp ở Thành Đô, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày 7 Tháng 11, 1991, hiệp định mậu dịch Trung - Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh. Quan hệ Trung - Việt dần trở lại bình thường. Theo nhà phân tích ngoại giao Carl Thayer thì Việt Nam muốn tạo một liên minh quân sự giữa Bắc Kinh và Hà Nội nhưng đề nghị này bị Bắc Kinh bác bỏ. Lập trường của Bắc Kinh là hai nước có thể là "đồng chí nhưng không phải đồng minh". Ngược lại Bắc Kinh đòi Hà Nội phải đồng ý cho hồi hương người Hoa, nhượng bộ lãnh thổ, và hoàn trả những khoản nợ trước kia. Phía Việt Nam không chấp nhận những yêu cầu đó. Trong khuôn khổ bang giao Việt - Trung thì tháng 2 năm 1999, lãnh đạo Trung - Việt lại công bố "Tuyên bố chung", xác định phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nội dung có thể tóm lại thành 16 chữ vàng: "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện". Sau hội nghị, quan hệ ngoại thương giữa 2 nước được nối lại. Từ đầu thập niên 1990 tới nay, Trung Quốc luôn là khách hàng ngoại thương số 1 của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác số 1 của Trung Quốc tại vùng Đông Nam Á. Lãnh đạo 2 nước khẳng định quan hệ ngoại thương đã tiến triển rất nhanh, đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế của cả hai đất nước. Lập trường đối ngoại của Việt Nam Theo Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao, "kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là "Biên bản tóm tắt" gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn chứng), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc." Mặt khác Việt Nam cũng nỗ lực giao hảo với các nước lân bang trong khối ASEAN và phương Tây cho dù Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1992 vẫn đặt ưu tiên vào các nước cộng sản chủ nghĩa và coi Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên và Lào là những nước bạn thân hơn cả. Tuy vậy theo nhận xét của Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang dựa trên lịch sử Trung-Xô, Việt-Trung, và Việt-Miên thì kỳ vọng chấm dứt xung đột vì chung ý thức hệ là không thể xảy ra, vì những quốc gia kể trên tuy chung khối Xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn có những mâu thuẫn dẫn tới xung đột. Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, theo đúng như dự đoán của Việt Nam, tại Hoa Kỳ, phe ủng hộ quan điểm muốn bình thường hóa với Việt Nam cũng thắng thế. Ngày 29/9/1990, chỉ 3 tuần sau Hội nghị Thành Đô, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Baker tại New York. Ngày 11/11/1991, Chính phủ Hoa Kỳ chính thức cho phép khách du lịch, cựu chiến binh, nhà báo, doanh nhân Hoa Kỳ thăm Việt Nam. Ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Chính sách đối nội Về mặt đối nội lịch sử, chính quyền Việt Nam kể từ sau Hội nghị Thành Đô không nhắc nhiều đến Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 nữa. Truyền thông không loan tin nhiều về cuộc chiến, những hy sinh của những người đã nằm xuống cũng ít được nhắc tới. Về phía Trung Quốc, cuộc chiến hầu như không còn được nhắc đến trong các phương tiện truyền thông đại chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa lịch sử ở Trung Quốc Tại Trung Quốc, các phương tiện truyền thông gần như lãng quên nó, các tuyển tập bài hát không còn in các ca khúc nói về cuộc chiến, sách nghiên cứu viết về cuộc chiến với Việt Nam bị từ chối xuất bản, đa số cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến không muốn nhắc đến nó. Về phía Trung Quốc, việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam khiến một số tướng lĩnh, quân nhân từng tham chiến chống Việt Nam thấy khó chịu. Nhà văn quân đội Lý Tôn Bảo, tác giả cuốn "Vòng hoa dưới chân núi cao" viết về cuộc tấn công vào Việt Nam tháng 2/1979, phát biểu: "Xem tin Lý Bằng tiếp Võ Nguyên Giáp mà trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt. Giờ đây chúng ta phải xem xét lại xem có gây ra cuộc chiến tranh đó không? Chẳng những phần lớn sĩ quan binh lính dưới đơn vị không thông ngay cả một số tướng lĩnh cao cấp cũng không thông nổi". Sửa đổi Hiến pháp Hội nghị Thành Đô theo nhận xét của vài nhà chuyên môn thì đã tác động sâu rộng đến việc Việt Nam soạn lại cả hiến pháp. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980 đích danh lên án "bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược" nhưng Hiến pháp năm 1992 đã loại bỏ những câu từ mang tính chống Trung Quốc trong văn bản pháp lý của nhà nước. Đàm phán biên giới Sau hội nghị, do xung đột đã chấm dứt, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu tiến hành đàm phán để giải quyết vấn đề phân định biên giới. Hai bên đạt được các thỏa thận trên nguyên tắc vào năm 1993 để giải quyết các bất đồng, nhưng do sự thù địch giữa hai phía do cuộc chiến tranh 1979 để lại, cộng với cả một thập kỷ xung đột biên giới, khiến cho mãi tới năm 1999 hai bên mới đạt được những thỏa thuận cuối cùng. Những tin đồn Hiện thời chính phủ Việt Nam và báo chí nhà nước không công bố thông tin chi tiết về Hội nghị Thành Đô, đưa tới những tin đồn, chủ yếu xoay quanh những đồn đoán về sự ảnh hưởng của Trung Quốc vào hậu trường chính trị của Việt Nam. Trong những lời đồn đó có việc Trung Quốc làm áp lực với phía Việt Nam để Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải rời chức vụ. Theo đài RFA, Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang là người từng nhiều lần tiếp xúc với nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch cho là: "Trung Quốc đưa ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam thực tâm muốn bình thường, cải thiện quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì việc đầu tiên là Việt Nam phải loại bỏ Bộ trưởng Thạch...". Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cũng cho rằng: "Trung Quốc rất ghét Nguyễn Cơ Thạch cho nên nó mới ép phái đoàn của ta tại Thành Đô phải nhận điều đó. Phải gạt bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì nó mới bình thường hóa quan hệ." Theo thông tấn xã RFI của Pháp, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch vì bị Bắc Kinh coi là người cản trở việc bình thường hóa quan hệ Việt - Trung nên phải rút khỏi khỏi Bộ Chính trị năm 1991. Tuy nhiên, ngày 29/9/1990, 3 tuần sau Hội nghị Thành Đô, chính Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch được cử đi thực hiện nhiệm vụ quan trọng là gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Baker tại New York, bắt đầu việc đám phán bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Ông Vũ Dương Huân, nguyên là Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, khẳng định "Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người rất coi trọng nhân tố Trung Quốc, luôn mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc... Khoảng 2-3 tháng trước Đại hội VII (6/1991) có rộ lên tin tức là Trung Quốc đang tìm cách hạ bệ ông Thạch vì ông chống Trung Quốc. Nhưng thực tế là ông chủ trì Nghị quyết XIII, mà một trong những nội dung quan trọng là giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc." Ngày 2 Tháng 9, 2014, khoảng 20 cựu giới chức quân nhân gửi kiến nghị lên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu công bố những ký kết giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc mà đến nay vẫn là bí mật. Họ cho rằng những cam kết đó tổn hại đến chủ quyền đất nước. Ký tên trong lá thư ngỏ có Trung tướng Lê Hữu Đức, Thiếu tướng Trần Minh Đức, Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng Lê Duy Mật, Thiếu tướng Bùi Văn Quỳ, và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Cuối năm 2014, đài RFA đưa tin rằng Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã đã công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về "Kỷ Yếu Hội nghị" với những câu chữ như sau: "Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc." Đại tá Nguyễn Đăng Quang không tin vào những thông tin này, ông cho rằng: "Hoàn Cầu Thời báo nó tung ra để gây chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam với nhau thôi và gây phân hóa trong người dân Việt Nam với nhau. Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của Đảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu, bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó." Sau đó, Ban Tuyên giáo Trung ương Việt Nam đã có văn bản khẳng định: "Trong hội đàm, trao đổi không hề có vấn đề phía Trung Quốc gây sức ép với ta về nhân sự, không hề có cái gọi là sự thỏa thuận rằng: "Việt Nam sẽ thành khu tự trị thuộc Trung Quốc, giống như Nội Mông, Tân Cương và Quảng Tây vào năm 2020..." Đây là một luận điệu bịa đặt với ý đồ kích động, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và trong các tầng lớp nhân dân". Trả lời đài BBC, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói rằng nội dung về "khu tự trị" được lan truyền trên mạng "chắc chắn là không đúng". Ông nói: "Tôi đã đọc hồi ký của đồng chí Trần Quang Cơ (thứ trưởng Ngoại giao) thì chỉ có nói về việc (lãnh đạo hai nước) cãi nhau về việc rút quân ở Campuchia thôi...". Ông cho biết khi ông ký tên vào bản kiến nghị công khai nội dung về hội nghị Thành Đô thì ông cũng không tin vào thông tin phía Trung Quốc đưa ra và được lan truyền trên internet: "Chúng tôi hỏi là vì chúng tôi muốn lãnh đạo trả lời là hoàn toàn không có (việc chấp nhận làm khu tự trị của Trung Quốc). Đó chỉ là sự bịa đặt để gây nghi ngờ cho người Việt Nam thôi". Xem thêm Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam Chú thích Sách tham khảo Hoàng Dung. Sau bức màn đỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975. Falls Church, VA: Tiếng Quê Hương, 2007. Vuving, Alexander L. "Changing Synthesis of Strategies: Vietnam's China Policy since 1999" at the Yale University Council for Southeast Asia Studies Conference in New Haven, CT. November 11-12, 2005. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
VI_open-0000004354
News
Chi Tần bì hay còn gọi chi tần (tên khoa học: Fraxinus ) là một chi thực vật có hoa, và cũng như chi Ô liu và chi Tử đinh hương, thuộc họ Ô liu (Oleaceae). Nó bao gồm 45-65 loài, từ trung bình đến cây lớn, chủ yếu rụng lá theo mùa mặc dù một số loài nhiệt đới có lá xanh suốt năm. Chi cây này phổ biến rộng rãi trên nhiều nước châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ. Các tên gọi thông thường trong tiếng Việt là tần bì, tần hay tu chanh. Các loài Fraxinus americana L. Fraxinus angustifolia Vahl Fraxinus angustifolia subsp. oxycarpa (Willd.) Franco & Rocha Afonso Fraxinus angustifolia subsp. persica (Boiss.) Azadi Fraxinus angustifolia subsp. syriaca (Boiss.) Yalt. Fraxinus anomala Torr. ex S.Watson Fraxinus anomala var. triphylla M.E.Jones Fraxinus apertisquamifera H.Hara Fraxinus baroniana Diels Fraxinus berlandieriana A.DC. Fraxinus bornmuelleri Lingelsh. Fraxinus × borzae Georgescu & Tutunaru Fraxinus bungeana A.DC. Fraxinus caroliniana Mill. Fraxinus × cataubiensis Ashe Fraxinus chiisanensis Nakai Fraxinus chinensis Roxb.: Tần bì Trung Quốc, tần bì tàu, tần Trung Quốc Fraxinus chinensis subsp. rhynchophylla (Hance) A.E.Murray: Tần bì lá mũi, tần lá có mũi, khổ lịch bạch lạp thụ. Fraxinus cuspidata Torr. Fraxinus depauperata (Lingelsh.) Z.Wei Fraxinus dimorpha Coss. & Durieu Fraxinus dipetala Hook. & Arn. Fraxinus dubia (Willd. ex Schult. & Schult.f.) P.S.Green & M.Nee Fraxinus excelsior L. Fraxinus excelsior subsp. coriariifolia (Scheele) A.E.Murray Fraxinus ferruginea Lingelsh. Fraxinus floribunda Wall.: Tu chanh Fraxinus gooddingii Little Fraxinus greggii A.Gray Fraxinus greggii var. nummularis (M.E.Jones) Little Fraxinus griffithii C.B.Clarke: Tần bì Griffith, tần Griffith Fraxinus hookeri Wenz. Fraxinus hubeiensis S.Z.Qu, C.B.Shang & P.L.Su Fraxinus × hybrida Lingelsh. Fraxinus insularis Hemsl.: Tần bì duyên hải, tu chanh Fraxinus × josephi Sennen Fraxinus lanuginosa Koidz. Fraxinus latifolia Benth. Fraxinus longicuspis Siebold & Zucc. Fraxinus malacophylla Hemsl. Fraxinus mandshurica Rupr. Fraxinus micrantha Lingelsh. Fraxinus nigra Marshall Fraxinus odontocalyx Hand.-Mazz. ex E.Peter Fraxinus ornus L. Fraxinus ornus subsp. cilicica (Lingelsh.) Yalt. Fraxinus pallisae Wilmott Fraxinus papillosa Lingelsh. Fraxinus parryi Moran Fraxinus paxiana Lingelsh. Fraxinus pennsylvanica Marshall Fraxinus platypoda Oliv. Fraxinus potosina Brandegee Fraxinus pringlei Lingelsh. Fraxinus profunda (Bush) Bush Fraxinus punctata S.Y.Hu Fraxinus purpusii Brandegee Fraxinus purpusii var. vellerea (Standl. & Steyerm.) P.S.Green Fraxinus quadrangulata Michx. Fraxinus raibocarpa Regel Fraxinus reflexiflora Lundell Fraxinus × rehderiana Lingelsh. Fraxinus rufescens Lingelsh. Fraxinus sieboldiana Blume Fraxinus sogdiana Bunge Fraxinus stylosa Lingelsh. Fraxinus suaveolens W.W.Sm. Fraxinus texensis (A.Gray) Sarg. Fraxinus trifoliolata W.W.Sm. Fraxinus uhdei (Wenz.) Lingelsh. Fraxinus velutina Torr. Fraxinus xanthoxyloides (G.Don) Wall. ex A.DC. Tham khảo Cây thuốc Fraxinus Cây
VI_open-0000004360
Pets_and_Animals
Tẩy chay hàng Trung Quốc hay Không dùng hàng Trung Quốc, là một làn sóng phản đối các loại hàng hóa hoặc dịch vụ được sản xuất hay cung cấp có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc của người tiêu dùng nhiều nơi trên thế giới. Nguyên nhân Chất lượng kém và có mang nhiều hóa chất độc hại là nguyên nhân đầu tiên để người tiêu dùng tẩy chay các mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc. Có nhiều thông tin cho rằng việc Trung Quốc sản xuất hàng chất lượng kém là do xuất phát từ nhu cầu của người dùng muốn mua hàng giá rẻ trên thế giới. Nguyên nhân tẩy chay hàng Trung Quốc còn xuất phát từ sự tranh chấp biên giới về lãnh thổ, lãnh hải với nước này với các nước Ấn Độ , Việt Nam , và Philippines . Trung Quốc hay làm giả các thương hiệu lớn. Tẩy chay ở các nước Australia Trong bối cảnh căng thẳng thương mại leo thang giữa Úc và Trung Quốc trong Đại dịch COVID-19, một cuộc khảo sát được thực hiện bởi YouGov đã báo cáo rằng 88% người Úc muốn tẩy chay các sản phẩm Trung Quốc và ủng hộ các doanh nghiệp địa phương. Năm 2019, các công ty Úc đã ngừng nhập khẩu bông có nguồn gốc từ tỉnh Tân Cương của Trung Quốc sau khi các báo cáo về lạm dụng nhân quyền trong các trại lao động cưỡng bức được đưa ra ánh sáng. Ấn Độ Vào tháng 5 năm 2020, để đáp lại các cuộc giao tranh Trung Quốc–Ấn Độ 2020, vị kỹ sư, nhà giáo dục và nhà đổi mới Ấn Độ Sonam Wangchuk đã kêu gọi người Ấn Độ "sử dụng sức mạnh ví tiền của bạn" và tẩy chay các sản phẩm Trung Quốc. Ông kêu gọi Ấn Độ "ngừng sử dụng phần mềm Trung Quốc trong một tuần và phần cứng trong một năm". Lời kêu gọi này đã được các phương tiện truyền thông lớn và nhiều nhân vật nổi tiếng Ấn Độ ủng hộ. Việt Nam Ngay khi đang xảy ra Vụ giàn khoan Hải Dương 981, từ giữa năm 2014 cộng đồng mạng người Việt cũng có phong trào kêu gọi tẩy chay hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc. Nhiều trang mạng được lập ra kêu gọi tẩy chay và nhiều người dùng đã thay đổi hình ảnh đại diện là quốc kỳ Việt Nam và biểu tượng tẩy chay hàng Trung Quốc. Một vài khách sạn tại Việt Nam từ chối nhận khách Trung Quốc, vài cửa tiệm không bán hàng Trung Quốc và du khách Việt đua nhau hủy tour đi du lịch Trung Quốc.. Philippines Ở Phillipines, các phong trào liên quan đến việc tẩy chay hàng hóa làm ở Trung Quốc (""Boycott Made-in-China") được phát động mạnh mẽ bởi các nhóm hoạt động khác nhau từ khi Trung Quốc can thiệp vào Bãi cạn Scarborough. Tây Tạng Giáo sư Thupten Norbu, anh trai Đạt-lai Lạt-ma kêu gọi chiến dịch tẩy chay hàng hóa Trung Quốc sẽ được sự tự do yêu thương của nhiều người trên Trái Đất để buộc Trung Quốc phải các quyền và sự độc lập của Tibet. Kết quả Ảnh hưởng kèm theo Ý kiến khác Có những ý kiến khác nhau kêu gọi không nên kỳ thị và 'bài' người Trung Quốc theo kiểu này, và theo nhận xét của nguyên tổng giám đốc Jetstar Pacific Airlines và nay là giám đốc điều hành Air Mekong Lương Hoài Nam nhận xét: "...thấy nhiều người kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc. Nhưng chưa thấy nhà nào mang TV, tủ lạnh, máy giặt, lò nướng, laptop, iPhone, iPad... lắp linh kiện Trung Quốc quẳng ra đường và những lời kêu gọi được gõ ngay trên các bàn phím sản xuất ngay ở Trung Quốc", ông Nam kêu gọi các đài truyền hình trên cả nước hãy dừng chiếu những bộ phim dài tập về lịch sử Trung Hoa. Xem thêm Chủ nghĩa bài Trung Quốc Đọc thêm Pula, Gabor & Santabárbara, Daniel. Is China climbing up the quality ladder? Estimating cross country differences in product quality using Eurostat's COMEXT trade database Chú thích Liên kết ngoài Low-quality Chinese products prevalent in Sana'a markets, lure consumers with price , Yemen Times. Những lý do từ chối gần 7.000 tỷ đồng ODA Trung Quốc. Tẩy chay Kinh tế Trung Quốc Kinh tế thế giới Chính sách thương mại quốc tế Quan hệ đối ngoại của Trung Quốc
VI_open-0000004364
People_and_Society
Sosthenes (tiếng Hy Lạp Σωσθένης, mất năm 277 TCN) là một vị tướng người Macedonia và có thể là một vị vua của triều đại Antipatros. Trong suốt triều đại của Lysimachos, ông là thống đốc của ông ta ở Tiểu Á. Sosthenes được quân đội Macedonia tôn lên làm vua, nhưng ông có thể hoặc đã không đã cai trị như một vị vua. Tự xưng là strategos, ông có thể đã từ chối tước hiệu vua bởi vì ông không có dòng máu hoàng tộc. Trong suốt triều đại của mình, ông đã phải đối mặt với những người Galatia xâm lược, Antigonos II Gonatas và các đối thủ khác. Ông đã đánh bại Bolgius, một trong những thủ lĩnh người Galatia xâm lược đầu tiên nhưng ông cũng đã sớm phải đối mặt với một cuộc xâm lược khác của Brennus vào mùa hè năm 279 TCN. Antigonos II Gonatas đã cố gắng xâm chiếm Macedonia từ châu Á vào năm 278 nhưng đã bị đánh bại bởi Sosthenes. Chú thích Tham khảo Vua Macedonia Vua Macedonia thế kỷ 3 TCN Mất năm 277 TCN
VI_open-0000004366
News
Nga Thanh (chữ Hán: 娥清, ? - ?) người quận Đại , dân tộc tiên Ti, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy. Cuộc đời và sự nghiệp Thời Minh Nguyên đế Thanh sớm tỏ ra có tài làm tướng, lập nhiều chiến công, dần làm đến Chấn uy tướng quân. Tướng Đông Tấn là Chu Siêu Thạch xâm phạm Bình Nguyên, đến Bạn Thành thì quay về. Thanh cùng Bạt Bạt Đạo Sanh đuổi theo, đến Hoàng Hà, bắt được bộ tướng của Siêu Thạch là Dương Phong. Sau khi trở về, được bái làm Cấp sự hoàng môn thị lang. Trước đó, người bộ lạc Đồ Hà tản cư khắp 3 châu, gây hại cho dân địa phương. Có Chiếu sai Thanh dời họ đến Bình Thành. Thanh giỏi vỗ về, di dân cảm thấy như về quê hương. Minh Nguyên đế nam tuần đến Nghiệp, lấy Thanh làm Trung lĩnh quân tướng quân, cùng bọn Tống binh tướng quân Chu Ki kinh lược đất Độ Hà. Đến Hồ Lục, dân Cao Bình đồn tụ nơi rừng, chằm, bắn vào quan quân, bọn Thanh nhân đó giết vài ngàn gia đình, bắt sống hơn vạn nhân khẩu. Được ban tước Tu Xương hầu. Thanh cùng bọn Ki bèn trấn thủ Phương Đầu. Thời Thái Vũ đế Đầu thời Thái Vũ đế, Thanh từ Phương Đầu về kinh sư, được làm Giả chinh nam tướng quân, tiến tước Đông Bình công. Nhu Nhiên khả hãn Đại Đàn di cư sang Mạc Nam, Thanh cùng Bình Dương vương Bạt Bạt Hàn từ đông đạo ra Trường Xuyên đánh dẹp, đại thắng trở về. Được chuyển làm Tông Chánh khanh. Sau đó tòng chinh Nhu Nhiên. Lại tham gia đánh nước Hạ, rồi cùng Đạt Hề Cân đuổi theo Hách Liên Xương đến An Định, cùng Xương giằng co. Đến khi An Hiệt bắt Xương, em Xương là Định chạy về phía tây, Cân đuổi theo. Thanh muốn theo đường thủy, Cân không nghe, nên cùng Cân bị Định bắt sống. Quân Ngụy hạ Bình Lương, bọn Thanh được giải thoát. Sau đó có chiếu sai Thanh trấn thủ Tịnh Châu, đánh dẹp thủ lĩnh Sơn Hồ là Bạch Long ở Tây Hà, chém cha của Bạch Long cùng tướng soái của ông ta, rồi đồ thành. Được thăng làm Bình đông tướng quân, cùng bọn Thổ Hề Bật đông tiến đánh nước Bắc Yên. Bọn Thanh không đánh gấp, để Phùng Hoằng chạy thoát sang Cao Ly, nên bị bỏ xe tù đưa về kinh, truất làm lính giữ cửa. Thanh mất ở nhà, không rõ khi nào. Con là Duyên, làm đến Tán kỵ thường thị, Nam Bình công. Tham khảo Ngụy thư quyển 30, liệt truyện 18 – Nga Thanh truyện Bắc sử quyển 25, liệt truyện 13 – Nga Thanh truyện Chú thích Tướng nhà Bắc Ngụy Người Sơn Tây (Trung Quốc) Năm sinh không rõ Năm mất không rõ
VI_open-0000004367
People_and_Society
Mùa giải 1884-1885 là mùa giải bóng đá thứ hai của câu lạc bộ Newton Heath LYR. Sau khi tham gia Lancashire Cup lần đầu tiên vào năm trước, Newton Heath LYR đã lọt đến vòng thứ hai ở mùa này. Tuy nhiên, mùa giải này là lần cuối cùng câu lạc bộ tham gia cho đến năm 1889. Đội bóng cũng chơi ở giải Manchester và District Challenge Cup lần đầu tiên vào năm 1885, và tìm thấy thành công nhiều hơn trong giải Lancashire Cup; Đội bóng lọt vào chung kết lần đầu tiên, nơi họ thua 3-0 bởi đội bóng Hurst. Ngoài trận chung kết, Đội bóng ghi được ba bàn thắng hoặc nhiều hơn trong mỗi vòng của cuộc thi. Lancashire Cup Đội bóng tham gia giải Lancashire Cup lần đầu tiên và Đội bóng bị Blackburn Olympic dễ dàng đánh bại mặc dù chơi với đội hình dự bị. Mùa giải 1884-1885, Newton Heath LYR gặp Haydock Temperance ở vòng 1, Đội bóng được chơi tại sân nhà North Road. Trận đấu này, Đội bóng đã giành chiến thắng 4-0 và thiết lập một cuộc đụng độ với Baxenden vào tháng sau. Tuy nhiên, Baxenden chứng tỏ là đối thủ khó khăn hơn Haydock và đánh bại Newton Heath LYR với tỷ số 4-1. Manchester và District Senior Cup Mùa giải 1884–85 của Manchester Cup là bước đột phá đầu tiên Newton Heath trong cuộc cạnh tranh. Giải đấu dành cho các đội trong và xung quanh khu vực Manchester, quy mô hẹp hơn so với Lancashire Cup, do đó hạn chế số lượng các đội mạnh mà Newton Heath sẽ chống lại họ. Mặc dù ít tham vọng từ câu lạc bộ, giải đấu này cũng mang đến cho Đội bóng một cơ hội nhiều khả năng có thành tích ấn tượng. Đối thủ đầu tiên của Đội bóng trong giải đấu là Eccles, Đội bóng mà Newton Heath đánh bại 3-2 tại North Road vào ngày 31 tháng 5 năm 1885. Tuy nhiên, Eccles kêu gọi chống lại kết quả trận đấu, họ tuyên bố rằng bàn thắng thứ ba của Newton Heath là không hợp lệ và không khuất phục. Trận đấu đã được tái hiện hai tuần sau đó tại Henrietta Street - Old Trafford, là sân nhà của câu lạc bộ Hiệp hội Manchester. Lần này, Newton Heath thắng trận 3-0, đưa ra kết quả chắc chắn. Ở vòng thứ hai, Đội bóng được đọ sức với ứng cử viên cho chiếc cúp là đội Manchester. Tuy nhiên, mặc dù là đội chủ nhà, Manchester đã không thể khuất phục trước Newton Heath, Đội bóng đã loại bỏ họ với tỷ số 3-0. Các cầu thủ của Newton Heath ghi bốn bàn thắng trong trận bán kết với Owens College (sau này trở thành trường Đại học Manchester), với chiến thắng 4-3 để đưa Đội bóng lần đầu tiên vào vòng đấu cuối cùng. Đối thủ trong trận chung kết là đội Hurst, diễn ra tại sân Whalley Range ở phía nam Manchester. Những người ngoại đạo bước vào trận đấu với hy vọng cao, với những chiến thắng ấn tượng trong các vòng trước đó, nhưng cuối cùng Đội bóng thất bại với tỷ số 3-0. Tham khảo 1884–85
VI_open-0000004369
Sports
Địa chấn khúc xạ (Seismic Refraction) là một phương pháp của Địa vật lý Thăm dò, phát sóng địa chấn vào môi trường và bố trí thu trên mặt các sóng thứ cấp phát sinh do khúc xạ sóng ở các tầng đất đá dưới sâu, từ đó xác định được phân bố tốc độ truyền sóng và các ranh giới địa chấn, giải đoán ra cấu trúc địa chất và tính chất, trạng thái, thành phần của đất đá. Phương pháp được sử dụng trong tìm kiếm dầu khí, khảo sát địa chất công trình, địa chất tổng quát, tìm nước ngầm, tìm kiếm khoáng sản,... trên đất liền và trên biển gần bờ. Tại nhiều nước nó là thành phần không thể thiếu để khảo sát công trình xây dựng thủy điện. Lịch sử phương pháp Địa chấn khúc xạ là phương pháp Địa chấn ra đời đầu tiên, vào năm 1914. Khi xem xét sự lan truyền sóng động đất, người ta thấy nó phản ánh độ sâu của nền móng kết tinh của bể trầm tích chứa dầu khí. Từ đó, việc chuyển sang dùng vụ nổ nhân tạo để kích thích sóng, và hệ lý thuyết phương pháp để phân tích giải đoán tài liệu ra đời. Đến những năm 1950 thì Địa chấn khúc xạ được sử dụng vào khảo sát địa chất công trình, để xác định độ sâu và tốc độ truyền sóng các lớp đất đá, do tham số này có liên quan chặt chẽ với tham số cơ lý đá. Các tiến bộ kỹ thuật trong chế tạo thiết bị và phần mềm xử lý làm cho phương pháp ngày càng rẻ hơn, có mặt nhiều hơn trong khảo sát địa chất công trình và tìm kiếm khoáng sản. Tuy nhiên trong tìm kiếm dầu khí thì Địa chấn phản xạ đã thế chỗ của nó. Lý thuyết cổ điển Đất đá dưới sâu bị nén và rắn chắc hơn các lớp phủ, nên đa phần có tốc độ truyền sóng cao hơn. Tại những nơi đất đá chia lớp có thành phần hay trạng thái khác hẳn nhau, như bùn đất phủ lên đá núi, trầm tích trẻ phủ lên móng đá kết tinh,... thì tốc độ truyền sóng thay đổi nhảy bậc, từ V1 ở lớp phủ, lên V2 ở lớp dưới, với V2>>V1. Những ranh giới thường gọi là ranh giới rõ hay ranh giới tương phản cao. Khi phát sóng địa chấn tại điểm nguồn (SP, Source Point), sóng xâm nhập môi trường V2, nó sẽ lan truyền nhanh hơn môi trường V1. Theo Nguyên lý Huygens-Fresnel, các rung động ở môi trường V2 sẽ kích thích rung động ở môi trường V1, tạo ra sóng thứ cấp gọi là sóng đầu (Head Wave), lan truyền lên mặt đất và thu nhận được tại các điểm thu (Geophone Point, GP). Dùng biểu diễn kiểu Tia sóng, thì khi tia tới trong môi trường V1 đạt góc tới hạn , với thì tia khúc xạ trong môi trường V2 sẽ chạy dọc ranh giới, gọi là Tia sóng trượt, còn các tia của sóng đầu thì song song với nhau. Sự song song này dẫn đến biểu đồ sóng (còn gọi là biểu đồ thời khoảng, Travel Time Diagram) có dạng đường thẳng. Ví dụ một mẫu môi trường 3 lớp sẽ cho ra: Sóng trực tiếp Khúc xạ từ lớp thứ hai hay lớp trung gian Khúc xạ từ lớp nền (Bed rock) Biểu đồ của sóng khúc xạ bắt đầu từ Điểm tới hạn (Critical Point) ở khoảng cách tới hạn (Critical Distance), và cắt trục thời gian tại t0, là thời gian tiếng vang tại điểm nguồn (Intercept Time). Các biểu đồ giao nhau tại các điểm cắt (Crossover Point) ở khoảng cách lộ sóng (Crossover Distance) tương ứng. Các biểu thức biều đồ nói trên là cơ sở để tính tốc độ và độ sâu ranh giới trong lớp phủ tại vùng gần SP trong các quan sát khúc xạ và thí nghiệm địa chấn/siêu âm đa kênh ở thành hố khoan/hầm lò. Việc xác định biểu đồ sóng nói trên thuần túy theo hình học địa chấn, với giả định nguồn sóng có dạng xung Dirac δ tại t=0. Trong thực tế do các phone thu nhận tốc độ và gia tốc dịch chuyển của hạt đất đá, nên tín hiệu sóng bị mất phần tần số thấp, còn sự hấp thụ dao động làm nó mất phần tần số cao, tức là có băng tần hữu hạn. Tín hiệu sóng chứa vài kỳ dao động và được đặc trưng bởi xung sóng w(t) (Wavelet). Phần lớn trường hợp quan sát thực hiện với sóng dọc P. Trong thí nghiệm địa chấn/siêu âm cần quan sát cả sóng dọc và sóng ngang. Vạch sóng Các quan sát từ GP được tập hợp thành băng ghi để nhận diện bản chất sóng và thực hiện vạch sóng, nhằm xác định thời gian truyền sóng và lập ra biểu đồ sóng thực tế, phục vụ các phân tích. Sự giao thoa sóng làm cho trong thực tế địa chấn khúc xạ trên mặt đất thường chỉ vạch được các sóng đầu tiên (First Break). Trước đây thường thực hiện vạch sóng theo cực trị dao động (Extremum Picking), và gọi chúng là trục đồng pha. Thông thường các trục đồng pha theo các cực trị cũng như theo vạch đầu sóng luôn gần song song với nhau. Vì thế sau khi vạch theo pha, thì tìm các kênh hiện rõ đầu sóng sẽ xác định được lượng dịch từ pha về đầu sóng. Nhờ vậy vạch theo cực trị cho phép thu được số liệu tin cậy từ các băng ghi bị nhiễu. Tuy nhiên các phần mềm hiện đại, như SeisImager, bố trí trình PickWin chỉ hỗ trợ vạch đầu sóng và đặt đòi hỏi băng ghi phải có chất lượng cao, hiện rõ đầu sóng. Nếu chất lượng đo ghi thấp thì sẽ bị lỗi. Việc vạch sóng ngang đương nhiên phải theo cách vạch cổ điển, theo cực trị và từ đó xác định đầu sóng. Phương pháp liên kết sóng khúc xạ Đo ghi thực hiện theo hệ quan sát thiết kế trước với các SP nằm ở hai phía các GP sao cho sóng của ranh giới quan tâm, thường là mặt nền, lộ ra ở First Break, và tạo ra được các cặp biểu đồ sóng đuổi nhau (Pursuing) và giao nhau (Crossing). Sự song song của biểu đồ đuổi dẫn đến việc dịch chuyển (Phantom) các biểu đồ này về nối vào biểu đồ của SP nằm ở đầu mút tuyến thành biểu đồ suy rộng. Đây là lý do phương pháp được gọi là Liên kết sóng. Trước đây hệ quan sát thường nêu theo số SP, ví dụ hệ quan sát 5 điểm nguồn, nêu rõ về số lần đo ghi trên chặng mỗi đo. Trong thăm dò dầu khí hoặc nghiên cứu địa vật lý khu vực, các SP cách nhau cỡ 50 – 200 km, nên việc thi công đoạn tuyến giữa 2 SP kéo dài với nhiều chặng đo. Lúc bắt đầu ứng dụng vào thăm dò mỏ/địa chất công trình, số kênh đo của máy ghi địa chấn chưa nhiều, nên việc dùng diễn đạt "hệ quan sát 5 SP" cho đoạn đo 115m với 24 kênh thu giãn cách 5m đã thành thói quen. Ngày nay trong thăm dò mỏ/địa chất công trình, khi dùng máy ghi địa chấn có số kênh lớn thì diễn đạt hệ quan sát theo số SP không còn thích hợp. Việc bố trí số SP tùy theo độ sâu cần khảo sát và độ dài của chặng máy, sao cho đảm bảo yêu cầu: Có 2 SP chính nằm ở đầu mút. và các SP còn lại với giãn cách cỡ 50 - 70m (tùy theo tình trạng lớp phủ) để cung cấp tốc độ và ranh giới trung gian của lớp phủ. Tại mỗi phía của chặng máy có 1 - 2 SP xa, với offset đủ xa để sóng từ mặt nền lộ ra ở sóng đầu tiên, tức là phải lớn hơn Crossover Distance của nó. Xử lý phân tích Kết quả vạch sóng tập hợp thành biểu đồ sóng, xem xét từng SP để nhận biết có bao nhiêu ranh giới và hiện ra ở đoạn nào. Tính tốc độ V1, V2 và độ sâu các ranh giới trung gian, và tốc độ trung bình của lớp phủ Vm, thường tính bằng điểm cắt (Crossover Point) của sóng nền: với lc là offset điểm cắt, tc là thời gian tại đó. Liên kết thành biểu đồ suy rộng: Xác định các đoạn song song của biểu đồ đuổi của sóng từ mặt nền (Compare) và thực hiện dịch chuyển (Phantom) vào vị trí của SP tại đầu mút tuyến. Kết quả phải thu được biểu đồ đầy đủ tA, tB. Tính các đường Biểu đồ hiệu θ = tA - tB + TAB (θ theo văn liệu Nga và Việt, Tv theo văn liệu phương tây), và t0= tA + tB - TAB, trong đó TAB là thời gian tương hỗ, tức thời gian truyền từ A đến B hoặc ngược lại. Tốc độ truyền sóng theo ranh giới nền được tính ở biểu đồ θ, là V = 2 Slope[x,θ], trong đó Slope() là hàm tính độ dốc của MS Excel. Trong thực tế nó chia thành các đoạn có góc dốc khác nhau, và Vb tính riêng cho từng đoạn để gán cho đoạn ranh giới nền. Các đoạn tốc độ thấp thể hiện đất đá ở ranh giới nền bị phá hủy do đứt gãy hoặc phong hóa. Theo phương pháp (hay Plus-minus method) ranh giới nền tính theo Về hình học địa chấn, là tổng thời gian truyền theo 2 tia EX và FX trừ thời gian của đoạn EF. Thực tế cho thấy phương pháp t0 cho kết quả sai khi mặt nền phân cắt hoặc tốc độ sóng thay đổi nhiều. Phương pháp Tia sóng tương hỗ tổng quát (Generalized Reciprocal Method, GRM) thực hiện dò tìm các tia DM và DN từ điểm chung D trên ranh giới, bằng cách tính với các khoảng MN khác nhau. Tìm ra MN optimal khi Tv trơn tru nhất và dáng điệu tiểu tiết của các Tv còn lại đối nhau qua Tv optimal. Tốc độ Vb được tính theo Tv optimal này. Làm tương tự cho tìm TG optimal để tính độ sâu. Địa chấn khúc xạ theo công nghệ Tomography Trong thực tế khảo sát nông thì môi trường không được đẹp như lý thuyết nói trên. Tốc độ truyền sóng biến đổi lung tung từ chỗ này sang chỗ khác, kể cả trong đá nền, nên các biểu đồ đuổi không song song với nhau, gây khó cho phép xử lý và giải thích tài liệu. Theo trào lưu giải "mặt cắt ảnh" (Imaging) của các phương pháp địa vật lý vào cuối những năm 1990, cũng như xử lý những tồn tại nói trên, việc nghiên cứu sự truyền sóng với các tia xuyên qua khối đá gốc được đặt ra. Nó dẫn đến việc từ bỏ khái niệm hình thức "tia sóng trượt", và phép giải ngược theo Tomography ra đời, cho ra kết quả xử lý là ảnh phân bố tốc độ truyền sóng, thường được gọi là Ảnh địa chấn (Seismic Imaging). Phần mềm SeisImager hiện dùng phổ biến ở Việt Nam có menu Tomography. Tuy nhiên nó dựa trên giả định tốc độ truyền sóng tăng theo độ sâu, nên dù đã chia lớp tỷ mỷ và sử dụng phần mềm có bản quyền, kết quả vẫn khó hiện ra các đới phá hủy. Phần mềm mới hơn, như SeisTomo giải quyết được vấn đề phân bố tốc độ tốt hơn, làm hiện ra các đới đảo tốc độ trong vùng có đứt gãy hay phong hóa. SeisTomo cũng cho phép đặt trực tiếp quan sát trong hố khoan vào cơ sở dữ liệu để xử lý đồng thời. Dẫu vậy cần để ý rằng Tomography giả định tốc độ truyền sóng thay đổi liên tục, nên nó không cho ra độ sâu các ranh giới rõ có tốc độ truyền sóng nhảy bậc. Việc xác định các ranh giới này vẫn phải thực hiện theo phương pháp cổ điển. Việc thực hiện đo theo công nghệ Tomography cần chú ý: Tại mỗi đoạn quan tâm thì SP xa phải đủ xa (tức offset đủ lớn), để tia sóng tương ứng thấm đủ sâu vào lòng đất. Độ sâu thấm ước khoảng 10-20% offset. Không thực hiện Phantom để kéo dài biểu đồ sóng. Số kênh đo đồng thời phải lớn, cỡ 96 kênh trở lên. Tiềm năng công nghệ này cho phép khảo sát các hầm qua núi, tránh được sự ngoại suy kết quả từ phần đỉnh núi xuống. Tham khảo Xem thêm Địa chấn phản xạ Địa chấn chiếu sóng Liên kết ngoài Địa chấn học Địa vật lý thăm dò Địa vật lý Khoa học Trái Đất
VI_open-0000004370
Science
Sân bay Vân Cương Đại Đồng () là một sân bay phục vụ tại thành phố Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Nó nằm ở phía bắc của thị trấn Bội Gia Tạo ở huyện Đại Đồng, cách trung tâm thành phố 15,2 km. Sân bay Vân Cương Đại Đồng bắt đầu được xây dựng vào năm 2001 với tổng vốn đầu tư là 290 triệu nhân dân tệ, và được mở cửa vào tháng 1 năm 2006. Sân bay này hiện đang được mở rộng. Tên ban đầu của nó là Sân bây Bội Gia Tạo Đại Đồng (大同倍加皂机场), nhưng sau đó được đổi tên thành Vân Cương Đại Đồng vào tháng 8 năm 2012, theo tên của Hang đá Vân Cương, một di sản thế giới và địa điểm thu hút du lịch nổi tiếng nằm gần đó. Hãng hàng không và tuyến bay Xem thêm Sân bay Hoài Nhân Đại Đồng Danh sách các sân bay ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Danh sách các sân bay bận rộn nhất Trung Quốc Tham khảo Vân Cương Đại Đồng
VI_open-0000004371
Travel_and_Transportation
Phố cổ Thành Nam hay phố cổ Nam Định là khu vực gồm các phố xá buôn bán nằm giữa sông Vị Hoàng xưa và hai mặt tường thành phía Đông và phía Nam của thành Nam Định. Nếu như Hà Nội xưa có lên tới 70 phố thì thành phố Nam Định cũng có đến hơn 40 phố cổ. Tuy nhiên, khác với các phố cổ Đồng Văn, Phố Hiến, phố cổ Hội An, phố cổ Hà Nội đều đã được xếp hạng di tích quốc gia thì phố cổ Thành Nam vẫn chưa được xếp hạng di tích, các di tích & nhà cổ đang xuống cấp nghiêm trọng và biến mất từng ngày. Lịch sử Thành phố Nam Định có bề dày lịch sử hơn 750 năm, với sự kiện vào tháng 2 năm 1262, vua Trần Thánh Tông đã đổi hương Tức Mạc là quê hương của nhà Trần làm phủ Thiên Trường, đặt quan đứng đầu phủ (An phủ sứ) là Trần Thì Kiến, lập Hành đô Thiên Trường, xây các cung Trùng Quang và Trùng Hoa. Nay đất Hành đô Tức Mạc xưa thuộc phường Lộc Vượng, một trong 20 phường của thành phố Nam Định. Nhà Trần suy vong, tại phủ Thiên Trường nhiều người thuộc dòng họ Trần phải thay tên, đổi họ, phiêu tán đi khắp nơi, sở lỵ hành chính của Hành đô Thiên Trường cũng không còn, cung điện đền đài thành hoang phế. Nhưng dân chúng ở quanh khu vực này vẫn có cuộc sống khá sôi động. Đến nhà Lê sơ trị vì thì kho lương bên sông Vị đã trở thành quân doanh Vị Hoàng. Doanh Vị Hoàng không những là kho lương thảo mà còn là một doanh trại lớn. Sang thời Mạc, nhiều lần và thường xuyên quân nhà Mạc (Bắc triều) tập trung tại đây để chuẩn bị cho mỗi khi tiến quân đánh nhà Lê trung hưng phục dựng ở Thanh Hóa (Nam triều). Nhà Mạc thất thế chạy lên biên giới Cao Bằng, thì quân doanh Vị Hoàng lại là nơi triều đình Lê-Trịnh (Đàng Ngoài) tập trung lương thảo, vũ khí, chiến thuyền, quân lính cho những lần hành quân chinh phạt chúa Nguyễn (Đàng Trong). Do đó Thành Nam đã vượt lên trên Phố Hiến là chốn đô hội chỉ sau kinh thành Thăng Long. Vua Gia Long lên ngôi, chuyển lỵ sở của trấn Sơn Nam Hạ từ Vân Sàng (nay thuộc Ninh Bình) về Vị Hoàng, cho dời quân doanh từ đất làng Vị Hoàng vào đất làng Năng Tĩnh, đến vua Minh Mạng cho xây thành gạch. Dân chúng làm ăn sinh sống quanh thành Vị Hoàng có từ thời Lê sơ ngày một thêm đông. Đời sống thị dân quanh thành Nam Định ngày một sung túc. Nhiều người làm nghề thủ công và buôn bán đến đây lập nghiệp, họ lập ra các phường nghề. Một số từ Thăng Long đi xuống, một số từ các làng nghề ở các miền quê khác tập trung đến sống quanh thành. Trên bờ sông Vị Hoàng, những người buôn bán một mặt hàng thường dựng nhà sát bên nhau thành một dãy để cùng buôn bán. Nơi bán mặt hàng nào thì được gọi là phố hàng ấy, nên các phố ven bờ sông Vị có trước. Các khu phố cổ Thành phố Nam Định có 35/38 phố Hàng, 4 phố Bến, 4 phố Cửa trong các phố trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Về các phố cổ xưa dân phố buôn bán, sản xuất mặt hàng gì thì phố mang tên mặt hàng đó. Trên đường phố dài có thể có nhiều phố Hàng. Ở phía đông trên bờ sông Vị, dân thôn Thi Thượng làng Vị Hoàng lập ra dãy phố ở ven sông cho người buôn bè: luồng, nứa, tre, đan cót, bồ, sọt, thúng… đặt thành phố Hàng Cót, rồi Hàng Nâu (củ nâu nhuộm vải). Người Bát Tràng ở Gia Lâm đưa hàng xuống bán thì lập Hàng Bát, các phố tiếp theo là Hàng Mâm (mâm gỗ, chòng tre), Hàng Song (song, mây, lá gồi), cuối thế kỷ 19 các phố này có tên chung là phố Vinh Thuận, sau khi Pháp chiếm thành đặt là Protectorat (nay là phố Minh Khai). Tiếp đến Hàng Sắt Trên, Pháp gọi là Rue du Fer, còn phố Hàng Sắt Dưới (phố Đỗ Xá), đặt là Poterie. Phố này đa phần là người Hoa chạy giặc đến sinh sống từ thời Lê (họ lập thành làng Minh Hương). Đoạn cuối sông Vị Hoàng xưa là bến thuyền của vua nhà Trần thì được gọi là phố Bến Ngự, Pháp đặt là Avenue Piqueaux de Bechaine, sau khi lấp sông Vị Hoàng lập ra kho hàng Hòn Gai thì gọi là phố Hòn Gai (nay là phố Bến Ngự). Nhu cầu hàng hoá của thị dân và cả vùng hạ lưu sông Hồng ngày càng nhiều nên có nhiều phường thợ thủ công từ các nơi di đến, sản xuất ra nhiều mặt hàng phục vụ cho đời sống. Chợ là nơi tiêu thụ tập trung nhiều hàng hoá, chợ ven sông là chợ Vị Hoàng, chợ Đò Chè, rồi chợ Cửa Trường. Chợ to, đông vui nhất là chợ Rồng, vì thế trên những con đường từ bờ sông vào chợ đã thành nơi sinh sống và sản xuất của các gia đình làm nghề thủ công. Từ chợ Rồng ra bờ sông Vị Hoàng là các phố Hàng Nón, Hàng Khay, Hàng Quỳ, Hàng Tiện (nay là Hàng Tiện), rồi đến Hàng Cấp (dệt các loại vải), Pháp đặt tên đường phố này là Henri Rivière. Ra bờ sông Vị Hoàng còn một đường phố gồm: Hàng Đường và Hàng Đồng hai phố này Pháp dịch là Rue du Cuivre nay là Hàng Đồng. Chợ Rồng lên phía bắc có phố Hàng Mắm, Hàng Gà, về sau hai phố này gọi là phố Móng Cáy (nay là Lý Thường Kiệt). Từ bờ sông vào chân tường thành có một dãy phố chạy song song với Hàng Đồng gồm: Hàng Thùng, Hàng Giầy, Hàng Mành, Hàng Cầm (nay là Bắc Ninh). Về phía nam thành phố, trên bờ sông có các phố bến thuyền như: Bến Củi, Pháp đặt là Rue Champeaux (nay là Ngô Quyền), Bến Gỗ, Pháp đặt là Rue Etat-Unis (nay là Phan Chu Trinh), phố Bến Thóc, Pháp đặt Hacrnamd. Lùi vào phía trong là phố Hàng Nồi, Pháp đặt là Rue de Paris (nay là Nguyễn Thiện Thuật). Song song với bờ sông Đào là phố Hàng Sũ, Hàng Ghế Pháp đặt là Cerculis, (nay là phố Phan Đình Phùng) và phố Hàng Thao Pháp đặt là Đồng Khánh (nay là phố Hàng Thao). Từ trong thành đi ra sông Vị Hoàng là phố Cửa Đông, Pháp đặt là Rue de Carreau (nay là đoạn đầu từ ngã tư Trần Hưng Đạo đến gốc đa Hàng Sắt phố Lê Hồng Phong). Từ cửa Nam ra sông Đào gọi là phố Cửa Nam, Pháp đặt là Richaud (nay là đường Tô Hiệu), cổng phía bắc thành có phố Cửa Bắc (nay là Thành Chung). Thành Nam có cửa tây, nhưng không có phố Cửa Tây do ở phía này không có sông để vận chuyển hàng hoá (thời ấy giao thông đường thủy là chủ yếu). Về sau phía tây thành cũng không phát triển bởi tư bản Pháp đã chiếm vùng đất phía tây (Năng Tĩnh) để xây nhà máy Sợi. Con đường nối các phố với nhau chạy theo hướng bắc nam từ chợ Rồng xuống sông Đào gồm: Hàng Màn (Vải Màn), Hàng Rượu, Hàng Thiếc, Hàng Đàn, Pháp đặt là Rue France (nay thuộc Hai Bà Trưng) và Hàng Cau đặt là Jules Ferry. Song song với dãy phố này còn một dãy phố nữa gồm: Hàng Mã, Hàng Mũ (năm 1921 Pháp đặt là phố Hà Nội), tiếp đến Hàng Giấy, Phố Khách, Hàng Lọng, Hàng Dầu, Pháp đặt tên cho các phố này là Maréschal Foch (nay thuộc phố Hoàng Văn Thụ). Các phường buôn, phường nghề ở với nhau trong cùng một dãy lập đền thờ tổ nghề, hay đình thờ thành hoàng bản quán (quê gốc), đây còn là nơi hội họp của phường hội. Phần lớn đền thờ tổ nghề nằm trong phố nghề. Những người làm nghề dệt (Hàng Cấp) từ Thăng Long xuống thì lập đền Voi Phục thờ thần Bạch Mã, đình Hàng Cấp (nay là trụ sở UBND phường Vị Hoàng). Các phố như: Hàng Bát, Hàng Tiện, Hàng Quỳ, Hàng Thiếc, Hàng Giấy, Hàng Đồng, Hàng Giầy, Hàng Nồi… đều có đền của phố nghề (phường nghề). Nhưng cũng có những đền như đền Hàng Bạc, đền Hàng Thêu, thực ra lại không có phố Hàng Bạc, Hàng Thêu riêng, bởi người làm nghề kim hoàn, buôn bán vàng bạc ở chung trong phố Hàng Rượu, nên đền Hàng Bạc dựng ở phố Hàng Rượu. Người làm nghề thêu tập trung ở đoạn đầu phố Hàng Thiếc và Cửa Đông nên đền Hàng Thêu được những người thợ thêu chung sức mua đất tại phố Cửa Đông dựng nên. Tên các phố cổ Hình ảnh Nhà cổ mang phong cách Việt Nhà cũ mang phong cách Pháp Di tích Trên phố Minh Khai, Hàng Sắt, Bến Ngự còn lại một số kiến trúc cổ hầu hết được xây dựng vào khoảng những năm 1840-1849, như nhà của nhà thơ Tú Xương - 280 Minh Khai, nhà số 7 phố Bến Ngự - dựng năm 1849 - di tích được xếp hạng. Phố Hàng Đồng được nối từ bờ sông Vị Hoàng (đã lấp) đến Trần Hưng Đạo và gặp thành cổ. Trên đường phố này hiện nay còn một số kiến trúc cổ nhưng cũng đã cải tạo đi ít nhiều. Phố Bắc Ninh (trước đây gọi là Hàng Giầy) - là con đường cổ nhưng những công trình kiến trúc xưa hầu như không còn. Phố Cửa Đông từ đầu đường Bến Ngự đến cổng thành phía Đông kiến trúc còn lại là ngôi Đền ngã tư Hàng Sắt - Cửa Đông đầu đường Bến Ngự. Đường Phan Đình Phùng, Hàng Thao - trục đường dài hơn cả nối từ bờ sông Vị Hoàng (đã lấp) đến phía Tây thành phố. Khu này hầu như không còn kiến trúc cũ và cổ. Ẩm thực Khu phố cổ Thành Nam ở thành phố Nam Định nổi tiếng với các món ăn đường phố hay đồ ăn vặt cực kỳ phong phú, hấp dẫn với mức giá "mềm" như: phở bò, xôi xíu, bánh cuốn làng Kênh, bún chả, bánh xíu báo (xíu páo), bún đũa, bánh gối, nem thính, chè bưởi, kem xôi, bánh su kem, bánh mì pa-tê, bánh bèo, bánh bột lọc... Những món ăn này thường được bán ở các quán trên phố Hai Bà Trưng, Hàng Tiện, Hàng Sắt, Hoàng Văn Thụ, Hàng Đồng, Bắc Ninh, Nguyễn Du, khu Nhà thờ, ngõ Văn Nhân hay các chợ Ngõ Ngang, chợ Diên Hồng, chợ Rồng. Ca dao Thành Nam cảnh trí an bàiPhố phường trên bộ, vạn chài dưới sông. Nhất thành là phố Cửa Đông,Nhất lịch Hàng Lọng, Hàng Đồng, Hàng ThaoHàng Giầy đẹp khách yêu đào, Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn NhânBa năm một hội phong vân,Lại lều lại chõng về thăm Cửa Trường Ngọt ngào lên đến Hàng ĐườngSay sưa Hàng Rượu, phô trương Hàng Cầm. Vải Màn nhỏ chỉ, nõn bông,Hàng Cấp dệt lĩnh, Hàng Song buôn thừng. Thơm ngon Hàng Lạc, Hàng Vừng,Hàng Nâu tươi vỏ đỏ lòng vốn quen, Hàng Vàng lắm bạc nhiều tiền,Hàng Sơn gắn bó gần bên Hàng Quỳ Trăm năm nghĩa tạc tình ghiHàng Đàn, Hàng Ghế chung nghề làm ăn, Hàng Tiện, Hàng Sũ, Hàng MâmGặp nhau Bến Gỗ, vui sân một nhà, Hàng Cót, Hàng Sắt bao xaAi về Bến Ngự rẽ ra Khoái Đồng. Cột Cờ lên đó mà trông,Đò Chè, Bến Thóc bên sông cắm sào. Phố Khách buôn bán vui sao,Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người. Hàng Dầu, Hàng Mũ, Hàng NồiHàng Bát, Hàng Thiếc, lên chơi Hàng Thùng Hàng Cau, Hàng Nón tưng bừng,Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây Lang sa có mặt từ ngày,Đỏ đèn Bến Củi đoạ đày hồng nhan. Hàng Thao tấp nập canh tàn,Tám nghề, bảy chữ mở hàng phấn son Đình tàn cây quế héo hon,Giáo phường cốt cách chẳng còn như xưa, Liễu đào trải mấy nắng mưa,Cầm tan phách lỗi đã thừa xót xa Trông về đất cũ quê nhà,Lò Trâu, Giá Nứa thật là đau thương Ao tù Thượng Lỗi chán chường,Tịch điền Năng Tĩnh âm hồn oán ma. Cổng Hậu, Ngã Sáu, Cầu Gia,Trường Thi phút chốc hoá ra hận trường, Hắt hiu Văn Miếu cổ tàn,Dường như sĩ tử thở than lỗi thời, Võ Miếu bày đặt nực cườiThánh Trần sao lại cùng ngồi Thánh Quan? Đền Ông hương khói mơ màng,Chùa Rào cùng với Cửa Nam tơi bời. Phù Long, Đồn Thủy qua chơiQuê hương đất cũ ngậm ngùi tàn canh, Non xưa nước cũ tan tành,Nào ai phá luỹ, dâng thành là ai?'' Hội họa Khu phố cổ Thành Nam đã đi vào tranh của một họa sĩ người Nam Trực (Nam Định) là Hồ Y. Ngoài các mảng tranh về đề tài công nhân dệt, tranh phong cảnh, tĩnh vật..., Hồ Y đã nảy ra ý tưởng ghi chép lại những con phố cổ còn sót lại của Thành Nam ở những năm 1970 (thời điểm trước khi khu phố cổ bị đô thị hóa, hiện đại hóa). Phố cổ Nam Định có những đặc điểm riêng như các đoạn phố không có vỉa hè, những phố có vỉa hè lại không lát gạch mà xếp bằng những tảng đá xanh với những cột điện khung sắt màu đen. "Thật may mắn tôi đã kịp thời ghi lại được nhà của cụ Tú Xương ở phố Hàng Nâu; ngôi nhà số 7 phố Hàng Đồng, nơi ở thời thơ ấu của nhạc sĩ Đặng Thế Phong." - Họa sĩ Hồ Y cho biết. Xem thêm Khu phố cổ Hà Nội Phố Hiến Phố cổ Hội An Cảng thị cổ Thanh Hà Phố cổ Đồng Văn Nam Định (thành phố) Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Thương nhớ phố cổ Thành Nam… (YouTube) Phố cổ Thành Nam: Đi tìm nét cổ Nam Định (VTV2) "Giải mã cuộc sống": Phố Hàng thành Nam - Đô thị cổ huy hoàng của Nam Định (Đài NTV) Nam Định tôi yêu: Phố cổ Thành Nam Nhà phố thương mại Nam Định Nam Định (thành phố) Du lịch Nam Định Di sản Quân chủ Việt Nam Di tích tại Nam Định Công trình xây dựng ở Nam Định Thành Nam Lịch sử Nam Định
VI_open-0000004376
Travel_and_Transportation
Nguyễn Bá Liên (1933-1969), nguyên là một sĩ quan cao cấp thuộc Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân thời kỳ Quân đội Quốc gia. Sau khi tốt nghiệp, ông được phục vụ ở đơn vị Bộ binh. Sau đó ông tình nguyện gia nhập Lực lượng Bộ binh Hải quân (về sau là Thủy quân Lục chiến) và đã từng giữ chức vụ Tư lệnh Liên đoàn này. Thời gian sau này, ông trở lại đơn vị Bộ binh. Năm 1969, khi đang là Đại tá Tư lệnh một Biệt khu ở Bắc Cao nguyên Trung phần, ông bị tử trận, được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng. Tiểu sử & Binh nghiệp Ông sinh ngày 20 tháng 8 năm 1933, trong một gia đình Nho học tại làng Thổ Ngọa, Quảng Trạch, Quảng Bình miền Trung Việt Nam. Cụ thân sinh từng là công chức cao cấp thời Pháp thuộc. Thời niên thiếu, ông là học sinh trường Trung học Péllerin Pháp ở Huế. Năm 1951, ông tốt nghiệp với văn bằng Brevet. Quân đội Quốc gia Việt Nam Tháng 8 năm 1953, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 53/700.469. được nhập học khóa 3 phụ Đống Đa tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, nhưng không thụ huấn ở Thủ Đức mà được gửi lên thụ huấn khóa Sĩ quan Trừ bị ở trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt và đổi tên thành khóa 9B Đống Đa, khai giảng ngày 1 tháng 9 năm 1953. Ngày 16 tháng 3 năm 1954 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được điều đi phục vụ đơn vị Bộ binh với chức vụ Trưởng ban Truyền tin của Tiểu đoàn Việt Nam. Quân đội Việt Nam Cộng hòa Cuối tháng 10 năm 1955, khi Chính thể Đệ nhất Cộng hòa hình thành, chuyển sang Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được giữ chức Trưởng phòng Truyền tin của Trường Hạ sĩ quan tại Đồng Đế, Nha Trang. Đầu năm 1956, ông được cử đi du học khóa Bộ binh cao cấp tại trường Võ bị Lục quân Fort Benning, Columbus, Tiểu bang Geogia, Hoa Kỳ. Cùng năm, mãn khóa về nước ông tình nguyện vào Liên đoàn Thủy quân Lục với chức vụ Sĩ quan Truyền tin của Liên đoàn. Đầu năm 1958, ông được thăng cấp Trung úy và được chuyển ra đơn vị tác chiến giữ chức vụ Đại đội trưởng một Đại đội thuộc Tiểu đoàn 1 Thủy quân Lục chiến. Cuối năm, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Trưởng ban 3 Hành quân trong Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Cuối năm 1959, ông được đi du học khóa Chỉ huy và Tham mưu tại căn cứ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Quantico, Tiểu bang Virginia. Giữa năm 1960 mãn khóa về nước, ông tiếp tục ở chức vụ cũ. Đầu năm 1961, ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Thủy quân Lục chiến thay thế Đại úy Trần Văn Nhựt được cử du học khóa Chỉ huy và Tham mưu tại Hoa Kỳ. Đến giữa năm 1962, ông được cử làm Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến do Trung tá Lê Nguyên Khang làm Tư lệnh. Tháng 4 năm 1963, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông tham gia cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm do Trung tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Ngày 2 tháng 11, ông được đặc cách thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến thay thế Đại tá Lê Nguyên Khang được cử đi làm Tùy viên Quân lực tại Philippines. Ngày 26 tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để lên nắm quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử làm Tùy viên Quân lực tại Philippines hoán chuyển nhiệm vụ với Đại tá Lê Nguyên Khang trở về tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến. Đầu năm 1967 mãn nhiệm về nước, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển ra Quân khu 2 giữ chức vụ Phụ tá cho Tư lệnh Quân đoàn II đặc trách chương trình Bình định và Phát triển tại Pleiku do Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tư lệnh Quân đoàn. Giữa năm 1969, ông được cử ra Kontum giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 24 kiêm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn II do Trung tướng Lữ Lan làm Tư lệnh Quân đoàn. Ngày 6 tháng 12 năm 1969, ông tử trận khi đang ở trong trực thăng trên đường bay thị sát mặt trận tại một tiền đồn thuộc Benhet trong vùng núi Trường Sơn, cách Dakto (Tân Cảnh) 12 cây số về hướng đông bắc do trúng phải đạn phòng không của địch quân. Hưởng dương 36 tuổi. Ông được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng và truy tặng đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu. Tang lễ được tổ chức theo lễ nghi quân cách của một tướng lĩnh. An táng tại Nghĩa trang Đô thành Mạc Đỉnh Chi, Sài Gòn. Sau này khi Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi bị giải tỏa, hài cốt của ông được cải táng tại Nghĩa trang Lái Thiêu, Bình Dương. Huy chương -Bảo quốc Huân chương đệ tứ đẳng (truy tặng)-Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu (truy tặng)-Một số huy chương quân sự, dân sự và Đồng minh (ân thưởng) Gia đình Thân phụ: Cụ Nguyễn Bá Mưu (nguyên làm Phán sự ở Tòa Khâm sứ Huế). Thân mẫu: Cụ Nguyễn Thị Hạnh. Cô ruột: Bà Nguyễn Thị Hải (phu nhân của Thiếu tướng Đỗ Mậu). Bào đệ: Nguyễn Bá Quang (Mục sư) Phu nhân: Bà Lê Thu Lài Ông bà có sáu người con gồm 2 trai, 4 gái:Nguyễn Diệu Huyền, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Lan Anh, Nguyễn Mai Ly, Nguyễn mai Lan, Nguyễn Bá Nam. Chú thích Tham khảo Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sinh năm 1933 Mất năm 1969 Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Người Quảng Bình Người họ Nguyễn tại Việt Nam
VI_open-0000004380
Law_and_Government
Robert Doherty (sinh ngày 15 tháng 10 năm 1940) là nhà khoa học người Úc. Ông là người đoạt Giải Nobel Sinh lý học và Y khoa vào năm 1996 cùng với Rolf Zinkernagel và được bình chọn là công dân Úc năm 1997. Ông cũng được Huân chương Úc cùng với Zinkernagel vào năm 1997. Cuộc đời và sự nghiệp Peter Doherty lớn lên ở miền bác nước Úc, nơi có nắng rất gay gắt. Do không thích ứng với bên ngoài nên từ nhỏ Doherty sống có phần khép kín. Năm 17 tuổi chàng thanh niên người Úc này từ trung học lên nghiên cứu về lĩnh vực thú y. Lúc này anh nghiên cứu say mê với ý tưởng nghiên cứu về thực phẩm chế biến từ động vật. Phải mất 3 năm, Doherty mới có thể học hết những môn khoa học cơ bản một cách đầy đủ và cặn kẽ. Tuy nhiên, ông cảm thấy sai lầm khi chọn ngành thú y. Nhưng ông vẫn đi tiếp con đường mà mình đã chọn. Và thành công đã đến với ông thật tình cờ. Khi nghiên cứu về một chủ đề, ông lại phát hiện ra điều khác và chuyển hướng nghiên cứu. Chủ đề xuất hiện rất vô tình đó lại giúp ông đoạt Giải Nobel danh giá. Chú thích Sinh năm 1940 Nhà khoa học Úc Người Úc đoạt giải Nobel Huân chương Úc Bạn hữu Hội viên Hội Hoàng gia Nhân vật còn sống Người đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa Giáo sư Úc
VI_open-0000004381
Pets_and_Animals
Cá bống hồng (Danh pháp khoa học: Paracirrhites arcatus) là một loài cá trong họ Cirrhitidae Đặc điểm Loài cá biển này thường sinh sống ở những rạn san hô có độ sâu từ 1 m tới 91m, thông thường là từ 1 m tới 33 m. Chúng sinh sống ở những vùng biển nhiệt đới có nhiệt độ từ 25 °C tới 27 °C như Biển Ấn Độ dương, Đông Phi, Hawaii, quần đảo Mangareva, Từ bắc tới nam biển Nhật Bản, phía Nam Australia và Rapa. Kích thước tối đa của cá bống hồng là 20 cm. Cá có màu hồng, hoặc màu nâu, có một vạch trắng kéo dài từ giữa than tới khấu đuôi, chúng ăn chủ yếu là tôm, cá nhỏ, cua và một số loài giáp xác. Những con cá bống hồng được khai thác chủ yếu cho mục đích thương mại, trang trí cho các bể cá cảnh Chú thích Tham khảo Anonym, 2000. Data base of J.L.B. Smith Institute of Ichthyology, Grahamstown, South Africa. J.L.B. Smith Institute of Ichthyology, Grahamstown, Nam Phi. Anonym, 2001. Data base of National Museum of Natural History (Smithsonian Institution). Smithsonian Institution - Division of Fishes. Anonym, 2002. Data base of American Museum of Natural History. American Museum of Natural History, Central Park West, NY 10024-5192, USA. Gibbons, S., 1999. Collect fish on stamps. Stanley Gibbons Ltd., London i Ringwood. 418 p. Munz, F.W. i W.N. McFarland, 1973. The significance of spectral position in the rhodopsins of tropical marine fishes. Vision Res.13:1829-1874. Randall, J.E., 1986. Cirrhitidae. P. 664-666. A: M.M. Smith i P.C. Heemstra (eds.). Smiths' sea fishes. Springer-Verlag, Berlín. Robins, C.R., R.M. Bailey, C.E. Bond, J.R. Brooker, E.A. Lachner, R.N. Lea i W.B. Scott, 1991. World fishes important to North Americans. Exclusive of species from the continental waters of the United States and Canada. Am. Fish. Soc. Spec. Publ. (21):243 p. Wheeler, A., 1977. Das grosse Buch der Fische. Eugen Ulmer GmbH & Co. Stuttgart. 356 p. Wu, H.L., K.-T. Shao i C.F. Lai (eds.), 1999. Latin-Chinese dictionary of fishes names. The Sueichan Press, Đài Loan. A Động vật được mô tả năm 1829 Cá Hawaii
VI_open-0000004382
Pets_and_Animals
Joel Little (sinh ngày 13 tháng 2 năm 1983) là một nhạc sĩ, nhà sản xuất và là một người viết bài hát thắng Giải Silver Scroll và Giải Grammy người New Zealand. Anh được biết đến nhiều nhất với công việc hợp tác sáng tác và sản xuất cùng với các nghệ sĩ như Lorde, Broods, Sam Smith, Ellie Goulding, Elliphant, Daniel Johns, Jarryd James, Kids of 88, và Priory. Sự nghiệp Little bắt đầu sự nghiệp dưới vai trò là một ca sĩ và người chơi guitar cho ban nhạc pop punk Goodnight Nurse. Ban nhạc đã phát hành hai album phòng thu, Always and Never (2006) và Keep Me On Your Side (2008), cả hai album đều đứng vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng top 40 album của the New Zealand. Hai album này đều chứa những đĩa đơn và bài hát nổi tiếng trên các đài phát thanh, bao gồm năm đĩa đơn lọt vào top 40 ở New Zealand từ năm 2004 đến năm 2008. Cùng với Sam McCarthy, cũng là một người chơi guitar cho Goodnight Nurse, Little sản xuất và đồng sáng tác một số lượng lớn các bài hát cho album đầu tay của nhóm nhạc mới của McCarthy, bộ đôi electro pop Kids of 88. Album này, có tựa đề Sugarpills, được phát hành năm 2010 và ra mắt tại vị trí á quân trên bảng xếp hạng album của New Zealand. Sugarpills bao gồm ba đĩa đơn nổi tiếng, "My House", "Just a Little Bit" và "Downtown", tất cả đều được đồng sáng tác bởi Little. "Just a Little Bit" chiến thắng hạng mục Đĩa đơn của năm tại Giải thưởng Âm nhạc New Zealand năm 2010. Năm 2011, Little dựng một xưởng sản xuất âm nhạc của riêng anh, Golden Age, tại Morningside, Auckland. Năm 2012, Little đồng sáng tác, sản xuất, thu âm và phối khí EP The Love Club cho Lorde tại Golden Age. Hai đĩa đơn "Royals" và "Tennis Court" đều đạt vị trí quán quân tại New Zealand năm 2013, trong khi đó EP The Love Club được chứng nhận đĩa Vàng tại New Zealand và đĩa Bạch kim tại Úc. Little ngoài ra cũng đồng sáng tác, sản xuất, phối khí, chỉnh sửa và chơi các nhạc cụ cho album phòng thu đầu tay của Lorde, Pure Heroine, được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 30 tháng 9 năm 2013. Danh sách đĩa nhạc Với Goodnight Nurse Always and Never (2006), Festival Mushroom Records Keep Me on Your Side (2008), Warner Music New Zealand Danh sách sản xuất và sáng tác Giải thưởng |- | 2013 | Ella Yelich-O'Connor và Joel Little cho "Royals" | Giải APRA Silver Scroll năm 2013 | |- | rowspan="2" | 2014 | Joel Little, nhà sản xuất; Joel Little, chỉnh sửa/phối khí; Stuart Hawkes, chỉnh sửa cho "Royals" | Giải Grammy lần thứ 56 - Thu âm của năm | |- | Ella Yelich O'Connor và Joel Little, người viết bài hát cho "Royals" | Giải Grammy lần thứ 56 - Bài hát của năm | |} !scope="col"| |- | 2014 | Ella Yelich O'Connor và Joel Little | Giải APRA (Úc) - Giải thưởng gặt hái quốc tế đột phá | |style="text-align:center;"| |- |} Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Sinh năm 1983 Nhân vật còn sống Người đoạt giải Grammy Người Auckland
VI_open-0000004383
Arts_and_Entertainment
Abdelmalek Sellal (عبد الملك سلال) (sinh ngày 1 tháng 8 năm 1948) là chính trị gia người Algérie. Ông giữ chức vụ Thủ tướng Algérie từ ngày 3 tháng 9 tháng 2012 đến ngày 13 tháng 3 năm 2014. Ngày 28 tháng 4 năm 2014, tổng thống Abdelaziz Bouteflika tái bổ nhiệm ông đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng Algérie. Vào tháng 2 năm 2022, Abdelmalek Sellal phải nhập viện tại CHU Mustapha-Pacha ở Algiers do bị nhiễm biến thể Omicron của covid-19 và gặp các vấn đề sức khỏe liên quan đến biến thể này. Chú thích Thủ tướng Algérie Tín hữu Hồi giáo Algérie
VI_open-0000004384
News
Đại học Garissa là một trường đại học công lập ở Garissa, Kenya. Trường được thành lập vào năm 2011. Thư viện của trường được thành lập vào năm 1996. Hiệu trưởng của trường là Ahmed Warfa, phó hiệu trưởng là Kirimi Kiriamiti và Genevieve Mwayuli. Trường có 75 nhân viên. =Chú thích Liên kết ngoài Garissa University College Website Website of the former Garissa Teachers Training College Đại học Kenya
VI_open-0000004387
Jobs_and_Education
Đảo Kaffeklubben hoặc đảo Câu lạc bộ Cà phê (tiếng Đan Mạch: Kaffeklubben Ø; tiếng Greenland: Inuit Qeqertaat) là một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi mũi phía bắc của Greenland. Nó chứa các điểm cực Bắc của đất trên Trái Đất. Đảo Kaffeklubben nằm ở 83 ° 40'N 29 ° 50'W tọa độ: 83 ° 40'N 29 ° 50'W, và cự ly là 713,5 km (443,3 mi) từ địa lý Bắc Cực. Nó nằm ở phía bắc của Frederick E. Hyde Fjord, khoảng 37 km (23 dặm) về phía đông của mũi Morris Jesup và tây mũi Bridgman, một chút đông của một điểm trung tâm dọc theo bờ biển phía bắc của Greenland. Đảo Kaffeklubben dài khoảng 0,7 km (0.43 mi), và rộng khoảng 300 mét (980 ft) tại điểm rộng nhất của nó. Tham khảo Đảo Đan Mạch Điểm cực Trái Đất Đảo không người ở Greenland
VI_open-0000004388
Food_and_Drink
Khai cuộc Alapin là một khai cuộc không phổ biến trong cờ vua bắt đầu bởi những nước đi: 1. e4 e5 2. Me2 Khai cuộc này được đặt theo tên của người chơi và cũng là người nghiên cứu khai cuộc Semyon Alapin (người Litva; 1856-1923) Mô tả Alapin là một khai cuộc bất thường, nhưng hoàn toàn có thể chơi cho Trắng. Nó được dùng cơ bản để tránh các khai cuộc được lý thuyết đánh giá cao ví dụ như Ruy Lopez, hoặc là để gây bất ngờ cho đối thủ. Trắng có ý đồ nhanh chóng chơi f2-f4. Hình thế này cũng có sự tương đồng với thế cờ Smyslov (Smyslov–Botvinnik, 1958) nếu Trắng thử cố gắng chơi một vài cái gì đó theo diễn biến g3, Mbc3, d3, Tg2. Tuy nhiên, khai cuộc này cũng khiến Trắng gặp phải một số vấn đề. Thứ nhất, Tượng ô trắng và Hậu của họ bịt đường phát triển, và sẽ cần một nước đi khác của Mã hoặc Tốt để mở đường, điều này đi ngược lại nguyên tắc trong khai cuộc đó là cần phải nhanh chóng phát triển quân. Thứ hai, Mã ở e2, mặc dù linh hoạt, nhưng nó không kiểm soát được phần trung tâm của Đen, và cần phải di chuyển thêm lần nữa để trở nên hữu dụng hơn. Sẽ là khá dễ cho Đen để cân bằng thế cờ trong khai cuộc này, ví dụ như, 2...Mf6, 2...Mc6, và 2...d5 đều cân bằng cờ. Dù vậy Đen cần cẩn trọng để tránh bị bất ngờ với nước f2-f4. Xem thêm Danh sách các khai cuộc cờ vua Tham khảo Khai cuộc cờ vua
VI_open-0000004390
Games
Phường 1 là một phường thuộc thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Địa lý Phường 1 nằm ở trung tâm thị xã Duyên Hải, có vị trí địa lý: Phía đông giáp các xã Dân Thành và Trường Long Hòa Phía tây giáp xã Long Toàn Phía nam giáp xã Dân Thành Phía bắc giáp xã Long Toàn và Phường 2. Phường 1 có diện tích 13,51 km², dân số năm 2022 là 11.076 người, mật độ dân số đạt 802 người/km². Hành chính Phường 1 được chia thành 7 khóm: 1, 2, 3, 4, Bến Chuối, Long Thạnh, Phước Trị. Lịch sử Địa bàn Phường 1 trước đây là một phần xã Long Toàn, huyện Duyên Hải. Ngày 7 tháng 10 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 62-CP. Theo đó, thành lập thị trấn Duyên Hải, thị trấn huyện lỵ huyện Duyên Hải trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số 2 ấp Phước Trị và Long Thạnh thuộc xã Long Toàn. Ngày 25 tháng 2 năm 2013, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 211/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Duyên Hải mở rộng là đô thị loại IV. Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 934/NQ-UBTVQH13. Theo đó: Tách thị trấn Duyên Hải và 5 xã: Dân Thành, Hiệp Thạnh, Long Hữu, Long Toàn, Trường Long Hòa thuộc huyện Duyên Hải để thành lập thị xã Duyên Hải Thành lập Phường 1 thuộc thị xã Duyên Hải trên cơ sở điều chỉnh toàn bộ 200,54 ha diện tích tự nhiên và 12.493 người của thị trấn Duyên Hải, 1.150 ha diện tích tự nhiên và 1.747 người của xã Long Toàn. Sau khi thành lập, Phường 1 có 1.350,54 ha diện tích tự nhiên và 14.240 người. Chú thích Tham khảo
VI_open-0000004392
Jobs_and_Education
Leptocybe invasa là một loài côn trùng trong họ Eulophidae. Loài này được Fisher & LaSalle miêu tả khoa học đầu tiên năm 2004. Đây là loài gây hại của cây Eucalyptus grandis, phát triển phổ biến ở Israel. Chú thích Tham khảo Leptocybe Động vật được mô tả năm 2004 Loài gây hại ở Israel
VI_open-0000004397
Pets_and_Animals
Die Meistersinger von Nürnberg (tiếng Việt: Các ca sĩ bậc thầy của Nuremberg) là vở opera 3 màn, được viết lời và nhạc bởi Richard Wagner. Hoàn cảnh sáng tác của nó khá đặc biệt: Wagner, vì lo sợ cái khó mà Tristan und Isolde mang lại, nên đã sáng tác vở opera này. Tác phẩm phải trải qua một khoảng thời gian khó khăn mới được hoàn thành vì cha đẻ của nó được vua Ludwig II của Bayern ngưỡng mộ quá mức nên bị ghen ghét. Wagner bắt buộc phải sang Thụy Sĩ và hoàn thành vở opera Die Meistersinger von Nürnberg trong một sự đỡ đầu mới. Tuy nhiên, sự giúp đỡ của chính vua Ludwig mà tác phẩm được trình diễn tại Munich vào năm 1868. Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng âm nhạc của tác phẩm quá khó hiểu. Âm thanh Chú thích Opera
VI_open-0000004403
Arts_and_Entertainment
Cừu Fannin (Danh pháp khoa học: Ovis dalli fannini) là một phân loài của loài cừu tuyết Ovis dalli. Chúng là một người anh em họ tiến hóa của cừu Dall. Cừu Fannin chủ yếu có thể ẩn náu hoặc chạy khỏi kẻ thù. Chúng gần như tuyệt chủng, với khoảng 100-112 cá thể. Phân bố Cừu được tìm thấy trong nước tương đối khô và cố gắng để ở trong một sự kết hợp đặc biệt của rặng núi mở núi, đồng cỏ, và sườn dốc đứng với mặt đất vô cùng cứng cáp trong vùng lân cận ngay lập tức, để cho phép thoát khỏi các kẻ thù mà không thể đi du cư một cách nhanh chóng thông qua địa hình như vậy. Đặc điểm Cừu đực có sừng cong dày. Những con cái có sừng ngắn hơn mảnh mai hơn, sừng hơi cong. Con đực sống trong các nhóm mà ít khi kết hợp với các nhóm cái, ngoại trừ trong mùa giao phối vào cuối tháng 11 và đầu tháng Mười Hai. Chiên non được sinh ra vào tháng Năm. Chúng là một trong những con cừu yếu nhất. Động vật săn mồi chính của nó là sói, gấu và linh miêu, cùng với con người. Những con thú này có thể tát, cào cấu, và cắn một con chiên Fannin cho đến chết. Chúng sống trong những ngọn đồi, rừng, thác nước, thác nước căn cứ và vùng đồng bằng trong vòng Hoa Kỳ và Trung Quốc và Hàn Quốc. Cừu Fannin ăn chủ yếu là cỏ, và đôi khi gỗ. Trong suốt mùa hè, khi thức ăn dồi dào, con cừu ăn nhiều loại thực vật. Các chế độ ăn uống mùa đông là hạn chế hơn nhiều, và chủ yếu là các cỏ khô, cỏ đông lạnh và cói xuất phát có sẵn khi tuyết được tan rã, địa y và rêu. Rất nhiều đàn cừu thăm bãi liếm muối khoáng trong mùa xuân, và thường di chuyển nhiều dặm để ăn đất xung quanh và liếm khoáng. Tham khảo
VI_open-0000004408
Pets_and_Animals
Benjamin Francis Webster (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1909, mất ngày 20 tháng 9 năm 1973) là nhạc công kèn tenor saxophone người Mỹ. Sinh ra ở Kansas City, Missouri, Webster được coi là một trong số 3 nghệ sĩ tenor nhạc swing/jazz quan trọng nhất bên cạnh Coleman Hawkins và Lester Young. Được biết tới nhiều qua biệt danh "The Brute" và "Frog", ông nổi bật qua âm thanh mạnh mẽ, thô ráp và dữ dội trong tiếng bước chân (cũng như giọng đệm) trong khi lại vô cùng ấm áp và tình cảm với các giai điệu ballad. Phong cách của ông được ảnh hưởng từ Johnny Hodges – ngôi sao trực tiếp hướng dẫn ông chơi nhạc cụ này. Tham khảo Liên kết ngoài [ Ben Webster] — by Scott Yanow, for Allmusic "Ben Webster played a sultry Sax..." The Ben Webster Foundation The Jazz collections at the University Library of Southern Denmark Sinh năm 1909 Mất năm 1973 Người Kansas City, Missouri Nhạc sĩ Mỹ thế kỷ 20
VI_open-0000004409
Arts_and_Entertainment
Mũ cánh chuồn, còn gọi là mũ ô sa (chữ Hán: 烏紗帽, âm Hán Việt: ô sa mạo), là tên thông dụng gọi loại mũ của quan lại thời phong kiến Việt Nam và Á Đông dùng làm một phần trong trang phục khi chấp sự hoặc dự việc có tính cách nghi lễ. Mũ có dạng úp lên đầu, phần phía sau (gọi là hậu sơn) nhô cao hơn phần trán. Đặc biệt là hai bên tai có hai cánh, tương tự như cánh con chuồn chuồn. Trong văn hóa Việt Nam có những biểu tượng thông dụng như Tam Đa: Phúc, Lộc, Thọ; trong đó vị thần Lộc có hình dạng là vị quan đội mũ cánh chuồn. Mũ cánh chuồn cũng xuất hiện trên mâm cỗ cúng táo quân, làm lễ vật cho ba vị thần bếp. Lịch sử Mũ cánh chuồn trong sử sách nguyên thủy là mũ phốc đầu (幞頭), một biến thể của loại khăn chít trên đầu, hai đầu khăn bỏ rủ hai bên tai. Mũ này du nhập vào Việt Nam từ Trung Hoa vào thời nhà Tiền Lê. Thời nhà Hậu Lê thì triều đình chỉ định dùng mũ cánh chuồn, lúc bấy giờ gọi là mũ ô sa là một phần phẩm phục cho các quan. Tùy phẩm cấp mà dùng mũ trơn hay đính thêm những trang sức bằng quý kim có tính cách trang trí nhưng cũng là cách phân biệt phẩm trật. Mũ cánh chuồn được dùng cho đến hết thời nhà Nguyễn tại Việt Nam với tên gọi là mũ Phốc đầu. Sử sách nhà Nguyễn phân biệt mũ Phốc đầu thành hai loại: Loại thứ nhất dáng tròn dành cho quan văn, loại thứ hai dáng vuông dành cho quan võ. cả hai loại đều được đan bằng Mã vĩ (lông đuôi ngựa). tùy theo phẩm trật mà sẽ có thêm các trang sức mũ khác nhau như: Giao long, bác sơn, như ý, hoa,.. Tham khảo Liên kết ngoài Trang phục Việt Nam Nhà Minh
VI_open-0000004411
Arts_and_Entertainment
Giải Grammy cho Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc giọng pop xuất sắc nhất là một hạng mục trong giải Grammy (trước đây có tên là giải Gramophone), được Viện hàn lâm Nghệ thuật Thu âm Hoa Kỳ thành lập và trao giải từ năm 1966 đến năm 2011. Giải thưởng này được trao nhằm "tôn vinh các cá nhân hoặc tập thể có thành tựu nghệ thuật xuất sắc trong lĩnh vực thu âm, không xét đến doanh số bán album hay vị trí trên các bảng xếp hạng âm nhạc". Hạng mục này đã bị ngưng sau giải Grammy lần thứ 54 bởi một cuộc cải tổ lớn của các nhà tổ chức. Cụ thể là từ năm 2012, tất cả những màn trình diễn của các nhóm nhạc thuộc lĩnh vực pop được chuyển sang một giải có tên gọi mới là Giải Grammy cho Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất. Trong suốt lịch sử của giải thưởng, các đại diện của Hoa Kỳ chiếm ưu thế trong danh sách thắng giải với 39 lần, tiếp theo là các nước Anh (9 lần), Ireland, Canada và Mexico (mỗi nước một lần). The Statler Brothers trở thành nghệ sĩ đầu tiên đoạt giải ở lễ trao Giải Grammy lần thứ 8 (1966) với ca khúc "Flowers on the Wall". Danh sách các nghệ sĩ đoạt giải hai lần bao gồm The 5th Dimension, The Carpenters, The Black Eyed Peas, Maroon 5, No Doubt, The Bee Gees, Peabo Bryson, Linda Ronstadt, Aaron Neville và Jennifer Warnes. Ban nhạc The Beatles của Anh trở thành nghệ sĩ nhận được nhiều đề cử nhất với tổng cộng 9 lần. Danh sách chi tiết Các năm thắng giải đều được liên kết với lễ trao giải Grammy năm đó. Các kỷ lục Thắng giải nhiều nhất: Nhiều đề cử nhất Tham khảo Xem thêm Giải Grammy Giải Grammy cho Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất Giải Grammy cho Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc giọng rock xuất sắc nhất Quincy Jones Liên kết ngoài Giải Grammy hạng mục pop Hạng mục giải Grammy
VI_open-0000004412
Arts_and_Entertainment
Hạng mục Nhảy cầu nam 1m của mục nhảy cầu tại Giải vô địch bơi lội thế giới 2015 được tổ chức vào ngày 24 và 27 tháng 7 năm 2015. Kết quả Vòng loại bắt đầu lúc 15 giờ ngày 24 tháng 7. Chung kết diễn ra lúc 17 giờ ngày 27 tháng 7. Màu xanh chỉ các vận động viên lọt vào chung kết Tham khảo Nhảy cầu nam 1m
VI_open-0000004413
Sports
Phần thi bơi ngửa 100m nam trong hạng mục bơi của Giải vô địch bơi lội thế giới 2015 được tổ chức vào ngày 3 tháng 8 năm 2015 với vòng loại và bán kết, và vào ngày 4 tháng 8 năm 2015 với vòng chung kết. Kỉ lục Trước cuộc thi, các kỉ lục thế giới và kỉ lục của giải được trình bày ở bảng dưới đây. Kết quả Vòng loại Vòng loại bắt đầu lúc 09:49, ngày 3 tháng 8. Bán kết Bán kết bắt đầu lúc 17:48 ngày 3 tháng 8. Bán kết 1 Bán kết 2 Chung kết Chung kết bắt đầu lúc 18:36, ngày 4 tháng 8. Tham khảo Bơi ngửa 100m nam
VI_open-0000004415
Sports
Động vật sa mạc hay động vật hoang mạc hay cư dân sa mạc là tên gọi chỉ về những loài động vật đã thích nghi để sống trong môi trường sa mạc, hoang mạc hay bán hoang mạc khô cằn với những điều kiện khắc nghiệt và cằn cỗi. Trong thuật ngữ khoa học, những dạng động vật sống trong môi trường này được gọi là xerocole bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là xēros có nghĩa là chịu khát. Vùng sa mạc, hoang mạc khô cằn là một môi trường cực kỳ khắc nghiệt, thử thách sự sống còn của các sinh vật sống, nhất là các loài động vật, mặc dù vật có hàng loạt động vật vẫn vật lộn để sinh tồn ở những nơi này, với những đặc điểm có được do tiến hóa để thích nghi với môi trường sống. Tổng quan Động vật muốn tồn tại trong sa mạc thì phải có ít nhất hai khả năng. Một là khả năng đi lại, bởi vì đất cát bất cứ lúc nào cũng có thể chôn vùi chúng, thứ hai là khả năng trữ nước, vì khi mất nước thì bất kỳ sinh vật nào cũng phải chết. Những loài động vật sa mạc phải đối chọi với hai khó khăn chính giữ thân nhiệt không quá nóng và giữ đủ nước (độ ẩm). Động vật sa mạc mỗi con đều có một phương pháp tồn tại riêng, chẳng hạn có loài chuyên sống phụ thuộc vào thực vật. Một số thường ngày giấu mình trong hang cát, khi mưa sương xuống thì lập tức bò lên mặt đất, sử dụng toàn thân để hứng sương. Các cư dân của hoang mạc đã phải tiến hoá thích nghi với thời tiết để sinh tồn. Nhiều động vật sa mạc có đôi tai lớn, chân và cái đuôi dài. Các cơ quan này hoạt động như những bộ máy điều hoà, giúp chúng tự bảo vệ trước cái nóng khủng khiếp. Nhiều động vật sa mạc ẩn nấp ánh nắng mặt trời suốt ngày và chỉ xuất hiện vào lúc sáng sớm hoặc khi trời tối. Song nhiều loài khác lại xuất hiện và hoạt động suốt cả ngày, như loài cào cào quay đầu về phía Mặt trời để thân thể của mình phơi ra ánh nắng càng ít càng tốt. Và vì trên sa mạc hiếm nước nến các động vật phải sử dụng nước sao cho có hiệu suất tối đa. Nhiều loài trong số chúng không tiết mồ hôi, nước tiểu của chúng đặc và phân khô. Không có bằng chứng cho thấy nhiệt độ cơ thể của động vật có vú và các loài chim là thích nghi với khí hậu khác nhau, hoặc là nhiệt độ lớn hoặc quá lạnh. Trong thực tế, với một số rất ít trường hợp ngoại lệ, tốc độ trao đổi chất cơ bản của chúng được xác định bởi kích thước cơ thể, không phụ thuộc vào khí hậu mà chúng sống. Nhiều loài động vật sa mạc (và thực vật) cho thấy sự thích nghi tiến hóa đặc biệt rõ ràng cho việc bảo tồn nước hoặc khả năng chịu nhiệt và do đó thường được nghiên cứu trong sinh lý học so sánh, sinh lý học sinh thái và sinh lý học tiến hóa. Một ví dụ cũng được nghiên cứu đầy đủ là sự biệt hóa thận của động vật có vú thể hiện qua các loài sinh sống ở sa mạc. Nhiều ví dụ về tiến hóa hội tụ đã được xác định trong các sinh vật sa mạc, bao gồm giữa cây xương rồng và Euphorbia, chuột túi và jerboas, Phrynosoma và thằn lằn Moloch. Mặc dù là môi trường khắc nghiệt không phù hợp với con người, nhưng đối với một số loài động vật hoang dã thì Sahara, sa mạc nhiệt đới lớn nhất thế giới, là nơi sinh sống lý tưởng. Đây là nơi sinh sống của các loài động vật hoang dã như linh dương, báo, sư tử, bò cạp, rắn, các loài gặm nhấm và nhiều loài quý hiếm khác. Tuy vậy trong 14 loài động vật sống ở sa mạc và nhận thấy rằng ít nhất một nửa trong số chúng đều tuyệt chủng ở một khu vực riêng biệt, hoặc số lượng bị hạn chế đáng kể trong một phạm vi địa lý nhỏ hơn. Các loài gặm nhấm, rắn và bọ cạp phát triển mạnh ở môi trường hoang mạc. Trong số những loài tuyệt chủng được phát hiện có linh dương sừng móc Bubal, linh dương sừng kiếm. Các loài chó hoang dã và sư tử châu Phi gần như biến mất khỏi môi trường hoang dã. Loài dê rừng Nubia vẫn sống ở các vùng đất khô cằn nhưng được xếp vào nhóm các loài động vật dễ bị tổn thương bởi các tác động bên ngoài. Số lượng loài báo đốm, báo hoa cũng đang suy giảm dần. Loài linh dương sừng kiếm là minh chứng rõ rệt nhất cho thấy các loài động vật sinh sống ở sa mạc Sahara đang biến mất dần do nạn săn bán tràn lăn và thiếu môi trường sống. Đến nay, loài linh dương này chỉ sống trong điều kiện bị nuôi nhốt Thích nghi Sa mạc thể hiện một môi trường đầy thách thức đối với động vật. Không chỉ những yêu cầu về nước và thức ăn mà chúng cũng cần phải giữ cho nhiệt độ cơ thể ở một mức độ chấp nhận được. Nước và cacbon dioxide là sản phẩm cuối cùng của quá trình trao đổi chất và oxy hóa chất béo, protein, và các carbohydrat. Việc oxy hóa 1 gram carbohydrat tạo ra 0,60 gram nước; 1 gram protein sinh ra 0,41 gram nước; và 1 gram chất béo sinh ra 1,07 gram nước, làm cho các loài động vật sa mạc có thể sống mà cần ít hoặc không cần uống nước. Nhiều loài động vật sa mạc nóng khác sống về đêm thì tìm kiếm bóng mát vào ngày hoặc ở trong hang dưới lòng đất. Ở độ sâu hơn , những chúng vẫn duy trì ở mức từ 30 đến 32 °C (86 và 90 F) không phụ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài. Động vật có vú sống ở hoang mạc lạnh đã phát triển sự cách nhiệt cao hơn thông qua bộ lông cơ thể ấm hơn và các lớp cách nhiệt bằng mỡ dưới da. Chồn Bắc Cực có tốc độ trao đối chất lớn hơn gấp 2 đến 3 lần so với các loài động vật có vú cùng kích thước. Chim đã tránh được vấn đề mất nhiệt qua đôi chân của mình bằng cách không cố gắng để duy trì nhiệt của chân bằng với nhiệt của các phần còn lại của cơ thể, một dạng cách nhiệt thích nghi. Chim cánh cụt hoàng đế có bộ lông dày, một lớp cách nhiệt (đệm) không khí kế lớp da và nhiều, và các cơ chế nhiệt khác nhau để duy trì nhiệt cơ thể chúng trong một môi trường khắc nghiệt nhất trên Trái Đất. Các loài Thú Chuột túi là một ví dụ về việc sử dụng nước của quá trình trao đổi chất này và bảo tồn nước bằng cách điều khiển tốc độ trao đổi chất thấp cơ bản và vùi mình dưới cát trong cái nóng của ban ngày, làm giảm mất nước qua bộ lông và hệ hô hấp khi chúng nghỉ ngơi. Trong số 40 loài gặm nhấm được phát hiện thêm tại Sahara là chuột nhảy, chuột và sóc. Để tránh nóng, chuột nhảy đào các hố bên dưới cát hoang mạc tới phần đất ẩm hơn. Đi lại trên cát không phải lúc nào cũng dễ dàng. Hầu như các loài gặm nhấm sa mạc nhảy hơn là đi. Chuột nhảy, chuột sa mạc, chuột túi và các loài gặm nhấm nhỏ khác ra khỏi hang của chúng vào ban đêm và do đó, làm cáo, chó sói, chó rừng và rắn săn chúng. Chuột túi giữ lạnh bằng cách tăng nhịp hô hấp của chúng, thở hổn hển, tiết mồ hôi và làm ẩm da của chân trước bằng nước bọt của chúng. Họ Chuột kangaroo (Heteromyidae) chứa chuột kangaroo, chuột nang đá sa mạc. Phần lớn các loài trong họ này sinh sống trong các hang hốc phức tạp tại khu vực sa mạc và đồng cỏ ở miền tây Bắc Mỹ. Chuột cống kangaroo là loài bản địa ở Bắc Mỹ. Chúng có hai chân sau rất phát triển trong khi hai chân trước khá nhỏ và đầu lớn hơn nhiều so với thân hình. Chiều dài của đuôi lớn hơn cả chiều dài thân và đầu cộng lại. Hai bên miệng chúng có túi má là nơi có thể dùng để dự trữ thức ăn. Chuột nhảy sa mạc tai dài hay chuột nhảy tai dài, Euchoreutes naso, chủ yếu sống về đêm, hầu như ban ngày chúng đều ở trong hang dưới lòng đất, và chúng tự đào hang của mình, môi trường sinh sống Chủ yếu là sinh sống ở sa mạc, lưu vực sông đầy cát trắng và gồm có cả cây có bụi rậm. Chuột sóc sa mạc Selevinia betpakdalaensis. Thỏ đuôi bông sa mạc (Sylvilagus audubonii) được tìm thấy trên khắp miền Tây Hoa Kỳ từ đông Montana miền tây Texas, và ở miền bắc và miền trung Mexico. Về phía tây mở rộng phạm vi của nó đến trung tâm Nevada và Nam California và Baja California. Nó được tìm thấy ở độ cao lên đến 2000 mét. Nó đặc biệt liên kết với các đồng cỏ khô hạn gần sa mạc phía Tây Nam Mỹ. Một trong những cư dân đáng yêu nhất của sa mạc là nhím Paraechinus aethiopicus, được tìm thấy ở châu Phi và Trung Đông. Loài vật này thích nghi với cuộc sống ở sa mạc khô cằn bằng cách sống trong hang ban ngày và đi săn đêm. Nó ăn tất cả mọi thứ từ các loài côn trùng và động vật không xương tới trứng chim và các loài rắn và bọ cạp. Các loài động vật lớn ăn cỏ không có khả năng nấp mình trong hang nên gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng. Chúng thường chỉ có thể sống ở rìa sa mạc, tại đó chúng tự thu xếp để tìm bóng mát và nước. Linh dương Addax và linh dương sừng kiếm thuộc linh dương gazen có thể sống mà không cần uống nước. Độ ẩm duy nhất cung cấp cho chúng là từ nguồn sương và nước mà chúng có thể tìm thấy trong thực vật. Các động vật có vú ăn cỏ lấy ẩm từ thực vật mà chúng ăn. Các loài như Linh dương Addax, Linh dương dik-dik, Linh dương Grant và Linh dương oryx (linh dương tai rìa) sử dụng rất hiệu quả phương pháp này nên chúng không cần uống nước. Addax nasomaculatus hay linh dương sừng xoắn là loài động vật có vú bản xứ lớn nhất tại Sahara. Loài vật này di chuyển thành từng bầy nhỏ khắp Tây Sahara, Mautitania và Chad. Thay vì uống nước, nó lọc ẩm từ cỏ và bụi cây hoang mạc. Các móng guốc quá cỡ giúp con vật này có thể khéo léo di chuyển trên cát lỏng của hoang mạc. Linh dương Sonoran. Loài này đã thích nghi để sống trong môi trường đặc biệt khó khăn. Nó có thể ăn và tiêu hóa các món cỏ mà các động vật ăn cỏ khác không đếm xỉa đến, bao gồm các loại cỏ sa mạc khô và thậm chí cả xương rồng. Lớp lông của nó có thể chống nhiệt độ lạnh vào ban đêm, cũng như nhiệt độ nóng bức trong những ngày nóng. Linh dương sừng thẳng Ả Rập lớn này có khả năng sống trong điều kiện sa mạc nóng khắc nghiệt. Chúng có bộ lông màu trắng để phản ánh sáng mặt trời trong ngày, đôi chân tối giúp hấp thụ nhiệt lạnh trong buổi sáng ở sa mạc. Loài này thường ăn vào buổi bình minh và chiều tối, nghỉ ngơi tại các bụi râm mát tránh cái nóng giữa trưa. Loài này có thể di chuyển nhiều ngày, thậm chí cả tuần mà không cần một giọt nước nào. Chúng tích nước cho cơ thể bằng cách uống sương đọng trên cây và thức ăn. Lạc đà là một ví dụ tuyệt vời của một động vật có vú thích nghi với cuộc sống sa mạc. Nó giảm thiểu sự mất nước của mình bằng cách sản xuất nước tiểu đậm đặc và phân khô, và có thể mất 40% trọng lượng cơ thể của mình thông qua sự mất nước mà không chết do mất nước. Lạc đà, loài vật thường được gắn làm biểu tượng của Sahara, xuất hiện tại hoang mạc khoảng năm 200 sau Công nguyên. So với loài ngựa mà chúng thay thế, lợi thế của lạc đà là chân mềm để cho chúng có thể di chuyển nhanh chóng, dễ dàng qua cát và khả năng để tồn tại trong 17 ngày mà không cần thực phẩm và nước uống. Voi sa mạc là những con voi sinh sống tại các vùng sa mạc, chúng không phải là một loài riêng biệt của voi châu Phi, nhưng những con voi bụi rậm châu Phi (Loxodonta africana) đã chọn cho mình môi trường sinh sống trong sa mạc khô cằn và điều này dẫn đến chúng có một số đặc điểm, khả năng riêng biệt để thích nghi với môi trường sống. Những con voi sa mạc đã được phát triển theo hướng thích nghi nhất định cho cuộc sống sa mạc và cấu tạo cơ thể của chúng có xu hướng có bàn chân tương đối rộng hơn, chân dài hơn và các cơ quan nhỏ hơn voi bụi rậm châu Phi khác. Động vật ăn thịt thì có thể hấp thụ lượng nước từ thân thể ở con mồi của chúng Cáo Sechura hay cáo sa mạc Peru (Lycalopex sechurae) được tìm thấy ở sa mạc Sechura ở tây nam Ecuador và tây bắc Peru. Cáo lông nhạt thường sống ở sa mạc đá và bán sa mạc mặc dù thỉnh thoảng đi vào phía nam vào thảo nguyên. Trong ngày chúng nghỉ ngơi trong hang có thể dài lên đến 15 mét dài và xuống đến 2 mét xuống đất, hoàng hôn xuống chúng ra ngoài kiếm thức ăn bao gồm thực vật và quả mọng cũng như động vật gặm nhấm, bò sát và côn trùng. Nó có khả năng giữ nước từ thức ăn của nó, và có gần như nhịn uống hoàn toàn. Cáo fennec (Vulpes zerda) là loài cáo sa mạc nhỏ hoạt động về đêm được tìm thấy ở sa mạc Sahara của Bắc Phi. Tính năng đặc biệt nhất là đôi tai của nó lớn bất thường, phục vụ cho việc tản nhiệt. Cáo Fennec là loài nhỏ nhất trong họ Chó, bộ lông, tai và chức năng của thận đã thích nghi với nhiệt độ cao, ít nước, môi trường sa mạc. Ngoài ra, thính giác của nó khá nhạy bén có thể nghe con mồi di chuyển dưới lòng đất. Nó chủ yếu ăn côn trùng, động vật có vú nhỏ, và các loài chim. Những cái tai to cũng giúp chúng phát hiện thấy tiếng động dù nhỏ nhất trong bầu không khí tĩnh lặng của sa mạc, thính giác của loài cáo cát đặc biệt nhạy. Với cân nặng ít hơn 1,4 kg, cáo hoang mạc sống trong hố các đụn cát vào ban ngày và săn mồi vào ban đêm. Mèo cát hay mèo đụn cát là một loài sinh vật sống ở các vùng sa mạc của châu Phi và châu Á. Nó có kích thước khá nhỏ và trông bè bè với chân ngắn, đuôi dài và đôi tai rất lớn, nhọn. Đầu của chúng khá to, tai to đến mức có thể được trải rộng theo chiều ngang và thậm chí chĩa xuống nhằm phục vụ cho việc săn mồi. Mèo cát có lông mọc dày ở giữa các ngón chân, điều này tạo ra một lớp lông cách nhiệt dày giúp chúng không bị bỏng khi đi trên cát sa mạc. Chồn đất châu Phi đã trở thành biểu tượng của sa mạc Kalahari. Loài này có một số đặc điểm cơ thể giúp chúng thích nghi với cuộc sống sa mạc. Loài này có thể tích nước cho cơ thể từ các con mồi như côn trùng, rắn và bọ cạp. Loài này miễn dịch với nọc độc bọ cạp và có thể chịu đựng được sáu lần lượng nọc rắn có thể giết chết một con thỏ. Loài này có thể ăn các món rễ và củ nếu cần thêm nước. Mảng màu đen xung quanh mắt của loài này giúp chúng giảm độ chói của ánh sáng mặt trời. Chó rừng và nhiều loại linh cẩu thuộc trong số các loài ăn thịt sống trên Sahara. Sói Ả Rập là một phân loài của sói xám thích nghi sống trong điều kiện khắc nghiệt sa mạc rất ấn tượng. Loài này có bộ lông dài bảo vệ cơ thể chống lại nhiệt độ lạnh trong mùa động, đến mùa hè, loài này có bộ lông ngắn, nhưng vẫn có lông dài mọc ngược trên lưng giúp chúng chống lại sức nóng của mặt trời. Chúng cũng có thêm đôi tai lớn để giúp phân tán nhiệt độ cơ thể, để thoát khỏi cái nóng, nó sẽ đào hang sâu và nghỉ ngơi trong bóng râm. Sư tử ở hoang mạc Kalahari là một phân loài sư tử châu Phi đặc biệt thích nghi với môi trường sống sa mạc. Loài này có chân dài và cơ thể gọn gàng, cùng sức đề kháng mạnh mẽ để chống lại các cơn khát, chúng có thể nhịn hai tuần không uống nước, chỉ dựa vào con mồi để cung cấp nước cho cơ thể. Chúng hạ nhiệt bằng cách thở hổn hển, và thải mồ hôi thông qua các miếng đệm ở bàn chân. Chim Có ít loài chim làm tổ trên sa mạc, song loài gà cát là một trường hợp ngoại lệ. Chúng bay đi rất xa để tìm nước và mang về những lượng nhỏ bằng cách thấm vào lông bụng. Các con gà gô cát là một chuyên gia về ngụy trang và làm tổ ở mở trên sa mạc cách các vũng nước mà chúng hay uống hàng ngày hàng chục km. Một số loài chim nhỏ sống ban ngày được tìm thấy ở các vị trí rất hạn chế nơi mà bộ lông của chúng giống với màu sắc của bề mặt bên dưới. chim sơn ca sa mạc tắm cát thường xuyên nhằm đảm bảo rằng nó giống với môi trường của nó sống. Bằng nhiều cách khác nhau, chim là có khả năng nhất để làm điều này trong những động vật bậc cao. Chúng có thể di chuyển đến các khu vực có nhiều thức ăn sẵn có khi sa mạc nở hoa sau các trận mưa địa phương và có thể bay đến những trũng nước xa xôi. Trong hoang mạc nóng, chim lượn có thể tự loại bỏ nhiệt cao từ nền sa mạc quá nóng bằng cách sử dụng nhiệt để bay vút lên đới không khí lạnh ở độ cao lớn. Để bảo tồn năng lượng, các loài chim sa mạc khác chạy thay vì bay. Có loài chim chạy trên mặt đất trên đôi chân dài của mình, dừng định kỳ để bắt côn trùng. Như các loài chim sa mạc khác, nó có khả năng ngụy trang tốt bởi nó có thể ẩn mình vào cảnh quan xung quanh khi đứng yên. Chim ruồi Costa nhỏ bé có thể được tìm thấy trong sa mạc Sonoran và Mojave, chúng có thể thích nghi tốt trong môi trường sa mạc. Chúng có thể thoát khỏi cái nóng của những ngày hè nóng nực bằng cách bay tới các bụi rậm. Khi nhiệt độ ban đêm giảm mạnh, chúng đi vào trạng thái ngủ mê, làm chậm nhịp tim bình thường từ 500-900 nhịp đập mỗi phút xuống 50 nhịp mỗi phút để bảo tồn năng lượng. Bò sát Là động vật máu lạnh, bò sát không thể sống trong hoang mạc lạnh nhưng rất phù hợp với những hoang mạc nóng. Trong cái nóng ban ngày của sa mạc Sahara, nhiệt độ có thể tăng lên . Loài bò sát không thể tồn tại ở nhiệt độ này và thằn lằn sẽ bị gục ngã do nhiệt ở . Chúng ít thích nghi với cuộc sống sa mạc và không thể để làm mát mình bằng cách đổ mồ hôi vì thế chúng cần ẩn nấp tránh cái nắng ban ngày. Trong phần đầu của đêm, khi mặt đất tỏa nhiệt hấp thụ trong ngày, chúng xuất hiện và chuẩn bị săn mồi. Thằn lằn và rắn là nhiều nhất trong các khu vực khô cằn và rắn nhất định đã phát triển một phương pháp di chuyển mới cho phép chúng di chuyển về hai bên và điều hướng các cồn cát cao. Các loài này bao gồm trong chi rắn sừng của châu Phi và Crotalus cerastes của Bắc Mỹ, sự tiến hóa riêng biệt nhưng có các hành vi giống như tiến hóa hội tụ. Nhiều loài bò sát sa mạc là động vật ăn thịt phục kích và thường chôn mình trong cát, chờ đợi con mồi đến trong phạm vi tấn công. Loài rắn độc sừng của sa mạc Sahara di chuyển bằng cách trườn lượn sóng và loài cá cát hay còn gọi là thằn lằn bằng sa mạc thì gần như là bơi. Rắn lao có một kiểu di chuyển không giống ai Để ngăn chặn bị các hạt cát chôn vùi bất cứ lúc nào, nó cong người sang trái, phải hết mức để tăng diện tích tiếp xúc với đất cát, và hình thành nên thói quen vận động nghiêng. Thằn lằn có thể coi là một điển hình sống mãnh liệt, Phần trước tứ chi của nó mở ra thành màng lớn, chống đỡ cho cơ thể đi lại thoải mái trên cát. Khi màn đêm buông xuống, sương mù bao phủ, cơ thể và mắt của thằn lằn liền dùng khả năng tối đa để tập hợp những giọt sương. Ngoài ra cái lưỡi dài của nó còn có thể liếm sương trước mắt rất linh hoạt và khéo léo, giống như cái gạt nước trên ôtô vậy. Về khả năng trữ nước, thằn lằn đuôi vểnh có những đặc điểm để thu gom các giọt nước tối đa. Mỗi khi sương xuống, nó lại bò lên đỉnh cồn cát, quay lưng về phía có sương từ biển thổi tới, đuôi của nó vểnh lên cao, làm cho thân của nó nghiêng sang một bên, khi sương mù gặp cơ thể lạnh buốt của con vật thì sẽ ngưng tụ thành những giọt nước, chạy men theo lưng trượt vào miệng thằn lằn. Kỳ giông Batrachoseps robustus ở sa mạc Mojave. Kỳ giông Batrachoseps campi (tên tiếng Anh: Inyo Mountains Salamander) là một loài kỳ giông. Môi trường sống tự nhiên của loài kỳ giông này trải rộng từ sa mạc Mojave ôn đới tới vùng chuyển tiếp sinh thái cây bụi Artemisia tridentata Great Basin, và các khu vực ven suối nước ngọt ở đó, ở độ cao 490–2.950 mét (1.610–9.680 ft).Batrachoseps campi ăn các loài côn trùng nhỏ. Cự đà sa mạc (Dipsosaurus dorsalis) là một loài thằn lằn trong họ Cự đà (Iguanidae). Rồng cát với lớp da như áo lính này được gọi là rồng cát quân đội. Nó nằm phơi mình trên cát đỏ ở công viên sa mạc Alice Springs của Australia. Mặc dù môi trường khắc nghiệt nhưng sa mạc hình thành hệ sinh thái đa dạng với thực vật và động vật có khả năng thích nghi với điều kiện khô hạn. Lưỡng cư Động vật lưỡng cư có vẻ không phải là cư dân sa mạc, vì chúng cần giữ cho da ẩm và phụ thuộc vào nước cho mục đích sinh sản. Trong thực tế, một số ít loài được tìm thấy trong môi trường sống này đã thực hiện một số sự thích nghi đáng chú ý. Hầu hết trong số đó là fossorial, trải qua những tháng khô nóng ngủ hè trong hang sâu. Trong khi đó chúng lột da nhiều lần và giữ lại các phần da đó xung quanh chúng để làm một lớp không thấm nước như kén để giữ độ ẩm. Trong sa mạc Sonoran, có loài cóc dành phần lớn thời gian trong năm ngủ trong hang của nó. Mưa lớn là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện và đầu tiên con đực tìm một cái ao phù hợp kêu gọi thu hút các con khác. Trứng được đẻ và những con nòng nọc phát triển nhanh chóng khi chúng phải đạt đến biến thái hoàn toàn trước khi nước bốc hơi hết. Khi sa mạc khô đi, con cóc trưởng thành lại chôn mình. Các con con ở lại trên bề mặt trong một thời gian, ăn và lớn lên, nhưng ngay sau đó chúng đào dang vùi mình xuống. Một ít trong số chúng có thể đến tuổi trưởng thành. Loài cóc sa mạc của Namibia là loài sống về đêm và tồn tại nhờ vào độ ẩm của sương muối biển từ Đại Tây Dương. Ễnh ương châu Phi có thể thích nghi với cuộc sống ở sa mạc và thậm chí cả vùng cao nguyên. Chúng có cách đánh bại nhiệt độ khắc nghiệt của sa mạc bằng cách chui sâu vào lòng đất và nằm im bất động, một trạng thái giống như ngủ đông. Chúng bong da ra để tạo thành một cái kén giữ độ ẩm cho cơ thể và hấp thụ nước giữ trong bàng quang. Nó có thể nằm im suốt hơn một năm và vẫn có thể sống sót dù mất tới 38% trọng lượng cơ thể của nó. Khi trời mưa, ễnh ương châu Phi sẽ trở lại bề mặt đất để kiếm ăn và sinh sản. Khác Động vật không xương sống, đặc biệt là các loài động vật chân khớp arthropoda, đã thành công khi sống trong hoang mạc. Ruồi, bọ cánh cứng, kiến, mối, locust, millipede, bò cạp và nhện có các lớp biểu bì cứng, không thấp nước và nhiều trong số chúng đẻ trứng dưới mặt đất và con con phát triển khác xa với nhiệt độ cực cao trên mặt đất. Loài Cataglyphis bombycina sử dụng protein chống sóc nhiệt theo một cách mới và kiếm ăn bên ngoài trong một khoảng thời gian rất ngắn trong ngày. Stenocara dentata ở Namibia đứng trên các chân trước của nó và nâng mai của nó để hứng sương mù buổi sáng ở dạng ngưng tụ, rồi chuyển nước vào miệng của nó. Một số loài chân khớp sử dụng các ao tạm hình thành sau cơn mưa và hoàn thành vòng đời của nó trong vài ngày. Tôm sa mạc thực hiện điều này, xuất hiện "một cách kỳ lạ" trong vũng nước mới được hình thành như những quả trứng đang ngủ nở ra. Những loài khác, chẳng hạn như brine shrimp, Anostraca và Notostraca, được ngừng trao đổi chất và có thể mất đến 92% khối lượng cơ thể của chúng, có thể khôi phục nước ngay sau khi trời mưa và hồ tạm thời của chúng xuất hiện trở lại. Sa mạc Sahara là nơi cư ngụ của loài bọ cạp tử thần chiều dài có thể lên tới gần 4 inch. Nọc độc của chúng chứa những lượng lớn agitoxin và scyllatoxin. Chú thích Tham khảo Mares, Michael A.; Oklahoma Museum of Natural History, eds. (1999). Deserts. University of Oklahoma Press. ISBN 9780806131467. Liên kết ngoài Desert Wildlife Photo Gallery from National Geographic Photo Gallery from Flickr Động vật
VI_open-0000004418
Pets_and_Animals
Outlast (tạm dịch: Lối thoát cuối cùng) là trò chơi điện tử thuộc thể loại kinh dị sinh tồn với góc nhìn thứ nhất được phát triển và phát hành bởi studio Red Barrels đến từ Canada. Outlast kể về cuộc phiêu lưu của nhà báo tự do Miles Upshur đang trên đường khám phá những bí ẩn bên trong một bệnh viện tâm thần nằm sâu tại dãy núi tại Lake County, Colorado. Phiên bản mở rộng của game (DLC), mang tên Whistleblower, đưa người chơi theo chân Waylon Park - người đã gửi thư yêu cầu Miles đến để điều tra sự thật về dự án Walrider. Outlast được phát hành trên hệ máy Microsoft Windows vào ngày 4 tháng 9 năm 2013 và PlayStation 4 vào 4 tháng 2 năm 2014. Outlast trên các nền tảng Linux và OS X cũng đã được ra mắt vào ngày 31 tháng 3 năm 2015. Phiên bản dành cho hệ máy Xbox One được phát hành vào 18 tháng 6 tại các khu vực Bắc Mỹ và châu Âu. Một phiên bản có tựa đề Outlast: Bundle of Terror được ra mắt vào ngày 27 tháng 2 năm 2018 trên hệ máy cầm tay Nintendo Switch, đi kèm với phần hậu truyện của game là Outlast 2. Tựa game đã nhận được nhiều đánh giá tích cực, với lời khen ngợi cho bầu không khí, yếu tố kinh dị và gameplay. , tựa game đã bán được hơn 4 triệu bản. Cũng tính đến tháng 5 năm 2018, series game Outlast đã bán được 15 triệu bản. Phiên bản tiếp theo của tựa game, Outlast 2, đã được phát hành vào ngày 25 tháng 4 năm 2017, và phần thứ ba của loạt game, The Outlast Trials, sẽ được ra mắt vào 2022. The Murkoff Account, một series truyện tranh lấy bối cảnh các sự kiện giữa Outlast và Outlast 2, đã được xuất bản từ tháng 7 năm 2016 đến tháng 11 năm 2017. Lối chơi (Gameplay) trái|nhỏ|Người chơi có thể xác định kẻ thù xung quanh trong bóng đêm bằng chế độ nhìn đêm trong camera. Outlast xoay quanh câu chuyện về cuộc phiêu lưu sinh tồn được kể dưới góc nhìn người thứ nhất, địa điểm là tại bệnh viện tâm thần Mount Massive Asylum đang bị các bệnh nhân điên loạn, khát máu chiếm giữ. Game sử dụng nhiều thủ pháp thường xuất hiện trong phim kinh dị. Nhân vật chính là nhà báo Miles Upshur, một người không có khả năng chiến đấu do đó anh phải luôn tránh né khỏi những mối nguy hiểm. Miles không được cung cấp vũ khí, thay vào đó phải trốn tránh, chạy hoặc ẩn nấp để thoát thân. Người chơi điều khiển nhân vật chính ở góc nhìn thứ nhất, có thể chạy, đi bộ, cúi người, nhảy hoặc leo trèo. Không giống như hầu hết các trò chơi, người chơi không có thanh máu hiển thị trên màn hình và không thể tấn công kẻ thù. Thay vào đó, người chơi phải dựa vào các chiến thuật ẩn nấp như trốn trong tủ khóa, trốn trong bóng tối và ẩn nấp để tồn tại. Nếu người chơi chết, trò chơi sẽ quay về điểm checkpoint gần nhất. Hầu hết các phân cảnh trong khu vực bệnh viện đều không có ánh sáng, và cách duy nhất để người chơi có thể nhìn thấy khi ở trong bóng tối là qua ống kính của máy quay (camera) được trang bị khả năng nhìn ban đêm. Sử dụng chế độ nhìn ban đêm sẽ tiêu hao pin từ từ, và số lượng pin có hạn, buộc người chơi phải tìm kiếm thêm các viên pin bổ sung được tìm thấy trong bệnh viện. Outlast sử dụng nhiều thủ pháp quen thuộc như các đoạn jump scares, và các hiệu ứng âm thanh nhằm thông báo cho người chơi biết rằng kẻ thù đã nhìn thấy họ. Nếu người chơi ghi lại các sự kiện cụ thể bằng máy quay, Miles sẽ viết ghi chú về nó, cung cấp thêm thông tin chi tiết về suy nghĩ của nhân vật chính. Người chơi có thể thu thập các loại tài liệu, cung cấp thông tin cơ bản và thông tin lưu trữ khác về bệnh viện, bao gồm các trang lấy từ nhật ký của bệnh nhân và các báo cáo từ nhân viên bệnh viện. Nội dung câu chuyện được hé mở dần thông qua những tài liệu mà Miles thu thập trong suốt trò chơi. Nhà phát triển Red Barrels đã lấy ý tưởng từ lối chơi sinh tồn trong Amnesia: The Dark Descent để áp dụng vào tựa game. Những bộ phim kinh dị theo thể loại footage như Quarantine hay REC cũng là nguồn cảm hứng lớn của game. Cốt truyện : Nội dung sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của game. Chương 1: Administrative Block (Khu quản trị) Miles Upshur, một nhà báo tự do quyết định đến bệnh viện tâm thần Mount Massive Asylum ở Colorado để điều tra sau khi nhận được một email nặc danh (người gửi tin đó cho Miles là Waylon Park, nhân vật chính của phiên bản DLC Whistleblower). Sau khi vào được bệnh viện và đến khu thư viện, lời chào đầu tiên của bệnh viện này đến Miles là khung cảnh hỗn loạn và máu me. Một đặc nhiệm SWAT đang hấp hối đã nói với anh rằng anh phải ra khỏi bệnh viện này càng sớm càng tốt. Anh phát hiện nhiều đặc nhiệm SWAT đã bị giết chết bởi một nhóm gọi là "Variants". Miles bị Chris Walker - một tên tâm thần với thân hình khổng lồ ném xuống lầu. Sau đó, anh gặp cha xứ Martin Archimbaud khi đang nửa tỉnh nửa mê. Tỉnh dậy, anh phát hiện mình đang kẹt trong bệnh viện và biết được bí mật kinh hoàng khi nhìn thấy các xác chết bị cắt xén của các nhân viên. Sau đó, Miles tìm được thẻ mở phòng an ninh, kích hoạt thiết bị mở cửa chính để thoát ra nhưng cha xứ Martin đã ngắt điện ở tầng hầm. Ở phòng an ninh, anh bị Chris Walker truy sát nhưng đã nhanh trí trốn trong tủ. Khi xuống dưới, Miles đã kích hoạt máy phát điện sau khi bị những kẻ sát nhân tâm thần bị biến dạng truy đuổi (Variants), nhưng mọi chuyện đã không suôn sẻ cho lắm. Khi trở lại phòng an ninh, Miles bị tên cha xứ Martin khống chế, tiêm thuốc và bị đưa vào nhà giam, vì ông không muốn Miles rời khỏi đây quá sớm, và muốn anh ghi lại những sự thật kinh dị của bệnh viện này. Chương 2: Prison Block (Khu nhà tù) Sau khi bị tên cha xứ Martin Archimbaud tiêm thuốc, một thời gian sau, Miles tỉnh lại, và vẫn còn chiếc camera ở đó. Trong nhà tù là những bệnh nhân đã hoá điên và biến dạng qua những thí nghiệm tàn khốc. Những kẻ này đã bị biến đổi hoàn toàn về thể xác và tinh thần, chém giết lẫn nhau và truy sát Miles. Qua khu nhà tù, anh tìm được khu vực Airlock (là thiết bị khử trùng của bệnh viện, khi đi vào đó 2 cửa sẽ đóng lại trước khi sang khu vực tiếp theo). Khu vực này có tác dụng giúp Miles cắt đuôi kẻ thù khi bị truy đuổi. Anh mở khoá được Airlock thứ 2 sau khi bị truy sát, đồng thời gặp hai tên The Twins có khả năng giết người trong im lặng (silent kill). Miles tìm được thẻ an ninh vào khu vực nhà tắm và đã gặp lại The Twins, sau đó bị 2 tên này bao vây nhưng đã trốn thoát. Trong lúc tìm đường ra, anh lạc vào trại giam các bệnh nhân tâm thần và tìm cách ra ngoài. Qua trại giam, anh nghe thấy những tên Variants nói những sự thật điên khùng của bệnh viện và một dòng chữ đầy máu trên tường, thứ họ tôn thờ một cách siêu nhiên - The Walrider. Miles sau đó chui qua đường cống ngầm. Chương 3: Sewer (Cống ngầm) Miles xuống cống ngầm và theo bản đồ, anh tìm ra hai van xả của khu Male Ward (khu nam) và Female Ward (khu nữ) và tắt chúng đi để mở lối xuống phía dưới. Anh đi theo đường cống ngầm các ngóc ngách để đến được khu Male Ward, và kể cả trong cống ngầm cũng là những cảnh máu me, tàn khốc và kinh dị. Và hầu như suốt quá trình này anh đều bị truy đuổi bởi Chris Walker. Thoát khỏi cống ngầm, anh bị vài kẻ tâm thần truy đuổi, sau đó đến được khu bệnh nhân. Chương 4: Male Ward (Khu nam) Tại đây anh bị truy đuổi bởi 3 kẻ tâm thần trước khi anh bị Richard "Rick" Trager - một tay bác sĩ tâm thần thích giải phẫu trên cơ thể con người bắt giữ và dùng kéo cắt đứt 2 ngón tay. Sau khi trốn thoát và bị Rick truy đuổi, Miles cuối cùng tìm được chìa khóa khởi động thang máy, Rick cậy cửa thang máy và tấn công Miles nhưng bị Miles đẩy vào cửa thang máy trong lúc nó hoạt động và chết. Chương 5: Courtyard (Sân sau của bệnh viện) Tại đây anh bị Chris Walker truy đuổi và đã tận mắt chứng kiến thực thể The Walrider. Sau đó, Miles tìm được đường đến khu nữ (Female Ward). Chương 6: Female Ward (Khu nữ) Miles vượt qua khu vực Female Ward (Khu nữ) và gặp lại cha xứ Martin - người đã bảo Miles kiếm đường để lên tầng trên để nói chuyện với ông. Miles tìm ra ba cái cầu chì và kích hoạt lại thang máy. Miles lúc này đang ở tầng 3. Trong lúc nhảy qua một thanh gỗ mục, anh làm rớt máy quay phim xuống tầng 1, vì vậy anh phải trở lại tầng 1 để tìm lại camera và tìm cách quay lại tầng 3. Miles tiếp tục bị truy đuổi, sau đó anh đã quay trở lại khu quản trị một lần nữa. Chương 7: Return to Administrative Block (Trở lại khu quản trị) Miles đến được hội trường, nơi anh được xem cuộn phim tài liệu đồng thời phát hiện ra The Walrider (một linh hồn tà ác cai quản bệnh viện này) được tạo ra bởi Dr. Rudolf Gustav Wernicke. Miles tìm được cha xứ Martin tại nhà cầu nguyện, Martin trao cho Miles chìa khóa thang máy chính của tòa nhà, sau đó ông tự thiêu. Sau khi ghi lại cảnh cha xứ Martin tự thiêu, Miles dùng chìa khóa nhằm thoát ra khỏi bệnh viện nhưng thang máy lại đưa anh xuống phòng thí nghiệm ngay bên dưới tòa nhà. Chương 8: Underground Labs (Phòng thí nghiệm dưới lòng đất) Miles đối mặt với thực thể The Walrider, anh tháo chạy và bị Chris Walker bắt nhưng hắn đã bị The Walrider giết. Miles tiếp tục chạy và gặp được Dr. Rudolf Gustav Wernicke. Anh biết được The Walrider là kết quả của thí nghiệm nano hóa não bộ con người. The Walrider chính là linh hồn tà ác của Billy Hope - kẻ luôn tin Rudolf Gustav Wernicke là cha hắn. Miles muốn thoát khỏi nơi này thì buộc phải giết được Billy. Sau đó Miles vô hiệu hoá được thiết bị Morphogenic để giết Billy, nhưng ngay sau đó, anh bị The Walrider tóm được. Khi Walrider bị vô hiệu hóa, phần khí sinh nano cấu tạo nên Walrider đã hấp thụ vào Miles và biến Miles thành vật chủ thí nghiệm thay cho Billy (đã chết). Bị thương rất nặng, anh cố gắng lê lết để ra khỏi phòng thí nghiệm. Phân cảnh cuối cùng, khi Miles ra được khỏi phòng thí nghiệm sau khi giết Billy, anh bị một toán lính dẫn đầu bởi Dr. Wernicke bắn liên tục vào người, vì lực lượng cảnh sát đã xông vào bệnh viện theo lệnh của Chính phủ yêu cầu giết bất cứ ai còn sống sót. Miles ngã gục. Nhưng khi Miles gục xuống sau khi bị bắn, Dr. Wernicke chợt nhận ra là Miles đã trở thành vật chủ mới của The Walrider. Cuối cùng, Miles trở thành Walrider, xông ra và giết chết bọn lính của Wernicke. Bằng chứng là câu nói của Wernicke: "God in Himel. You have become the host" (tạm dịch "Ôi Chúa ơi, anh đã trở thành vật chủ") và tiếng hét của bọn lính khi bị Miles giết - lúc này là Walrider - tấn công. Độ khó (Difficulty) Outlast có 4 độ khó là Normal (Bình thường), Hard (Khó), Nightmare (Ác mộng), Insane (Điên cuồng). Cứ sau mỗi độ khó, thời lượng pin sẽ thấp đi, kẻ thù sẽ xuất hiện thường xuyên hơn, tấn công mạnh hơn, người chơi sẽ tạo ra nhiều tiếng động hơn, cũng như việc kẻ địch sẽ dễ phát hiện ra người chơi hơn. Từ chế độ Nightmare (Ác mộng) trở đi, người chơi chỉ có thể thu thập tối đa 2 cục pin dự phòng (tối đa 10 và 5 cục với 2 độ khó đầu) cùng thời lượng pin khá ngắn, hơn nữa người chơi chỉ có thể chịu được vài đòn tấn công của kẻ thù trước khi chết. Chế độ Insane là chế độ khó nhất, bởi lúc này, kẻ thù rất mạnh. Những nhân vật như Chris Walker, Trager hay The Twins chỉ cần tấn công thì người chơi sẽ chết. Hơn nữa, chế độ này không có checkpoint để lưu game như 3 chế độ còn lại, buộc người chơi phải hoàn thành toàn bộ game chỉ với 1 mạng duy nhất (permanent death hay permadeath). Nếu người chơi chết ở bất cứ thời điểm nào trong độ khó này, thì sẽ buộc phải chơi lại từ đầu. Nếu muốn vượt qua chế độ cực khó (Insane), người chơi có thể tham khảo một số video trên YouTube của một số game thủ như PowerPyx, PS4Trophies,... Bảng so sánh độ khó Thành tựu trong game (Achievements) Lưu ý: Các thành tựu sau đây chỉ xuất hiện trên các hệ máy Xbox hoặc PlayStation. - Thành tựu chính (bản chính) + Educated (Hiểu biết): Thu thập được 15 cuốn tài liệu và ghi lại 15 sự kiện bằng máy quay bất kì trong game + Punished (Trừng phạt): Hoàn thành game ở bất kì chế độ nào + Pulitzer (Nhà báo lỗi lạc): Thu thập toàn bộ 31 cuốn tài liệu và ghi lại toàn bộ 31 sự kiện bằng máy quay trong game. + Lunatic (Điên cuồng): Hoàn thành game ở chế độ Điên cuồng (Insane) + Claustrophobe (Nỗi sợ giam hãm): Hoàn thành game mà không phải lẩn tránh kẻ thù 1 lần nào bằng cách nấp dưới gầm giường hay trốn trong tủ. + Energiser (Nhà báo năng động): Hoàn thành game ở chế độ Điên cuồng (Insane) mà không cần phải nạp lại pin cho máy quay. - Thành tựu phụ + Illuminated (Truyền dẫn): Bật lại máy phát điện ở tầng hầm. + Flushed (Thông tắc): Vượt qua khu vực Cống ngầm + Sprinkler (Dập lửa): Bật van nước dập đám cháy ở khu nam (Male Ward) + Emancipated (Phóng thích): Tìm ra chìa khóa mở cửa thang máy ở khu nữ (Female Ward) + Elevator Operator (Điều khiển thang máy): Khởi động thang máy chính ở phần đầu và đẩy bệnh nhân trong thang máy rơi xuống trục thang máy. - Thành tựu chính: Bản DLC: Whistleblower + Legacy (Luật pháp): Ghi lại toàn bộ sự kiện trong game bằng máy quay + Bowelwhistler (Tố cáo): Hoàn thành game ở chế độ Điên cuồng (Insane) + Whistleblower (Người tố giác): Hoàn thanh game ở bất kỳ độ khó nào + Archivist (Người thu thập): Thu thập toàn bộ tài liệu. - Thành tựu phụ: + Gas Leaker (Rò rỉ khí gas): Tắt van khí gas ở gần khu vực Decotamination Chamber + Shocker (Giật điện): Ngắt điện ở kho điện của khu thí nghiệm. Âm nhạc và âm thanh Phần lớn âm nhạc trong game góp phần tạo hiệu ứng kinh dị cho trò chơi. Phần âm thanh được phụ trách bởi Samual Laflamme. Âm thanh càng trở nên dồn dập mỗi khi Miles bị những kẻ tâm thần truy đuổi. Ngoài ra, những âm thanh môi trường xung quanh cũng được mô tả khá chi tiết. Nhân vật và diễn viên lồng tiếng cho Outlast Gói nội dung tải về (DLC): Whistleblower Phiên bản mở rộng (DLC) của game, Outlast: Whistleblower, được xem như là phần mở rộng của phiên bản gốc. Cốt truyện kể về Waylon Park, người đã gửi mail nặc danh cho Miles Upshur. Bản DLC được phát hành cho nền tảng Windows vào ngày 6 tháng 5 năm 2014, cho Xbox One vào ngày 18 tháng 6 năm 2014, cho PlayStation 4 vào ngày 6 tháng 5 năm 2014 tại Bắc Mỹ và 7 tháng 5 năm 2014 tại châu Âu. Cốt truyện : Nội dung sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của game.Trước thời điểm Outlast diễn ra, nhân vật chính trong cốt truyện của Outlast: Whistleblower là Waylon Park, một nhân viên phần mềm đang làm việc cho công ty Murkoff. Nhân vật này được tiếp xúc với hệ thống Morphogenic và các thí nghiệm điên rồ của công ty, về sau Waylon còn được một nhân vật lấy tên là "The Whistleblower" đưa cho những thông tin bí mật của Murkoff. Bản thân Waylon bị cấm nói chuyện với vợ con khi làm việc tại viện tâm thần núi Massive, sợ hãi và bối rối, anh ta đã tìm cách gửi một email nặc danh cho nhà báo Miles Upshur để lôi vụ này ra ánh sáng, một lần và mãi mãi. Không may cho Waylon là hành động này đã bị sếp của mình là Jeremy Blaire (1 giám đốc cấp cao trong tập đoàn Murkoff) phát hiện, anh ta bị đánh ngất và bị bắt biến thành vật thí nghiệm cho The Walrider nhằm mục đích trừng phạt. Đúng vào lúc đó, The Walrider đã thoát ra khỏi cơ thể của vật chủ Billy Hope và bắt đầu cuộc đại thảm sát để trả thù tất cả nhân viên và bệnh nhân bên trong viện. Hệ thống điện của máy chủ Morphogenic bị ảnh hưởng khiến cho Waylon có thể thoát ra khỏi phòng của mình. Do tình hình bên trong viện quá hỗn loạn, anh quyết định sẽ tìm cách liên lạc với bên ngoài để gọi người tới giải cứu. Chạy trốn khỏi các bệnh nhân điên loạn trong viện, Waylon đụng mặt với Frank Manera – một gã điên làm việc trong đội ngũ nghiên cứu của Murkoff. Frank Manera là một kẻ biến thái và có vấn đề về thần kinh nghiêm trọng, mong ước lớn nhất của gã là được ăn thịt người. Đây là nhân vật phản diện chính trong cốt truyện của Outlast: Whistleblower. Tuy có ám ảnh bệnh hoạn về việc ăn thịt người, nhưng không hiểu sao Frank lại xem Waylon khác với phần còn lại khi miêu tả anh ta là một mẫu vật: "rực rỡ và hoành tráng". Frank tìm mọi cách để giết Waylon, kể cả việc ném anh vào lò thiêu hoặc xé xác bằng cưa máy. Sau khi chạy thoát khỏi Frank, Waylon may mắn tìm được một chiếc radio bộ đàm nhưng không may bị Jeremy Blaire phá hủy, với lời đe dọa "không ai có thể mang các bí mật trong viện tâm thần núi Massive ra ngoài". Jeremy Blaire bỏ mặc Waylon lại với tên khổng lồ Chris Walker (nhân vật phản diện chính trong Outlast), nhưng rất may là Waylon lại trốn thoát một lần nữa. Chạy trốn đến khu vực dành cho bệnh nhân nữ, Waylon bị một bệnh nhân khác có tên Dennis bắt giữ và đưa đi như một vật hiến tế giành cho một kẻ bí ẩn mang danh "The Groom". Trong cốt truyện Outlast: Whistleblower thì "The Groom" là biệt hiệu của Eddie Gluskin – một bệnh nhân trong viện tâm thần núi Massive. Eddie Gluskin là một gã kỳ quặc, hắn có tiền sử bị lạm dụng tình dục bởi bố và chú ruột, dẫn đến việc lớn lên với những chứng khủng hoảng về tâm lý và giới tính. Khi thảm họa The Walrider xảy ra, do hậu quả của các vụ lạm dụng tình dục từ bé nên Gluskin trở nên ám ảnh với phụ nữ, do đó hắn đi săn lùng các bệnh nhân nam để bắt họ "kết hôn" với mình, để rồi sau đó giết chết tất cả "cô dâu" của mình trước khi... thiến họ. Waylon cũng bị Gluskin chuẩn bị giết nhưng vào giây phút cuối cùng, Gluskin đã bị một bệnh nhân khác tấn công và để xổng mất con mồi. Waylon chạy tới một sảnh chứa dụng cụ thể thao với hàng đống xác "cô dâu" của Gluskin bị treo lủng lẳng trên trần nhà. Tên điên này đuổi kịp và hai người giằng co với nhau. Trong lúc chống cự, Waylon đã khiến cho những sợi dây còn thừa gần đó cuốn lấy Gluskin và vô tình siết chặt hắn ta tới chết, giải thoát cho chính bản thân mình. Cuộc giằng co với Gluskin cũng khiến một mảng tường của hội trường đổ sập xuống, vừa đủ cho Waylon nhận ra đội đặc nhiệm phản ứng nhanh của công ty Murkoff đã đổ bộ vào viện, đang truy lùng và tiêu diệt bất cứ ai gặp trên đường để bịt đầu mối. May mắn cho Waylon là những người đã bị The Walrider nhắm tới và chính họ mới là con mồi tại đây, nó giúp cho anh ấy có đủ thời gian để trốn ra đại sảnh ở sân trước. Tại đây Waylon bắt gặp Jeremy Blaire đang bị thương nặng nằm chờ chết. Hắn ta van xin Waylon cứu mình, nhưng khi Waylon vừa cúi xuống thì đã bị Blaire dùng một mảnh kính vỡ đâm vào bụng. Blaire nhất quyết không để một ai còn sống sót rời khỏi viện tâm thần Massive và mọi bí mật tại đây phải được chôn vùi. Nhưng trước khi Blaire kịp đâm Waylon thêm nhiều nhát thì hắn đã bị The Walrider giết chết. Đây cũng chính là lúc The Walrider đang trong quá trình chuyển đổi vật chủ từ Billy sang anh chàng phóng viên Miles Upshur, nên Waylon may mắn không bị thực thể này để ý tới. Waylon chạy thẳng ra sân trước, nơi chiếc xe của Miles đang đỗ. Anh nhanh chóng ngồi vào trong xe và chứng kiến Miles Upshur từ từ bước ra khỏi viện tâm thần, xung quanh thân bao bọc một làn sương mù màu đen (biểu hiện của The Walrider đã nhận vật chủ mới). Waylon lái xe thẳng ra khỏi viện tâm thần núi Massive, cảnh tượng cuối cùng anh ta chứng kiến là Miles đang đi tới cổng chính. Ở phân đoạn cuối cùng, Waylon hồi phục và liên lạc được với tổ chức đã đưa cho anh ta thông tin bí mật tại viện tâm thần núi Massive. Waylon tổng hợp lại tất cả các thông tin mình có được và quyết được sẽ đưa nó lên mạng. Một người đàn ông của tổ chức Whistleblower cảnh báo với Waylon rằng số thông tin này có sức nặng đủ để làm ảnh hưởng đến toàn bộ công ty Murkoff nhưng chắc chắn họ sẽ tìm ra và trả thù Waylon, kể cả các thành viên trong gia đình anh. Bất chấp những điều đó, Waylon Park vẫn nhấn nút upload. Outlast: Whistleblower khép lại với cảnh Waylon đóng chiếc laptop sau khi đã đưa toàn bộ dữ liệu lên internet, bỏ ngỏ rất nhiều bí ẩn về công ty Murkoff và bí ẩn The Walrider vẫn chưa có lời giải, cũng như số phận của nhân vật Waylon Park sau khi đăng tải số tài liệu mật của công ty Murkoff lên mạng internet. Phát hành Outlast được phát hành vào ngày 4 tháng 9 năm 2013 dưới dạng tải xuống thông qua Steam và vào 4 tháng 2 năm 2014 cho hệ máy PlayStation 4 dưới dạng miễn phí dành cho người dùng PlayStation Plus. Phiên bản mở rộng, Outlast: Whistleblower, đóng vai trò phiên bản tiền truyện của tựa game gốc. Phiên bản dành cho hệ Microsoft Windows của Whistleblower được phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2014 trên toàn thế giới, và phiên bản dành cho PlayStation 4 được phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2014 tại Bắc Mỹ và vào ngày 7 tháng 5 năm 2014 tại Châu Âu. Phiên bản dành cho hệ máy Xbox One được phát hành vào 18 tháng 6 tại các khu vực Bắc Mỹ và châu Âu. Phiên bản dành cho Linux và OS X được phát hành sau đó vào ngày 31 tháng 3 năm 2015. Vào tháng 12 năm 2017, Red Barrels thông báo rằng Outlast, bao gồm cả phiên bản mở rộng Whistleblower và phần thứ hai, Outlast 2, sẽ được ra mắt cho hệ Nintendo Switch vào đầu năm 2018. Phiên bản này được phát hành bất ngờ vào ngày 27 tháng 2 năm 2018, với tựa đề Outlast: Bundle of Terror, được phát hành trên Nintendo eShop. Tiếp nhận , Outlast đã bán được hơn 4 triệu bản. Outlast đã nhận được nhiều đánh giá tích cực. Chuyên trang đánh giá Metacritic đã chấm phiên bản trên Xbox One 80/100 điểm dựa trên 6 bài đánh giá, phiên bản trên Microsoft Windows 80/100 điểm dựa trên 59 bài đánh giá, và phiên bản trên PlayStation 4 78/100 điểm dựa trên 33 bài đánh giá. Game đã nhận được một số danh hiệu và giải thưởng từ E3 2013, bao gồm "Most Likely to Make you Faint", và một trong những tựa game "Best of E3". Trang web về game trên PC Rock, Paper, Shotgun đã đánh giá Outlast tích cực, cho rằng "Outlast không phải là một thử nghiệm về cách một trò chơi có thể đáng sợ đến mức nào, mà đây là một ví dụ." Marty Sliva của IGN chấm tựa game 7.8 điểm, ca ngợi các yếu tố kinh dị và lối chơi trong khi chỉ trích một vài yếu tố về môi trường và mô hình nhân vật. GameSpot đã dành những đánh giá tích cực về trò chơi cũng như cho rằng "Outlast thực sự không phải là một trò chơi thiên về kỹ năng, và hóa ra điều đó hoàn toàn hợp lý. Bạn chẳng phải là cảnh sát, hay một người lính, hay một siêu anh hùng. Bạn chỉ là một gã phóng viên mà thôi. Và với tư cách là một phóng viên, bạn chẳng thể có được những kỹ năng để chống lại những gã thô bạo, những kẻ rình rập luôn lăm le trên tay con dao, hay những kẻ cuồng giết người khác ẩn náu trong các hành lang của trại thương điên Mount Massive Asylum đổ nát. Bạn không thể bắn chúng, đấm chúng, hay lấy ống nước để đánh chúng. Bạn chỉ có thể chạy và ẩn nấp mà thôi". Phiên bản tiếp theo Vào ngày 23 tháng 10 năm 2014, trong một cuộc phỏng vấn với trang tin Bloody Disgusting, Red Barrels tiết lộ rằng từ thành công của Outlast, một phần tiếp theo của dòng game đang được phát triển. Ban đầu game được dự định phát hành vào cuối năm 2016, nhưng đã bị trì hoãn đến đầu năm 2017 do các trục trặc trong quá trình phát triển. Sau đó, ngày phát hành của game tiếp tục được đẩy sang quý 2 năm 2017 thay vì quý 1 năm 2017 như dự kiến ban đầu. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2017, Red Barrels thông báo rằng một gói các game có tên là Outlast Trinity sẽ được phát hành cho Xbox One và PlayStation 4 vào ngày 25 tháng 4. Phần tiếp theo của tựa game, Outlast 2, đã được phát hành dưới dạng tải về cho Microsoft Windows, PlayStation 4 và Xbox One vào ngày 25 tháng 4 năm 2017; và cho Nintendo Switch, vào tháng 2 năm 2018 (đi kèm với phiên bản game Outlast đầu tiên). Nó diễn ra trong cùng một vũ trụ với trò chơi đầu tiên, nhưng có cốt truyện mới cùng các nhân vật khác nhau, và lấy bối cảnh ở sa mạc Arizona. Outlast 3 đã được công bố vào tháng 12 năm 2017, mặc dù không có khoảng thời gian phát hành hay nền tảng nào được xác nhận. Trong thông báo này, Red Barrels nói rằng vì họ cảm thấy khó khăn khi phát hành thêm một phiên bản mở rộng cho Outlast 2, họ đã có một dự án riêng biệt và nhỏ hơn liên quan đến Outlast sẽ được phát hành trước Outlast 3. Dự án này được giới thiệu vào tháng 10 năm 2019, và là phần tiền truyện của Outlast 2, có tên The Outlast Trials, và là một tựa game kinh dị lấy bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Trò chơi đang trong giai đoạn phát triển, với ngày phát hành được ấn định là vào năm 2022. Tham khảo Trò chơi điện tử năm 2013 Trò chơi điện tử kinh dị Trò chơi trên macOS Trò chơi trên Windows Trò chơi điện tử có bản mở rộng Trò chơi trên Linux Trò chơi PlayStation 4 Trò chơi Xbox One
VI_open-0000004421
Games
Vạn niên thanh trong tiếng Việt có thể hiểu là tên hoặc dịch nghĩa tên của một số loài thực vật: Rohdea japonica: có tên gọi dịch nghĩa từ tiếng Trung Quốc sang là vạn niên thanh (giản thể: 万年青; phồn thể: 萬年青, nghĩa đen là "thường xanh"). Aglaonema: chi minh ty, thô lặc thảo (粗肋草), quảng đông vạn niên thanh chúc (广东万年青属). Aglaonema simplex: vạn niên thanh, minh ty đơn. Epipremnum aureum: trầu bà vàng, vạn niên thanh.
VI_open-0000004423
Business_and_Industrial
Bois-du-Luc là một trong những mỏ than lâu đời nhất tại Bỉ. Nó nằm ở thị trấn Houdeng-Aimeries của La Louvière và không còn hoạt động từ năm 1973. Các khu nhà được xây dựng từ năm 1838 đến 1853. Hiện nay, mỏ than đã được phục hồi và trở thành một tài sản văn hóa quan trọng. Năm 2012, cùng với ba mỏ than khác, Bois-du-Luc chính thức trở thành một phần của Di sản thế giới của UNESCO dưới tên gọi Khu mỏ chính ở Wallonia. Vị trí Khu mỏ này nằm tại trung tâm của tỉnh Hainaut, giữa thành phố Mons và Charleroi. Ngoài ra, nơi đây cũng là trung tâm của vùng than trải dài từ khu vực Borinage tới Basse Sambre. La Louvière là trung tâm của mỏ than. Bắt đầu từ con số không vào năm 1869, thành phố này phát triển chóng mặt với sự thúc đẩy của công nghiệp hóa. Sự kết hợp nhờ vào nhiều yếu tố, trong đó có cả than đá, giao thông vận tải, vốn, gia tăng dân số và cả công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp. Tuy nhiên, ngành khai thác than ở đây đã tàn lụi ở giai đoạn nửa sau của thế kỷ 20, nhưng nhờ có nó mà các ngành công nghiệp khác như thủy tinh, gốm sứ, cơ khí, thực phẩm, dệt đã phát triển theo. Lịch sử hoạt động Bois-du-Luc là nơi bao gồm tất cả những thành tựu kỹ thuật và xã hội có được ở một mỏ than tại Bỉ. Hệ thống thoát nước ở mỏ than tồn tại từ năm 1685. Mỏ than cũng đã sử dụng công nghệ máy hơi nước Thomas Newcomen để có thể bơm nước ở độ sâu 112 mét. Chính sự ra đời của công nghệ này là con đường để Bois-du-Luc liên tục hiện đại hóa các thiết bị, bao gồm cả việc sử dụng Động cơ hơi nước Watt, thang máy, búa đinh, điện... Đến năm 1973, mỏ than chính thức ngừng hoạt động. Tài sản Một thành phố mỏ được xây dựng vào năm 1838 nhằm thu hút lực lượng lao động cần thiết với việc đầy hứa hẹn khi bắt đầu việc khai thác ở Saint-Emmanuel. Ý tưởng của thành phố chính được lấy từ Henri De Gorge xây dựng Grand Hornu. Các tòa nhà ở đây bao gồm cơ sở giáo dục, y tế, tôn giáo, văn hóa. Khu vực văn phòng bao gồm phòng của giám đốc, nhân viên, phòng hội thảo. Các cơ sở phụ trợ khác bao gồm tòa nhà cho các thợ cả, phòng đèn và nhà tắm cho nam. Lò giếng đứng được hỗ trợ bằng khung tời được xây dựng năm 1913, nằm dải rác là các đống xỉ than. Hình ảnh Tham khảo Pourbaix Robert (Abbé R.), Découvrir Bois-du-Luc, Souvenir vivant de l'industrie charbonnière, Éditions du Babos, s. l., s. d. Pourbaix Robert (Abbé R.), La grande histoire d'un petit peuple – Les charbonniers de Bois-du-Luc, Fédération de Tourisme du Hainaut, 1983. Bois-du-Luc, un écrin majestueux où la vie des mineurs se raconte, Guide - Ecomusée régional du Centre, 2004, 98 p. Jacques Liébin et Evelyne Masure-Hannecart, Bois-du-Luc: un site charbonnier du , éd. Pierre Mardaga, coll. "Musées vivants de Wallonie et de Bruxelles", 1987 Liên kết ngoài Écomusée du Bois-du-Luc Site sur l'histoire du Bois-du-Luc et des charbonnages en Belgique Monographie de l'ancienne commune d'Houdeng-Aimeries comprenant une description détaillée du Bois-du-Luc Mỏ than Bỉ Di sản thế giới tại Bỉ Bảo tàng ở Hainaut La Louvière Viện bảo tàng công nghiệp ở Bỉ Viện bảo tàng khai thác mỏ
VI_open-0000004426
Business_and_Industrial
"Quelque chose dans mon cœur" (dịch nghĩa: "Điều gì đó trong trái tim tôi") là một bài hát năm 1987 của ca sĩ  Elsa Lunghini. Phát hành tháng 12 năm 1987, bài hát này là đĩa đơn đầu tiên của album đầu tiên Elsa của cô. Bài hát thành công lớn tại Pháp khi leo đến vị trí thứ hai của bảng xếp hạng. Bối cảnh Lời bài hát do Pierre Grosz viết. Âm nhạc được Vincent-Marie Bouvot và Georges Lunghini, cha Elsa, sáng tác. Georges cũng sáng tác tất cả các ca khúc trong album đầu tay của cô. Trong hai câu thứ hai của bài hát, Elsa đề cập đến các nữ diễn viên Ava Gardner, người mà cô cảm thấy cuốn hút. Với "rất nhiều cung bậc cảm xúc nhạy cảm", bài hát mô tả "giai đoạn quan trọng từ thời thơ ấu đến tuổi vị thành niên", bị giằng xé giữa mong muốn trở thành một người lớn và nỗi sợ hãi về cái không biết. Các mối quan hệ với cha mẹ và bạn bè cũng được nhắc đến. Bảng xếp hạng Tại Pháp, bài hát này cũng thành công như đĩa đơn trước đó - "T'en va pas" - nhưng đã không đứng đầu bảng xếp hạng (Boys (Summertime Love)" của Sabrina Salerno là bài đứng số 1). Khởi đầu bài hát đứng vị trí số 46 trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Pháp vào ngày 19 tháng 12 năm 1987, vào trong top 10 5 tuần sau đó, và ở đó trong 11 tuần, đạt mức cao nhất thứ hai vào ngày 27 tháng 2 năm 1988. Bài hát ở top 50 được 24 tuần liên tục. Năm 1988, đĩa đơn này đã được chứng nhận đĩa vàng bởi SNEP, với trên 500.000 đĩa đã bán. Thống kê và chứng nhận Tham khảo Đĩa đơn năm 1987 Bài hát năm 1987 Đĩa đơn năm 1988
VI_open-0000004430
Arts_and_Entertainment
Giacôbê Lê Văn Mẫn (1922 – 2001) là một linh mục được bí mật tấn phong Giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông được Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền tấn phong giám mục vào năm 1984, làm Giám mục Phụ tá cho Tổng giáo phận Huế. Ông được nhiều người biết đến qua vai trò là linh mục Tổng đại diện và Giám quản giáo phận Huế từ năm 1990 đến 1994. Tu tập Giám mục Lê Văn Mẫn sinh ngày 18 tháng 1 năm 1922 tại Thạch Hãn, nay thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng giáo phận Huế trong một gia đình trí thức. Thân phụ ông là ông Antôn Lê Văn Thu, mẹ là bà Cêcilia Lê Thị Hợi. Ông là con trai duy nhất và có 5 chị em gái. Thứ tự anh em giám mục Lê Văn Mẫn: Lê Thị Búp, Lê Thị Hường (nữ tu), Lê Thị Hoạt, Lê Thị Cần (nữ tu), Lê Văn Mẫn (giám mục), Lê Thị Nhàn. Ông được cử hành nghi thức Rửa Tội vào ngày 23 tháng 1 năm 1922 tại nhà thờ Thạch Hãn. Năm 1933, cậu bé Lê Văn Mẫn được linh mục Đa Minh Trần Văn Phát giới thiệu vào tu học tại Tiểu Chủng viện An Ninh (Cửa Tùng, Quảng Trị). Khi đó, cậu mới 11 tuổi. Năm 1943, cậu tiếp tục nhập học tại Đại Chủng viện Phú Xuân (Kim Long), Huế. Linh mục Phó tế Lê Văn Mẫn được thụ phong Linh mục ngày 8 tháng 6 năm 1951. Sau khi được truyền chức linh mục, ông được bổ nhiệm làm giáo sư dạy Toán tại Tiểu Chủng viện An Ninh (Cửa Tùng, Quảng Trị), tại Phú Xuân (Kim Long) và 11 Đống Đa, Huế cho đến năm 1966. Ngoài việc giảng dạy, ông còn là quản lý Tiểu Chủng viện. Từ ngày 25 tháng 4 năm 1966 đến năm 1975, linh mục Mẫn đảm nhận vai trò Giám đốc Caritas. Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông thay mặt Tổng giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền làm Bề Trên các Dòng Nữ thuộc Tổng giáo phận Huế. Dưới thời Tổng giám mục Điền, linh mục Mẫn quản lý tiền bạc, tài sản của Giáo phận Huế. Tháng 4 năm 1984, linh mục Lê Văn Mẫn được bổ nhiệm làm Tổng Đại diện Tổng giáo phận Huế thay thế Linh mục Stanislaô Nguyễn Văn Ngọc. Giám mục thầm lặng Ngày 13 tháng 4 năm 1984, linh mục Lê Văn Mẫn được Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền bí mật phong chức Giám mục. Sau khi Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền qua đời ngày 8 tháng 6 năm 1988, một số linh mục ở Huế có việc vào Sàigòn đã thừa nhận việc phong chức trên và còn nói không ai dám xác nhận. Chính quyền Huế và ban Tôn Giáo Trung ương có hỏi Linh mục Mẫn, ông nói: "Không có chuyện đó". Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn hỏi ông và nhận cùng câu trả lời, đến Hồng y Roger Etchegaray (Chủ tịch Ủy ban Công Lý và Hòa Bình) từ Roma đến Việt Nam, cũng hỏi và nhận được câu trả lời tương tự. Sách Hội đồng Giám mục Việt Nam 1980-2001 do Trần Anh Dũng chủ biên cho rằng Giám mục Lê Văn Mẫn được truyền chức giám mục nhưng không được Nhà nước Việt Nam công nhận, do đó khi Hồng y Etchegaray đến thăm Tổng giáo phận Huế năm 1989, Tổng giáo phận này trên thực tế không có giám mục chính thức, vì ngoài Giám mục Mẫn, Tổng giám mục phó Stêphanô Nguyễn Như Thể đã từ nhiệm. Với lý do không liên lạc với Tòa Thánh được nên Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã dùng quyền của giám mục truyền chức cho ông. Việc truyền chức gặp hai điều khó khăn là phong chức giám mục trước khi được Tòa Thánh chấp thuận và chưa xin phép chính quyền. Khắp nơi trong Giáo phận Huế đều biết chuyện này. Chính quyền cũng biết, Tòa Thánh cũng nghe nói đến. Sách Niên giám Công giáo Việt Nam 2016 cho rằng việc chọn giám mục Lê Văn Mẫn chưa trình báo Tòa Thánh nên không liệt kê ông vào hàng ngũ các giám mục Công giáo người Việt. Từ năm 1990 đến năm 1994, Lê Văn Mẫn đảm trách vai trò Giám quản Tổng giáo phận Huế. Trong bút tích của Tổng giám mục Phanxicô Nguyễn Văn Thuận về việc hỗ trợ việc tìm ngân khoản tái thiết khu vực La Vang, tổng giám mục Thuận gọi Giám quản Mẫn là Đức Cha Giám quản (''DC Giám quản (sic)). Năm 2001, kỷ niệm 50 năm linh mục của ông được tổ chức đơn giản tại Huế. Ông qua đời sáng ngày 7 tháng 12 năm 2001, thọ 80 tuổi, an táng tại núi Thiên Thai, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Tông truyền Giám mục Giacôbê Lê Văn Mẫn được tấn phong năm 1984, dưới thời Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bởi: Giám mục chủ phong: Philípphê Nguyễn Kim Điền, Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Xem thêm Đa Minh Đinh Huy Quảng, Giám mục được tấn phong thầm lặng. Tham khảo Liên kết ngoài THÁNH LỄ AN TÁNG ĐỨC GIACÔBÊ LÊ VĂN MẪN Sinh năm 1922 Mất năm 2001 Người Quảng Trị Giám mục Công giáo người Việt Người họ Lê tại Việt Nam
VI_open-0000004432
People_and_Society
Lúcio Marçal Ferreira Ribeiro Lima Costa (27 tháng 2 năm 1902 – 13 tháng 6 năm 1998) là một kiến trúc sư và quy hoạch đô thị người Brazil, người được biết đến thông qua kế hoạch quy hoạch tại thành phố Brasilia. Cuộc đời và sự nghiệp Ông sinh ra tại Toulon, Pháp, trong một gia đình có cả bố và mẹ đều là người Brazil. Cha của ông là Joaquim Ribeiro da Costa, một kỹ sư hải quân đến từ Salvador, trong khi mẹ ông Alina Ferreira da Costa là người từ Manaus. Ông được đào tạo tại Trường chuyên Hoàng gia, Newcastle upon Tyne ở Anh và sau đó là Trường Đại học Quốc gia ở Montreux, Thụy Sĩ. Ông tốt nghiệp như là một kiến trúc sư vào năm 1924 tại trường Mỹ thuật Quốc gia (thuộc Đại học Liên bang Rio de Janeiro) ở Rio de Janeiro. Sau một số công trình đầu theo phong cách chiết trung, ông đã theo chủ nghĩa hiện đại vào năm 1929. Năm 1930, ông có mối quan hệ đối tác với Gregori Warchavchik, một kiến trúc sư người Brazil nhưng sinh ra ở Nga, sau đó ông trở thành giám đốc của Trường Mỹ thuật Quốc gia nơi mà ông đã học. Mặc dù ông thấy các sinh viên mong muốn được giảng dạy những phong cách mới mẻ nhưng sự phản đối của chính quyền khiến ông phải từ chức sau một năm. Sau đó ông làm tại Viện Di sản lịch sử và Nghệ thuật Quốc gia Brazil (IPHAN) vào năm 1937, rồi trở thành Giám đốc của IPHAN. Ông quan tâm đến kiến trúc truyền thống Brazil và kỹ thuật xây dựng hiện đại, đặc biệt là các tác phẩm của Le Corbusier. Ông đã có nhiều tác phẩm đáng chú ý như Khu gian hàng của Brazil tại Triển lãm thế giới New York 1939 (thiết kế cùng với Oscar Niemeyer), tổ hợp dân cư Parque Guinle tại Rio de Janeiro năm 1948, khách sạn và công viên São Clemente ở Nova Friburgo năm 1948. Trong số các công trình quan trọng của ông phải kể đến tòa nhà Gustavo Capanema Palace tại Rio de Janeiro (1936-1943), tác phẩm được thiết kế cùng Oscar Niemeyer, Roberto Burle Marx cùng một số người khác, được đánh giá bởi Le Corbusier; và Dự án thí điểm ở Brasilia, nơi mà bản thiết kế của ông đã giành chiến thắng vào năm 1957. Từ năm 1938 đến 1954, ông dạy hình học và vẽ tại Trường Nghệ thuật và Thủ công Mỹ nghệ São Paulo, ngôi trường có liên kết với Đại học Coimbra, nơi mà ông đã dạy đến năm 1966. Ông đã giành được huy chương và bằng khen của chính phủ Bồ Đào Nha cho những đóng góp của ông. Tham khảo Sinh năm 1902 Kiến trúc sư Brasil Người Brasil gốc Bồ Đào Nha Người Brasil gốc Pháp Mất năm 1998
VI_open-0000004433
Arts_and_Entertainment
Hồ Hart là một hồ nông tại thung lũng Warner thuộc miền đông quận Lake, Oregon, Hoa Kỳ. Hồ bao phủ diện tích và có mực nước ổn định nhất trong chuỗi hồ Warner. Nhiều khu đất quanh hồ Hart được quản lý bởi Cục quản lý đất đai (BLM) và Cục cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ (FWS). Hồ và vùng đất ngập nước chung quanh là môi trường sống thuận lợi cho chim và các sinh vật khác. Các hoạt động giải trí trên và gần hồ Hart gồm săn bắt, câu cá, ngắm chim, và chèo thuyền. Địa lý Hồ Hart tọa lạc tại thung lũng Warner thuộc miền nam-trung Oregon. Đây là một hồ tự nhiên có diện tích bề mặt , dài chừng và rộng khoảng . Lượng mưa hằng năm tại lưu vực hồ trung bình từ . Thung lũng dài và rộng . Phần lớn thung lũng thuộc quận Lake; tuy nhiên, phần phía bắc mở rộng khoảng vào quận Harney. Thủy học Toàn hồ có độ sâu trung bình và độ sâu tối đa khi lực nước bình thường. Phần sâu nhất là tại cực bắc hồ, còn phần phía nam tương đối nông. Hồ Hart không chỉ nhận nước tràn từ hồ Crump, và còn nhận dòng chảy liên tục từ lạch Honey. Kết quả, hồ Hart có mực nước ổn định nhất chuỗi hồ Warner. Nước tràn khi nước cao đều đổ vào hồ Anderson, ngay phía bắc hồ Hart. Sinh thái học Ngoài quần thể cá, hồ Hart cung cấp môi trường sống độc đáo cho thực vật và động vật bên bờ hồ. Dốc mặt tây của núi Hart chạy dọc theo bờ đông của hồ. Vùng này thường là hoang mạc cao đất cây bụi với Artemisia tridentata và cỏ hoang mạc chiếm ưu thế. Vùng phía tây, nam, bắc chủ yếu là đồng cỏ và đầm lầy, các loài cỏ đầm lầy phổ biến dọc bờ hồ. Thêm vào đó, liễu, dương, anh đào hoang, và hồng dại được tìm thấy gần hồ. Hệ động vật địa phương gồm động vật hữu nhũ hoang mạc cao, chim định cư, và thủy cầm di cư. Các loài cá bản địa gồm Catostomus warnerensis, Gila bicolor, và Oncorhynchus mykiss newberrii. O. mykiss newberrii và các quần thể nhỏ của những loài cá khác cũng sống tại lạch Honey. Ngoài cá bản địa, Oncorhynchus mykiss (cá hồi vân), crappie (Pomoxis annularis và Pomoxis nigromaculatus), Micropterus dolomieu, và Ameiurus đã du nhập vào hồ. Các loài phi bản địa này đe dọa vài loài bản địa, chúng là lý do C. warnerensis được xem là "bị đe dọa". Một nghiên cứu năm 1996 ước tính toàn bộ số C. warnerensis trưởng thành trong hồ chỉ là 493 con. Để giúp bảo vệ và phục hồ quần thể cá trong hồ, Cục cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ đã phát triển một dự án bảo tồn năm 1998. 42 loài động vật hữu nhũ sống tại các vùng quanh hồ Hart. Các loài phổ biến quanh bờ bồ và đầm lầy là gấu mèo (Procyon lotor), chồn hôi sọc (Mephitis mephitis), và chuột xạ hương (Ondatra zibethicus). 264 loài chim sống ở khu vực quanh hồ và dừng tại hồ khi di trú. Chim xây tổ gần hồ gồm sếu đồi cát, bồ nông trắng châu Mỹ, cốc mào đôi, dẽ Bắc Mỹ, dẽ nước Wilson, vịt cánh trắng, vịt mỏ thìa, sâm cầm Mỹ, chim lặn miền tây, chim lặn Clark, vạc, ngỗng Canada, vịt cổ xanh, cùng nhiều loại vịt và nhàn khác. Ngoài ra, cò quăm mặt trắng, diệc lớn, diệc xanh lớn, và cà kheo Mỹ cũng được tìm thấy tại đầm lầy và dọc bờ hồ. Phía bắc hồ, tại Warner Wetlands Interpretive Site, có một trạm bảo vệ quan sát chim của Cục quản lý đất đai, nơi vạc rạ Mỹ, cà kheo cổ đen, mòng két nâu vàng, thiên nga nhỏ, hoét Brewer, chiền chiện miền tây, và nhiều loài én thường xuyên được quan sát. Lịch sử Hoạt động giải trí Chú thích Liên kết ngoài Bureau of Land Management information on Warner Wetlands Oregon Public Broadcasting video: Warner Wetlands Hồ Oregon
VI_open-0000004434
Travel_and_Transportation
Martin Edward Hellman (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1945) là một nhà mật mã học, được biết đến nhiều nhất cho phát minh của ông về mật mã hóa công khai cùng với Whitfield Diffie và Ralph Merkle. Hellman là một nhà cống hiến lâu năm cho cuộc tranh luận bảo mật máy tính và gần đây được biết đến với việc thúc đẩy các nghiên cứu phân tích nguy cơ về các mối đe dọa hạt nhân, bao gồm cả các trang web NuclearRisk.org. Bài viết "hướng mới trong mã hóa" của Diffie và Martin Hellman được xuất bản vào năm 1976. Nó giới thiệu một phương pháp phân phối các khóa mật mã hoàn toàn mới, vượt xa theo hướng giải quyết cơ bản của mật mã, phân phối chính. Nó trở nên nổi tiếng với tên trao đổi khóa Diffie-Hellman. Bài báo cũng dường như kích thích sự phát triển công cộng gần như ngay lập tức của một lớp mới của các thuật toán mã hóa, thuật toán khóa đối xứng.. Năm 2016, Whitfield Diffie và Martin Hellman được trao Giải Turing vì những ý tưởng mật mã hóa khóa công khai và chữ ký số. Tiểu sử Hellman tốt nghiệp Trung học Khoa học Bronx. Anh tiếp tục lấy bằng cử nhân từ Đại học New York năm 1966, và bằng thạc sĩ tại Đại học Stanford năm 1967 và bằng tiến sĩ năm 1969, tất cả đều về kỹ thuật điện. Từ năm 1968 đến năm 1969, anh làm việc tại Trung tâm nghiên cứu Watson của IBM, nơi anh gặp Horst Feistel. Từ năm 1969 đến năm 1971, anh là trợ lý giáo sư tại MIT. Anh làm giáo sư tại Stanford năm 1971, làm tại đó cho đến năm 1996 khi anh trở thành giáo sư danh dự. Chú thích Liên kết ngoài Oral history interview with Martin Hellman Oral history interview 2004, Palo Alto, California. Martin Hellman's website on the risk of nuclear threat from nuclear war or nuclear terrorism "Defusing the nuclear threat and making the world safer" Announcement of Hellman presentation at U.C. Santa Cruz; Oct. 2008 Hellman at the 2009 RSA conference , video with Hellman participating on the Cryptographer's Panel, ngày 21 tháng 4 năm 2009, Moscone Center, San Francisco Giáo sư Viện Công nghệ Massachusetts Giải Turing Người được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Nhà phát minh Quốc gia
VI_open-0000004436
Computers_and_Electronics
Hội đồng Mỹ Israel (Tiếng Anh: người Mỹ gốc Israel Hội đồng trong Tiếng Hebrew: ארגון הקהילה הישראלית-אמריקאית) là một tổ chức Mỹ có nhiệm vụ là để "xây dựng và giữ cùng các cộng đồng người Mỹ gốc Israel cho các thế hệ và khuyến khích hỗ trợ của họ đối với nhà nước Israel." Tổng quan Những người Mỹ gốc Israel Hội đồng (IAC), ban đầu được gọi là Hội đồng Lãnh đạo Israel (ILC), được thành lập tại thành phố Los Angeles vào năm 2007 để tổ chức cộng đồng người Mỹ gốc Israel. '. Israel Hội đồng Lãnh đạo "một nhóm các nhà lãnh đạo cộng đồng Do Thái và người Mỹ tụ tập để hình thành ban đầu của giám đốc của tổ chức, sau đó được gọi là (ILC)' 'Các nhóm sáng lập đã có ba chìa khóa cho tương lai của những trụ cột tổ chức: tăng cường các thế hệ tương lai của công dân người Mỹ gốc Israel và có sự hỗ trợ của cộng đồng Do Thái Mỹ cho Nhà nước Israel. Sự tăng trưởng nhanh chóng của tổ chức khiến IAC sớm được thành lập như một tổ chức người Mỹ gốc Israel lớn nhất của . Hoa Kỳ Đến năm 2013, tổ chức đổi tên cũ của nó, và thông qua tên hiện tại của nó: Mỹ-Israel Hội đồng (IAC). Trong năm 2014, IAC đã tổ chức hội nghị quốc gia đầu tiên trong Washington D.C Trong năm 2015, IAC tăng sự hiện diện của nó và thành lập 7 văn phòng ở các bộ phận khác nhau của lãnh thổ quốc gia của Mỹ. trụ sở chính của nó là ở thành phố Los Angeles, có các văn phòng khu vực tại New York, Washington, Miami, Boston, và New Jersey. Mục tiêu IAC xác định mục tiêu của mình như sau: "Kết nối với các thế hệ tiếp theo của cộng đồng, với danh tính của họ Do Thái, tiếng Hebrew, và Nhà nước Israel." "Phục vụ như là một nguồn lực tài chính và chuyên nghiệp cho các sáng kiến ​​nhằm hỗ trợ sự phát triển của một cộng đồng người Mỹ gốc Israel hoạt động và thống nhất, với các kết nối mạnh mẽ với các nước Israel, bây giờ và trong tương lai." "Tăng cường quan hệ giữa cộng đồng người Mỹ gốc Israel và cộng đồng Do Thái Mỹ." "Cầu xây dựng giữa Israel-Mỹ và cộng đồng Do Thái Mỹ tại Hoa Kỳ." "Hỗ trợ một nền văn hóa của sự rộng lượng, lòng vị tha, các hoạt động, tạo ra một kết nối đến Israel trên một mức độ cá nhân, có sự hỗ trợ và tham gia của cả cộng đồng." Lịch sử Vào mùa hè năm 2006, trong Lebanon chiến thứ hai, lãnh sự quán Israel tại Los Angeles đã tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ Israel. Trong khi cộng đồng và các nhà lãnh đạo của nó, cũng như hàng trăm thành viên cộng đồng tham dự sự kiện này, cả hai chỉ có một số ít các Israel-Mỹ tham gia. Các nhà tổ chức đã phải thất vọng để xem cử tri đi bầu thấp hơn 200.000 Israel-Mỹ sinh sống trong khu vực đó, cho rằng cuộc xung đột Israel-Mỹ đã theo sát các sự kiện sau đó diễn ra ở Israel, và một số trong số họ thậm chí họ đã dẫn đầu các sáng kiến ​​hỗ trợ. Là một cộng đồng, họ đã không được tổ chức hoặc liên kết với bất kỳ tổ chức mà sẽ có thể tham gia cùng họ và dẫn họ. Nhận thức tiềm năng chưa được khai thác của cộng đồng, lãnh sự Israel lúc đó đang ở Los Angeles vào thời điểm đó, Ehud Danoch, đã gặp hai cựu chiến binh địa phương của cộng đồng người Mỹ gốc Israel, Danny Alpert và Eli Marmour. Danny chuẩn bị một cuộc họp sơ bộ tại nhà với các thành viên cộng đồng tích cực Adam Milstein, Eli Tene, Steve Erdman, Naty Saidoff, Eli Shoham Marmour và Nicolet. Họ thành lập các Hội đồng Lãnh đạo Israel tại Tiếng Anh: Hội đồng Lãnh đạo Israel (ILC), với mục tiêu xây dựng một cộng đồng người Mỹ gốc Israel để củng cố thế hệ tiếp theo của cộng đồng Do Thái Mỹ và hỗ trợ của Nhà nước Israel. Vào tháng 7 năm 2007, khoảng 80 nhà lãnh đạo cộng đồng và những người đàn ông và phụ nữ của doanh nhân Mỹ-Israel gặp nhau tại khách sạn Hilton của Beverly Hills để tham dự một bữa tiệc được tổ chức bởi ILC, từ đây tham gia thị trưởng Los Angeles và tổng lãnh sự của Israel. Dẫn đầu ILC là những thành viên sáng lập của Hội đồng: Adam Milstein, Steve Erdman, Eli Marmour, Naty Saidoff, Shawn Evenhaim, Yossi Rabinovitz và Nissan Pardo. Họ được đề cử Danny Alpert và Eli Tene là đồng chủ tịch của Hội đồng. Shoham Nicolet phục vụ như là một thành viên sáng lập và Giám đốc điều hành. Trong năm 2008, ILC đã thu hút được nhiều nhà lãnh đạo cộng đồng và doanh nhân của cộng đồng, bao gồm cả Beny Alagem là, Leo David và Haim Saban, ai là những người đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ILC. Cuộc sống của Sderot trong tiếng việt Sderot, một sáng kiến lớn đầu tiên ILC, dự án này được hưởng lợi người dân miền nam Israel, mà là dưới một ngọn lửa liên tục do các cuộc tấn công tên lửa. Trong một nỗ lực chung với các lãnh sự quán Israel, ILC đã quy tụ 1.800 người tham gia, bao gồm cả những người nổi tiếng Hollywood nhà lãnh đạo cộng đồng và con số công cộng. Các ứng cử viên tổng thống của Hoa Kỳ vào năm 2008, Barack Hussein Obama, Hillary Rodham Clinton và John McCain, gửi hỗ trợ của họ thông qua tin nhắn video. Việc tiết kiệm đã đạt được với nhau trong sự kiện này đã giúp đưa công nghệ giáo dục trong các trường học, người dân Sderot Đây là lần đầu tiên cư dân người Mỹ gốc Israel tại Hoa Kỳ, dẫn đầu một sự kiện từ thiện cho việc huy động vốn thông qua một sự kiện cộng đồng hướng tới toàn thể cộng đồng người Do Thái ở Los Angeles. Năm 2008, ILC tung ra một dự án được gọi là Tzav 8, sử dụng công nghệ mới để huy động hàng ngàn thành viên cộng đồng để hỗ trợ công Israel. Nỗ lực này dẫn đến một cuộc biểu tình của hơn 6.000 người tại tòa nhà Liên bang Wilshire. Kể từ đó, các tổ chức đã sử dụng mã cảnh báo Tzav 8 khi họ đã có cuộc khủng hoảng nghiêm trọng diễn ra tại Israel. Trong năm 2009, ILC đã ăn tối gala hàng năm đầu tiên của nó. Hàng trăm Israel-Mỹ gặp nhau lần đầu tiên tham dự một sự kiện từ thiện gây quỹ, với mục đích góp phần vì lợi ích của cộng đồng của họ. Tại buổi dạ tiệc hàng năm thứ hai, và kể từ đó mỗi năm Tổng thống Israel, Thủ tướng, và các vị trí khác của chính phủ Israel đã gửi thông điệp ủng hộ cho tổ chức và cộng đồng. Trong hai năm tới, ILC đã đưa ra những hỗ trợ cho một số tổ chức, một trong các tổ chức này được gọi là Tzofim Các Tzofim là những cậu bé thám của Israel, những người có sự giúp đỡ và hỗ trợ của cộng đồng. Hôm nay hiệp hội cung cấp hỗ trợ cho hơn 50 tổ chức phi lợi nhuận tại Hoa Kỳ. ILC cũng phát triển các chương trình mới. Trong năm 2010, thành lập ILC BINA, một hiệp hội của người Do Thái Mỹ của các chuyên gia trẻ, và trong năm 2011, ILC giới thiệu chương trình toàn quốc đầu tiên của mình, được gọi là đồ ngủ Sifriyat Hãy Mỹ , một chương trình học đọc tiếng Hebrew cho trẻ em từ 2 đến 8 năm, giao miễn phí mỗi tháng, cuốn sách Hebrew ngôn ngữ cho trẻ em của hàng ngàn gia đình người Mỹ gốc Israel sinh sống tại Hoa Kỳ. Vào tháng 9 năm 2011, ILC tuyển dụng đầu tiên đạo diễn toàn thời gian của mình, Balasha Sagi, người đứng đầu nhóm các tổ chức trong một thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng và mở rộng. Trong tháng 11 năm 2011, các sáng kiến ​​tự nguyện được gọi là Chăm sóc ILC đã được đưa ra với một buổi hòa nhạc đã được sự tham dự của 6.000 người tại Universal Studios Hollywood. Vào tháng 4 năm 2012, ILC khởi xướng Liên hoan mừng Israel, một lễ hội kỷ niệm các Yom Ha'atzmaut, Ngày Độc lập của Nhà nước Israel, sự kiện này là sự tham dự của khoảng 15.000 người ở Los Angeles. Vào tháng 5 năm 2012, Shawn Evenhaim được bổ nhiệm làm Chủ tịch mới của hội đồng quản trị, dẫn đầu tăng trưởng nhanh chóng của các tổ chức trong những năm tới, cùng với CEO Sagi Balasha và hội đồng quản trị của ILC. Giữa mùa hè năm 2011 và mùa hè năm 2012, hơn 30.000 người đã tham gia trong các chương trình và sự kiện ILC. Vào giữa năm 2013, tổ chức gần như đạt đến gấp đôi các hoạt động của nó, với hơn 50.000 người tham gia. Kết quả là, các chương trình bổ sung đã được phát triển, và các chương trình hiện có trở nên mạnh mẽ hơn để phục vụ các nhu cầu của cộng đồng. Trong tháng 10 năm 2014, Adam Milstein đã trở thành chủ tịch quốc gia mới của Mỹ-Israel Hội đồng (IAC), và Shoham Nicolet trở lại giữ vị trí Giám đốc điều hành. Tăng trưởng quốc gia Trong năm 2013, tổ chức này đã được đổi tên thành Hội đồng Israel Mỹ (IAC). Các tên mới đã được công bố trong buổi dạ tiệc hàng năm, được tổ chức tháng 3 năm 2013. Trong buổi dạ tiệc, các nhà hảo tâm và một số nhà hoạt động ủng hộ Israel, như cuộc hôn nhân của Sheldon Adelson và Miriam Adelson, họ cam kết sẽ cung cấp các nguồn lực cần thiết để cho phép IAC để trở thành một hiệp hội quốc gia. Vào tháng 9 năm 2013, kế hoạch mở rộng quốc gia IAC đã được đưa ra, cung cấp một mô hình để tiếp cận hơn 600.000 Israel-Mỹ sống tại Hoa Kỳ. Trong năm 2015, IAC được thành lập 7 văn phòng khu vực: trong thành phố Los Angeles trụ sở quốc gia có vị trí, có văn phòng khu vực IAC: New York, Washington DC, Las Vegas, Miami, Boston và New Jersey. Hội đồng quốc gia của IAC lớn, thêm các đại diện từ các khu vực khác nhau, bao gồm; Avi Almozlino (Boston), Rachel Davidson (New York), Yohanan Lowie (Las Vegas), Rani Ben David (Florida) và Arie Gilly (Washington DC). Với đội ngũ nhân viên của 70 thành viên chuyên nghiệp và một ngân sách hàng năm là 17 triệu và một nửa Dollar Mỹ, tổ chức này đã phục vụ 200.000 người tham gia với một loạt các chương trình và sự kiện. Trong tháng 11 năm 2014, IAC đã tổ chức hội nghị quốc gia đầu tiên ở Washington DC, sự kiện này đã quy tụ hơn 750 nhà lãnh đạo cộng đồng từ 23 tiểu bang. Chương trình hội nghị đặc trưng nhiều nhà lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và các nước Israel, các nhà hảo tâm, và một số tiếng nói nổi bật trong thế giới kinh doanh cũng như các thành viên của cộng đồng người Mỹ gốc Israel. IAC có kế hoạch mở văn phòng khu vực hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng. Các thành viên của cộng đồng người Mỹ gốc Israel là khoảng nửa triệu và 800.000 người hiện đang cư trú trên lãnh thổ của Hoa Kỳ. Tham khảo Liên kết ngoài www.israeliamerican.org (tiếng Anh) Chính trị Hoa Kỳ Khởi đầu năm 2007 ở California
VI_open-0000004439
People_and_Society
Váy cưới hay áo cưới là chiếc váy cô dâu mặc trong lễ cưới. Màu sắc, kiểu dáng và tầm quan trọng của nghi lễ của chiếc váy có thể phụ thuộc vào tôn giáo và văn hóa của những người tham gia đám cưới. Trong các nền văn hóa phương Tây, váy cưới có màu trắng phổ biến nhất, thời trang được Victoria của Anh ưa chuộng khi kết hôn vào năm 1840. Ở các nền văn hóa phương Đông, các cô dâu thường chọn màu đỏ để tượng trưng cho sự tốt lành. Nền văn hóa phương Tây Vào thời Trung cổ, đám cưới không chỉ đơn thuần là việc kết hôn của hai người. Nó có thể là cuộc hôn nhân gắn kết giữa 2 gia tộc, 2 doanh nghiệp hay thậm chí là 2 nước với nhau. Nhiều đám cưới xem trọng chính trị hơn là tình yêu, nhất là trong giới quý tộc và thượng lưu. Do đó cô dâu phải mặc trang phục để thể hiện lên đẳng cấp và địa vị xã hội của gia đình họ, chứ không được vì bản thân. Những cô dâu quyền quý thường mặc những màu rực rỡ bằng những chất liệu độc quyền. Nó thường là tông màu sẫm bằng lông thú, nhung và lụa. Cô dâu thường chọn những mẫu thịnh hành nhất được may bằng chất liệu thượng hạng nhất mà gia đình mình có thể mua. Những cô dâu nghèo nhất thì chọn áo cưới ở nhà thờ trong hôn lễ của họ. Ý nghĩa và giá cả của một chiếc váy cưới nói lên địa vị xã hội của cô dâu cũng như ám chỉ sự giàu có của gia đình với khách mời. Các tài liệu đầu tiên là của công chúa Philippa người mặc một chiếc váy cưới màu trắng với một chiếc áo choàng bằng lụa trắng được may viền bằng lông chồn xám trong một lễ cưới hoàng gia Anh năm 1406. Năm 1559, Mary I của Scotland mặc một chiếc váy cưới màu trắng khi cô kết hôn với người chồng đầu tiên, Francis Dauphin người Pháp vì đó là màu yêu thích của cô, mặc dù màu trắng đại diện cho tang tóc. Đây không phải là xu hướng phổ biến, tuy nhiên trước thời đại của Victoria của Anh, cô dâu được mặc bất kỳ màu sắc nào khi kết hôn. Màu đen là màu đặc biệt phổ biến ở Scandinavia. Màu trắng trở nên thông dụng vào năm 1840, sau lễ cưới của Victoria của Anh cùng với Albert của nước Saxe-Coburg; ở đó Victoria mặc một chiếc áo choàng màu trắng kết hợp ren, bộ áo cưới của cô đã được đánh giá cao. Các bức ảnh chân dung đám cưới được chính thức công bố rộng rãi, và rất nhiều cô dâu đã chọn màu trắng như Nữ hoàng. Thậm chí sau này, váy cưới cũng được dựa theo phong cách này. Ví dụ, trong những năm 20 của thế kỷ 20, chúng thường được cắt ngắn ở phía trước và được may dài ở phía sau và đi kèm với chiếc nón có mạng che mặt hình chuông. Xu hướng này thịnh hành cho đến cuối những năm 60, khi nó trở nên phổ biến trở lại sau một thời gian khá lâu, thiết kế của bộ áo cưới này gợi nhớ đến thời đại của Victoria của Anh. Ngày nay, váy cưới phương Tây thường có màu trắng, mặc dù là "áo cưới trắng" nhưng cũng có các màu sậm hơn như màu vỏ trứng, màu mộc và màu ngà. Sau này, nhiều người cho rằng màu trắng tượng trưng cho sự trong trắng, mặc dù đây không phải là ý nghĩa ban đầu: nó là màu xanh được hòa với sự tinh khiết, đạo đức, lòng trung thành, và Đức Mẹ Maria. Thời trang hiện tại Váy cúp ngực hoặc không tay chiếm đến 75% thị trường áo cưới, một phần vì các nhà thiết kế không cần quá nhiều kĩ năng cũng như dễ thay đổi kích cỡ nó để vừa vặn hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, áo cưới có tay cũng như có dây đều trở nên phổ biến rộng rãi hơn. Nền văn hóa phương Đông Nhiều váy cưới ở Trung Quốc, Ấn Độ (sari cưới), Pakistan (salwar kameez và lehengas) sẽ có màu đỏ, màu truyền thống của may mắn và an lành. Ngày nay, phụ nữ lựa chọn nhiều màu sắc khác ngoài màu đỏ. Trong đám cưới hiện đại ở Trung Quốc, cô dâu có thể lựa chọn trang phục của phương Tây với bất kỳ màu sắc nào, và sau đó mặc một bộ trang phục truyền thống cho lễ trà chính. Đám cưới ngày nay ở Đài Loan các cô dâu thường chọn lụa màu đỏ (theo truyền thống Trung Quốc) hoặc màu trắng (theo phương Tây) làm chất liệu may áo cưới, nhưng hầu hết sẽ mặc quần áo màu đỏ truyền thống vào tiệc cưới chính. Theo truyền thống, cha của cô dâu phụ trách tổ chức tiệc cưới sang trọng bên nhà gái và rượu (đặc biệt là "xi-jiu") dùng trong tiệc của hai bên gia đình. Trong khi hôn lễ chính dành cho đôi vợ chồng, thì những tiệc cưới tượng trưng cho "lời cảm ơn", sự cảm kích tới những người đã nuôi nấng, dìu dắt cô dâu và chú rể (như ông bà và chú bác) cùng những người vẫn sẽ giúp đỡ họ trong tương lai. Vì vậy, với sự tôn trọng dành cho những người lớn tuổi, tiệc cưới thường được thực hiện theo nghi thức trang trọng và mang đậm nét truyền thống. Đám cưới Việt Nam cô dâu thường mặc áo cặp, áo mớ, phổ biến nhất là màu xanh khoác ngoài. Ngoài ra có thể mặc các màu khác nền nã, tông trầm như hồng, tím, đen... Trong văn hóa Ấn Độ, các cô dâu sẽ chọn Sari cưới màu đỏ. Vải Sari cũng là lụa theo truyền thống. Theo thời gian, màu sắc và vải dành cho cô dâu Ấn Độ đã được đa dạng hóa. Ngày nay, các loại vải như crepe, georgette, charmeuse, và sa-tin được sử dụng, và màu sắc đã được mở rộng bao gồm vàng, hồng, cam, nâu sẫm… Cô dâu Ấn Độ ở các nước phương Tây thường mặc Sari tại lễ cưới và thay đổi thành lễ phục truyền thống của Ấn Độ sau đó (như là Lehnga, Choli, vv). Đám cưới Nhật Bản thường cần một bộ Kimono trắng truyền thống cho buổi lễ chính, tượng trưng cho sự tinh khiết và trong trắng. Các cô dâu có thể đổi thành bộ Kimono màu đỏ cho những buổi tiệc sau lễ cầu may. Những Người Ja-va ở Indonesia mặc Kebaya - một loại áo truyền thống, kèm với Batik. Tại Philippines, các biến thể của Baro't Saya phù hợp với hôn lễ trắng truyền thống được coi như là trang phục cưới cho phụ nữ, còn nam giới là Tagalog Barong. Các bộ lạc và người Hồi giáo ở Philippines mặc những kiểu trang phục truyền thống khác trong những buổi lễ của mình. Nền văn hóa bản địa châu Mỹ Các dân tộc bản địa châu Mỹ có truyền thống đám cưới khác nhau do đó lễ phục cưới cũng khác nhau. Một cô dâu Hopi theo truyền thống sẽ có sẵn trang phục được dệt bởi chú rể và bất kỳ người đàn ông trong làng nào muốn tham gia may lễ phục. Những bộ lễ phục đó bao gồm một đai lưng lớn, hai áo cưới màu trắng, một chiếc áo cưới trắng với sọc đỏ ở trên và dưới, một cái quần làm bằng da hoẵng và giày da đanh, một xâu chuỗi để buộc tóc và một thảm sậy để bọc các bộ lễ phục lại. Lễ phục này cũng được xem như là một tấm vải liệm, vì nó được dùng trong chuyến đi về thế giới bên kia.  Tại Pueblo, cô dâu sẽ khoác lên mình bộ lễ phục là áo có miếng bông gắn trên vai phải cùng một vòng đai quanh eo.   Trong truyền thống của Delaware, cô dâu mặc một chiếc váy dài đến đầu gối làm bằng da hoẵng và đeo một dây chuỗi làm bằng vỏ sò quanh trán. Ngoại trừ các hạt đá quý hoặc dây chuyền vỏ sò, cô dâu không cần mặc gì từ thắt lưng trở lên. Nếu đám cưới được tổ chức vào mùa đông, cô dâu sẽ mặc quần da hoẵng, mang giày da đanh và khoác chiếc áo choàng lông gà tây. Khuôn mặt sẽ được vẽ bằng đất sét màu trắng, đỏ và vàng. Đối với các bộ tộc thuộc phía Bắc California (bao gồm cả Klamath, Modoc và Yurok) trang phục truyền thống của cô dâu được phân biệt qua màu sắc, nhằm làm biểu tượng đặc trưng cho từng vùng: màu trắng cho phía Đông, màu xanh cho phía Nam, vàng (màu cam) cho phía Tây và màu đen cho phía Bắc. Ngọc lam và đồ trang sức làm bằng bạc được cả cô dâu và chú rể đeo trên người, thêm vào đó là một thắt lưng bằng bạc concho. Trang sức được coi là một lá chắn chống lại các tệ nạn bao gồm cả đói, nghèo và bất hạnh. Tham khảo Lịch sử của trang phục cưới Trang phục cưới truyền thống của các quốc gia trên thế giới Váy cưới của các nước Trung Đông Lễ phục cưới truyền thống của châu Á Trang phục cưới của các quốc gia Nam Á Váy cưới hiện đại ở các nước phương Tây Ghi chú Nguồn tham khảo Fashion Plates of Wedding Dresses from 1820-1929 from The Metropolitan Museum of Art Libraries Wedding Dresses at Chicago History Museum Digital Collections Wedding dress, 1900, in the Staten Island Historical Society Online Collections Database Wedding dress, 1951, in the Staten Island Historical Society Online Collections Database Lễ phục Lịch sử thời trang Lễ cưới Váy đầm
VI_open-0000004442
People_and_Society
là một từ lóng xuất phát từ Nhật Bản, chỉ chứng tâm lý thường xảy ra với các thiếu niên đang trong tuổi dậy thì ở khoảng năm 2 của trung học Nhật Bản (tương đương lớp 8 ở Việt Nam). Cách nói "bệnh" trong "trung nhị bệnh" thực ra không chính xác, các yêu cầu nghĩa y học của bệnh hay rối loạn tâm thần là hoàn toàn độc lập với định nghĩa này. Tại Việt Nam, chūnibyō đôi khi còn được gọi là "hội chứng tuổi dậy thì", "hội chứng tuổi teen" hay "hoang tưởng tuổi dậy thì". Từ nguyên và ý nghĩa Chūnibyō (中二病 hay trung nhị bệnh) là cách viết tắt của cụm từ chūgakusei ninen byō (中学生2年病; trung học sinh nhị niên bệnh), nghĩa là "bệnh của học sinh trung học năm 2". Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì chứng tâm lý này thường xuất hiện ở đối tượng chính là các học sinh trung học khoảng 13-14 tuổi, tương đương với năm 2 theo hệ thống giáo dục Nhật Bản. Biểu hiện Các biểu hiện của chūnibyō có thể tạm miêu tả như sau: Có thể sống khép kín hay tách biệt với thế giới bên ngoài, thậm chí tách biệt cả với gia đình. Có thể giao tiếp xã hội kém, nhút nhát. Sợ bị mọi người đối xử như trẻ con. Thường không bị ảnh hưởng bởi xu thế xã hội, đôi khi yêu thích các nền văn hóa ngoại lai một cách thái quá. Tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên, tự cho rằng mình có các năng lực ấy, hoang tưởng rằng mình có sức mạnh vĩ đại nào đó và tin rằng điều đó rất "ngầu", song thực chất mọi người xung quanh sẽ cảm thấy thật thảm hại, không bình thường. Nguyên nhân Chūnibyō có thể xảy ra tự nhiên, nhưng nhiều trường hợp, người ta thường chấp nhận Chūnibyō như một cách vượt qua những chấn động về tâm lý. Các Chūnibyō bằng cách này, họ quay lại sống như một đứa trẻ, tạo ra một tấm "áo giáp tâm lý" cho bản thân và đôi khi là bạn bè họ. Hậu quả Chūnibyō phần lớn không để lại hậu quả nghiêm trọng gì, các biểu hiện sẽ tự động hết khi họ lớn hơn một chút. Tuy nhiên, nhiều người có hành vi quá khích, dễ nổi cáu, hay cãi vã, phát triển thành thói xấu thậm chí là phạm pháp, những người như vậy bị cho là chống đối xã hội. Chūnibyō trong văn hoá đại chúng Phim hoạt hình Chūnibyō Demo Koi ga Shitai! (中二病でも恋がしたい!) - một bộ truyện tranh nhiều tập của tác giả Torako, sau đó được Kyoto Animation chuyển thể thành anime. Nhân vật chính của tác phẩm là Rikka - cô bé mắc chứng chūnibyō do gặp một biến cố lớn thời thơ ấu. Kuriya ni-kun o dare ka tomete! AURA 〜 ma ryū-in-kō kiba saigo no tatakai 〜 Mahō Shōjo Site (魔法少女サイト) - một bộ truyện tranh của Satō Kōtarō, đã được chuyển thể thành phim hoạt hình bởi doA. Trong phim này, nhân vật Amagai Kosame (雨谷) là một chūnibyō. Seishun buta yarou wa bunny girl senpai no yume wo minai Chú thích Liên kết ngoài Nhật Bản Hội chứng Tiếng lóng Giáo dục Nhật Bản Tâm lý học xã hội Thuật ngữ tiếng Nhật
VI_open-0000004446
Health
Peter Jungen (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1939 tại Montabaur) là một doanh nhân và chính trị gia kinh tế người Đức. Ông là Chủ tịch của Liên minh châu Âu của các doanh nghiệp nhỏ và trung (SME UNION).. Cuộc đời và sự nghiệp Jungen lớn lên ở Aachen. Sau khi tốt nghiệp bằng cử nhân kinh tế vào năm 1965 với điểm rất tốt tại Đại học Köln và một năm trao đổi tại Đại học bang Cleveland, ông đã tập trung vào kinh doanh. Kể từ năm 1984 ông thuộc Ban chấp hành tập đoàn Otto Wolff, nơi ông bắt đầu làm trợ lý cá nhân cho nhà công nghiệp Otto Wolff von Amerongen vào năm 1966. Năm 1987, ông là Tổng giám đốc điều hành của Strabag AG Đức ở Köln. Chú thích
VI_open-0000004450
Business_and_Industrial
Xem Amenemhat, đối với những người có cùng tên gọi này. Seankhibre Ameny Antef Amenemhet VI là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn đầu vương triều thứ 13, ông đã cai trị vào nửa đầu thế kỷ thứ 18 TCN trong một thời kỳ được nhắc đến như là giai đoạn cuối thời kỳ Trung Vương quốc hoặc đầu Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai, tùy thuộc vào học giả. Amenemhat VI chắc chắn đã có được một triều đại ngắn ngủi, ước tính khoảng 3 năm hoặc ngắn hơn. Ông được chứng thực thông qua một vài hiện vật đương thời và được ghi lại trên hai bản danh sách vua khác nhau. Ông có thể thuộc về một gia tộc pharaon lớn hơn bao gồm Amenemhat V, Ameny Qemau, Hotepibre Qemau Siharnedjheritef và Iufni. Chứng thực Lịch sử Amenemhat VI được ghi lại trên cuộn giấy cói Turin, một bản danh sách vua được biên soạn vào đầu thời đại Ramesses và giữ vai trò như là nguồn lịch sử chính liên quan đến Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Trong lần đọc gần đây nhất đối với cuộn giấy cói này bởi nhà Ai Cập học người Đan Mạch Kim Ryholt, Amenemhat VI xuất hiện ở cột thứ 7, hàng thứ 10 dưới tên prenomen của ông Seankhibre. Điều này tương ứng với cột thứ 6, hàng thứ 10 theo cách giải thích bản danh sách vua Turin của Alan Gardiner và Jürgen von Beckerath. Amenemhat VI cũng được đề cập tới trong bản danh sách vua Karnak, mục 37. Khảo cổ học Amenemhat VI được chứng thực bởi một vài hiện vật cùng thời. Chúng bao gồm hai con dấu trụ lăn từ el-Mahamid el-Qibli ở Thượng Ai Cập, một trong số đó được hiến dâng cho "Sobek Chúa tể của Semenu". Một bàn dâng lễ vật có mang đồ hình của Amenemhat VI được phát hiện tại Karnak và ngày nay nằm tại bảo tàng Ai Cập, CG 23040. Một tấm bia đá từ Abydos đề cập một vị quan, Seankhibre-Seneb-Senebefeni, hiến dâng cho Seankhibre Amenemhat. Một dầm đầu cột đến từ một ngôi mộ tư nhân thuộc khu nghĩa trang của Heliopolis mang tên của Seankhibre bên trong một đồ hình Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho biết rằng công trình kỉ niệm này thuộc về một vị vua khác, Seankhibtawy Seankhibra. Biên niên sử Vị trí tương đối Vị trí tương đối trong biên niên sử của Amenemhat VI được chắc chắn nhờ vào cuộc giấy cói Turin. Vị tiên vương của ông là một pharaon ít được biết đến tên là Iufni và người kế vị của ông cũng là một vị vua vô danh, Semenkare Nebnuni. Vị trí chính xác và niên đại Vị trí chính xác trong biên niên sử của Amenemhat VI lại ít chắc chắn hơn do sự không rõ ràng ảnh hưởng đến các vị vua của vương triều này. Theo như Kim Ryholt và Darrell Baker, ông là vị vua thứ 8 của vương triều này, trong khi Thomas Schneider, Detlef Franke và von Beckerath lại xem ông như vị vua thứ 7. Độ dài triều đại của Amenemhat đã bị mất do tình trạng bảo quản kém của cuộn giấy cói Turin và chỉ còn số ngày có thể đọc được là [...] và 23 ngày. Tuy nhiên Ryholt ấn định cho ông một triều đại ngắn kéo dài 3 năm từ năm 1788–1785 TCN. Phạm vi cai trị Người ta không rõ liệu rằng Amenemhat VI có cai trị toàn bộ Ai Cập hay không. Ông có thể đã kiểm soát toàn bộ Hạ Nubia, vốn đã bị chinh phục bởi vương triều thứ 12 và sẽ không bị từ bỏ trước ít nhất 60 sau đó. Sự kiểm soát của ông đối với Hạ Ai Cập hiện đang được tranh luận. Ryholt tin rằng vương triều thứ 14 gốc Canaan đã tồn tại vào thời điểm đó, thiết lập nên một vương quốc độc lập mà đã kiểm soát ít nhất là khu vực miền đông châu thổ sông Nile. Trong khi sự giải thích này được chấp thuận bởi một số học giả— trong số đó có Gae Callender, Janine Bourriau và Darrell Baker, nó lại bị bác bỏ bởi những người khác bao gồm Manfred Bietak, Daphna Ben-Tor và James cùng Susan Allen, họ cho rằng vương triều thứ 14 không thể tồn tại trước thời trị vì của vị vua Sobekhotep IV. Gia đình Nhà Ai Cập học Kim Ryholt đề xuất rằng Amenemhat VI là một thành viên của một hoàng tộc lớn hơn bao gồm các vị pharaon Sekhemkare Amenemhat V, Ameny Qemau, Hotepibre Qemau Siharnedjheritef và Iufni. Kết luận này được dựa trên các tên kép được mang bởi các vị pharaon trên, mà ông ta tin là tên nomen dòng dõi, nghĩa là tên gọi nhắc đến cha mẹ của một người. Do đó Ameny trong Ameny Qemau sẽ cho biết rằng ông là một người con trai của Amenemhat V, tiếp đó được kế vị bởi người con trai của ông ta là Hotepibre Qemau Siharnedjheritef như được chỉ ra bởi từ Qemau trong tên của vị vua này. Tương tự như vậy "Ameny Antef Amenemhat (VI)" sẽ là một tên gọi bộ ba có nghĩa là "Amenemhat, con trai của Antef, con trai của Ameny" có thể bởi vì cha của ông chắc chắn là một "người con trai của đức vua Antef" được chứng thực trên các con dấu hình bọ hung, chúng có niên đại được xác định dựa trên nền tảng phong cách thuộc về vương triều thứ 13 và bản thân người này sẽ là một con trai của vua Amenemhat V. Vị tiên vương Iufni của Amenemhat VI cũng sẽ là một phần của gia tộc này mặc dù mối quan hệ rõ ràng của ông ta với các thành viên khác không thể được giải quyết do sự thiếu vắng các tài liệu có niên đại thuộc về triều đại vô cùng ngắn ngủi của ông ta. Chỉ không đầy 10 năm sau triều đại của Amenemhat VI, một vị vua có tên là Renseneb Amenemhat đã lên ngôi. Theo cùng một lôgic, ông ta sẽ là một người con của một vị vua Amenemhat, người có thể là Amenemhat VI hoặc một trong số những vị vua xen giữa. Sự giải thích của Ryholt không được thừa nhận bởi một số nhà Ai Cập học vì nó dựa trên giả thuyết chưa được chứng minh rằng các tên kép nhất thiết phải là tên nomen dòng dõi. Chú thích Pharaon Vương triều thứ Mười ba của Ai Cập
VI_open-0000004452
People_and_Society
Alan Thomas Curtis (sinh 16 tháng 4 năm 1954) là huấn luyện viên bóng đá người xứ Wales, đang là trợ lý huấn luyện viên cho câu lạc bộ Swansea City. Ông là huyền thoại của "thiên nga đen". Tham khảo Sinh năm 1954 Cầu thủ bóng đá Cardiff City F.C. Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Wales
VI_open-0000004455
Sports
Eucharis có thể chỉ tới: Sinh học Chi thực vật Eucharis thuộc họ Amaryllidaceae. Chi tò vò Eucharis thuộc họ Eucharitidae. Chi kiến Eucharis thuộc họ Formicidae. Nghệ thuật Vở ba lê Euthyme và Eucharis của Georges Jean Noverre, 1775 Khác Một biệt danh của Thánh nữ Walpurga Thiên thạch 181 Eucharis Trang định hướng tên khoa học
VI_open-0000004457
Science
Sơn dương Pyrene hay còn gọi là dê hươu Pyrene (Danh pháp khoa học: Rupicapra pyrenaica pyrenaica, viết tắt là R.pa.pyrenaica) là một trong ba phân loài của loài Sơn dương Chamois vùng Pyrénées (Rupicapra pyrenaica) thuộc họ sơn dương gồm: sơn dương Cantabria (Rupicapra pyrenaica parva), sơn dương Apennine (Rupicapra pyrenaica ornata) và phân loài sơn dương này. Chúng chỉ phân bố giới hạn trong dãy Pyrénées. Đặc điểm Bàn chân của dê hươu Pyrene có cấu tạo thích nghi hoàn toàn với địa hình gồ ghề, dốc của vùng cao. Móng guốc của chúng được cấu tạo từ hai móng sắc, nhọn, to lớn, được nối kết nhau bằng lớp da màng dày. Chính móng guốc này đã giúp dê hươu di chuyển dễ hơn dưới lớp tuyết. Đây cũng là công cụ leo trèo cần thiết và rất hiệu quả cho loài vật trải qua hầu hết thời gian trên vùng cao. Nhìn vào cặp sừng của loài dê hươu Pyrene, có thể biết chúng đang phát triển ở giai đoạn nào. Lúc mới xuất hiện, cặp sừng chỉ dài từ 3 – 5 cm, sau đó, chúng dần dần chuyển sang màu đen, bóng sáng, sắc nhọn. Cặp sừng này phần lớn phát triển trong 3 năm đầu đời của dê hươu. Con đực có cặp sừng dày, cong hơn con cái. Khi cặp sừng phát triển thì những gợn sóng trên bề mặt sừng cũng hiện ra rất rõ. Vì thế, người ta có thể biết được độ tuổi của dê hươu qua việc đếm các gợn sóng này. Giống như hầu hết các loài hữu nhũ to lớn hơn sinh sống trên dãy núi này, loài dê hươu phải chống chọi với tình trạng thiếu oxy. Để đảm bảo các cơ luôn nhận được nguồn oxy cần thiết, chúng phải có quả tim to lớn để bơm máu đặc, vốn chứa tế bào hồng cầu gấp 2–3 lần trong dòng máu của con người. Phổi của chúng cũng phát triển tốt hơn. Tập tính Dê hươu Pyrene là loài vật sống theo bầy đàn. Trật tự xã hội của chúng dựa trên hệ thống cấp bậc và được thiết lập một cách tự nhiên giữa các thành viên của nhóm. Những con đực được 1–2 năm tuổi sẽ bị mẹ xua đuổi khỏi bầy đàn trước khi chúng có khả năng sinh sản. Tuy nhiên, chúng sẽ được chào đón trên vùng đất chỉ toàn con đực. Dê hươu đực luôn sống tách biệt với dê hươu cái và chúng thường hình thành nên một nhóm không quá đông. Trong công viên quốc gia Pyrenees, không gian dành cho chúng được phân chia rõ ràng với một bên núi chỉ toàn con đực và bên còn lại là những con cái. Những dê hươu cái và con luôn được ưu tiên chọn các địa điểm gặm cỏ tốt nhất bởi con cái phải nuôi con và đây là điều kiện quan trọng để giúp chủng loài tồn tại. Dê hươu mẹ thường cho con bú trong khoảng 6 tháng với dòng sữa đặc giàu dinh dưỡng để thúc đẩy sự tăng trưởng của con. Nhờ vậy, dê hươu con có thể tăng lên 100g mỗi ngày. Dê hươu con dễ dàng chạy theo mẹ bởi bản chất tự nhiên của chúng giỏi leo trèo trên các sườn dốc thẳng đứng. Những dê hươu con thường đi theo mẹ khắp mọi nơi trong hơn 5 tháng đầu đời. Tham khảo Haack, M. 2002. Rupicapra pyrenaica. Animal Diversity Web. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2006. Pérez, T., Albornoz, J. & Domínguez, A. (2002). Phylogeography of chamois (Rupicapra spp.) inferred from microsatellites. Mol Phylogenet Evol. 25, 524–534. Pérez-Barbería, F. J., García-González, R. (2004). "Rebeco – Rupicapra pyrenaica." Enciclopedia Virtual de los Vertebrados Españoles. Carrascal, L. M., Salvador, A. (Eds.). Museo Nacional de Ciencias Naturales. Madrid, Spain. Rupicapra pyrenaica en Mammal species of the World. Chú thích Liên kết ngoài Sobre el rebeco; en el sitio Barbastella. R. pyrenaica en Fauna ibérica; mamíferos. Ángel Cabrera Latorre. 1914. Facsímil electrónico. El rebeco en España; en inglés. Xem thêm Sơn dương Sơn dương Cantabria (Rupicapra pyrenaica parva) Sơn dương Chamois vùng Pyrénées P Động vật được mô tả năm 1845 Động vật có vú châu Âu
VI_open-0000004463
Pets_and_Animals
Tennents Highland League Cup 1998-99 là mùa giải thứ 54 trong lịch sử giải đấu. Đội vô địch là Forres Mechanics, đánh bại Keith 1-0 trong trận chung kết trên sân Borough Briggs ở Elgin. Vòng bảng Vòng đầu tiên của giải đấu Cup là vòng bảng gồm 4 bảng, gọi là "vùng", gồm 4 đội mỗi bảng. Bốn đội đứng nhất bốn bảng sẽ được quyền vào bán kết. Vùng 1 |} Vùng 2 |} Vùng 3 |} Vùng 4 |} Bán kết Các trận đấu bán kết diễn ra vào ngày thứ Bảy 1 tháng Năm. Chung kết Tham khảo The Official Football Association Non League Club Directory 2000 ISBN 1-869833-44-9 Mùa giải Highland League Cup
VI_open-0000004467
Sports
Year of the Cat (Năm con mèo) là một đĩa đơn của ca sĩ-nhạc sĩ Al Stewart, được phát hành vào tháng 7 năm 1976. Bài hát này cũng là ca khúc chủ đề của album 1976 của ông cùng tựa, và được thâu tại Abbey Road Studios, Luân Đôn vào tháng 1 năm 1976 bởi chuyên viên Alan Parsons. Ca khúc đạt vị trí số 8 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tháng 3 năm 1977. Mặc dù single xếp hạng cao nhất của Stewart trên bảng xếp hạng đó là vào năm 1978 với bản nhạc "Time Passages", "Year of the Cat" vẫn là bản nhạc tiêu biểu của Stewart, được phát sóng thường xuyên trên cả các đài cổ điển rock và folk rock. Nội dung Bản nhạc này Al Stewart đồng sáng tác với Peter Wood, kể lại chuyện một khách du lịch, đang thăm một chợ kỳ lạ thì một người phụ nữ mặc đồ lụa bí ẩn xuất hiện và đưa anh đi cho một cuộc phiêu lưu lãng mạn lờ mờ. Thức dậy vào ngày hôm sau bên cạnh cô ta, người du khách nhận ra, trong sự thanh thản, là chiếc xe buýt du lịch của ông đã đi mất để ông lại và ông mất cả vé xe của mình. Năm con mèo là một con giáp trong tử vi Việt Nam, tương đương với năm con thỏ trong tử vi Trung Quốc hay Hàn quốc, vào thời bài hát được viết là năm Ất Mão bắt đầu ngày 11 tháng 2 năm 1975 đến ngày 31 tháng 1 năm 1976. Tham khảo Liên kết ngoài "Year of the Cat" at songfacts.com For a sample of the lyrics to "The Year of the Cat" see Red Karaoke . Đĩa đơn năm 1976 Đĩa đơn đầu tay Bài hát năm 1976 Đĩa đơn của RCA Records
VI_open-0000004468
Arts_and_Entertainment
Hồ Tana (cũng được viết là T'ana, , , ; một cách viết cũ là Tsana, Ge'ez ጻና Ṣānā; đôi khi được gọi là "Dembiya" theo vùng nằm ở phía bắc hồ) là nguồn của sông Nile Xanh và là hồ lớn nhất tại Ethiopia. Tọa lạc tại vùng Amhara ở tây bắc cao nguyên Ethiopia, hồ dài chừng 84 kilômét và rộng khoảng 66 kilômét, độ sâu tối đa 15 mét, và nằm tại nơi có độ cao 1.788 mét. Hồ Tana được cung cấp nước bởi các sông Tiểu Abay, Reb và Gumara; diện tích mặt nước từ 3.000 đến 3.500 km², tùy theo mùa và lượng mưa. Mực nước hồ đã được điều hòa từ khi một đập nước được xây dựng nơi nước hồ chảy vào sông Nile Xanh. Tổng quan Hồ Tana được tạo nên bởi hoạt động núi lửa, tác động vào dòng chảy của các con sông vào khoảng thời gian đầu Pleistocen (khoảng 5 triệu năm trước) và tạo thành hồ. Hồ này ban đầu lớn hơn hiện nay. Bảy sông lớn, cùng với 40 sông nhỏ theo mùa, cấp nước cho hồ. Các phụ lưu chính chảy vào hồ là Gilgel Abbay (Tiểu Abbay), Megech, Gumara và Rib. Hồ Tana có một số đảo, số lượng phụ thuộc vào mực nước hồ. Mực nước hồ đã nông đi trong vòng 400 năm trở lại đây. Manoel de Almeida (một nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha vào thế kỷ 17) ghi nhận có 21 đảo. Khi James Bruce đến thăm vùng này vào cuối thế kỷ 18, ông ghi nhập rằng người địa phương đếm được 45 đảo hoang, nhưng bản thân ông cho rằng "con số có lẽ khoảng mười một." Một nhà địa lý thế kỷ 20 xác định 37 đảo, và khoảng 19 đảo trong đó có tu viện hay nhà thờ. Hệ động vật Vì các phụ lưu chảy vào hồ không nối với vùng nước lớn nào và chi lưu chính, dòng Nile Xanh, phải chảy ra một "trở ngại" là thác Nile Xanh, hồ Tana có một hệ sinh vật thủy sinh riêng biệt. Khoảng 70% loài cá trong hồ là loài đặc hữu. Trong đó có một số loài thuộc chi Labeobarbus tương đối lớn, dài đến . Cá lớn trong hồ thường săn loài Barbus tanapelagius nhỏ, cũng đặc hữu hồ Tana (B. humilis và B. pleurogramma cũng sống tại đây, nhưng không đặc hữu). Hai loài đặc hữu đáng chú ý khác là Afronemacheilus abyssinicus, một trong hai loài chạch đá duy nhất của châu Phi, và phân loài cá rô sông Nile tana. Hồ Tana hỗ trợ một nền ngư nghiệp lớn, chủ yếu dựa trên đánh bắt các loài Labeobarbus, cá rô sông Nile và cá trê phi. Theo Cục ngư nghiệp và thủy sản Ethiopia, 1.454 tấn cá được chuyển đến Bahir Dar mỗi năm. Ngoài ra, hồ còn có những loài động vật không xương sống: mười lăm loài thân mềm, trong đó một loài đặc hữu, và một loài bọt biển nước ngọt đặc hữu. Nhiều loài chim vùng đất ngập nước, như bồ nông trắng lớn và chim cổ rắn châu Phi, cư ngụ nơi đây. Hồ Tana là nơi nghỉ ngơi và điểm sinh sản quan trọng cho nhiều loài chim nước di cư vùng Cổ Bắc giới. Không có cá sấu. Ba ba Châu Phi đã được ghi nhập tại vùng nước sông Nile Xanh gần hồ Tana. Chú thích Liên kết ngoài Lake Tana project at Aberystwyth University Photographs of the lake Unesco plan for Lake T'ana LakeNet Profile Pictures from Lake Tana and the Monasteries Sông Nin Xanh Lưu vực sông Nin Hồ trên núi
VI_open-0000004469
Travel_and_Transportation
Loài không được đánh giá (NE) là một số loài động vật, thực vật mà trong đó chúng không được phân loại tình trạng bảo tồn theo danh sách của Sách Đỏ. Những loài này không được nghiên cứu nhiều do Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Loài ví dụ Ví dụ về các loài động vật không được đánh giá: Tham khảo Sách đỏ IUCN
VI_open-0000004472
Pets_and_Animals
Trong Đài tưởng niệm Walhalla ở Donaustauf, thuộc huyện Regensburg, Bayern, Đức - ban đầu được vua Ludwig I của Bayern ủy nhiệm xây - Kể từ năm 1842 các nhân vật nổi tiếng nói tiếng Đức được vinh danh với tượng bán thân bằng đá cẩm thạch và bảng tưởng niệm. Nó được đặt tên theo Valhalla, Đại sảnh của những chiến binh hy sinh anh dũng trên chiến trường theo thần thoại Bắc Âu. Tại lễ khai mạc trong năm 1842, 160 người được vinh danh với 96 tượng bán thân, và trong trường hợp không có hình ảnh xác thực hoặc các hành động như lời thề Rütli, với 64 bảng tưởng niệm. Hiện nay, bộ sưu tập bao gồm 130 tượng bán thân và 65 bảng tưởng niệm đề nhớ tới những người, các hành vi và các nhóm. Mười hai người được vinh danh là phụ nữ. Bất cứ ai cũng có thể đề nghị một nhân vật nói một ngôn ngữ tiếng Đức được vinh danh sớm nhất là 20 năm sau cái chết của người đó và sau đó phải trả chi phí cho việc hình thành và dựng bức tượng bán thân lên. Hội đồng Bộ trưởng Bayern quyết định người nào được nhận vào đài tưởng niệm. Chú thích Đại sảnh danh vọng Công trình xây dựng Bayern Danh lam thắng cảnh ở Đức
VI_open-0000004473
Arts_and_Entertainment
Bolbbalgan4 (; hay còn được gọi là BOL4 hoặc Blushing Youth hoặc Blushing Puberty; phát âm là Bolbbalgan Sachungi) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập bởi Shofar Music vào năm 2016. Họ đã xuất hiện trên Superstar K6 vào năm 2014 trước khi ký hợp đồng với công ty hiện tại. BOL4 ban đầu là một bộ đôi bao gồm Ahn Ji-young và Woo Ji-yoon. Họ ra mắt với đĩa đơn "Fight Day" từ mini album Red Ickle vào ngày 22 tháng 4 năm 2016. Nghĩa của 사춘기(思春期) là "puberty" trong tiếng Anh. Trong tiếng Hàn, cách phát âm của 사 (思) tương tự như 사 (四=4), do đó tên nhóm đôi khi được rút ngắn thành Bol4. Bộ đôi tạm thời gián đoạn hoạt động do việc học của Ahn Ji-young về âm nhạc trong nửa đầu năm 2018. Bolbbalgan4 đã ký hợp đồng với King Records, và ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 5 tháng 6 năm 2019, với mini album Red Planet (Japan Edition). Vào ngày 2 tháng 4 năm 2020, Shofar Music thông báo rằng Woo Ji-yoon đã rời nhóm và Ahn Ji-young sẽ tiếp tục quảng bá với tư cách là Bolbbalgan4. Hình thành Jiyoung và Jiyoon đều sinh ra và lớn lên ở thành phố Yeongju, Gyeongsang và là bạn học cùng lớp. Trước đây họ đã từng tham gia Superstar K6 vào năm 2014. Từ khi còn nhỏ, họ đã mơ ước trở thành ca sĩ. Tên gọi của nhóm được xây dựng trên cơ sở rằng họ muốn tạo ra một loại âm nhạc thuần khiết, trung thực chỉ có thể tìm thấy ở tuổi mới lớn. Trong tên gọi của nhóm, Ji-young tượng trưng cho "blushing" (đỏ mặt) bởi vì cô thường nhút nhát, trong khi Ji-youn tượng trưng cho "youth" (thanh xuân) bởi vì cô hành động như một cô gái ở độ tuổi vị thành niên. Lịch sử Năm 2014, Ahn Ji-young và Woo Ji-yoon đăng ký tham gia vào chương trình Superstar K6 nhưng không thành công. Tuy vậy, cả hai chưa từ bỏ nguyện vọng và quyết định ký hợp đồng với công ty Shofar Music - 1 công ty khởi nghiệp nhỏ chưa có tiếng tăm gì trong làng giải trí Hàn Quốc vốn đầy tính cạnh tranh và sự khắc nghiệt. Trước khi ra mắt nhóm đã cộng tác cho nhạc phim của loạt phim Misaeng. Ngày 22 tháng 4 năm 2016, nhóm ra mắt chính thức với mini album đầu tiên mang tên Red Ickle bao gồm 5 ca khúc. Ngày 29 tháng 8 năm 2016, nhóm phát hành album phòng thu mang tên Red Planet và nhận được sự chú ý lớn. Ca khúc chủ đề "Galaxy (우주 를 줄게)" đã đạt vị trí thứ nhất trên các bảng xếp hạng Genie, Naver, MelOn và vị trí thứ ba trên Mnet. Ca khúc cũng đạt được vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Gaon trong hạng mục "National Digital Singles Ranking", vị trí thứ 2 trong hạng mục "Online Downloads For The Week" với 116.197 lượt tải về từ ngày 18 đến 24 tháng 9, và vị trí thứ nhất trong hạng mục "Instiz Chart Singles Ranking" của bảng xếp hạng Instiz. Ca khúc "Galaxy" nhiều lần được đề cử vị trí thứ nhất trong các chương trình âm nhạc như Music Bank và Show Champion. Ngày 20 tháng 12 năm 2016, nhóm phát hành ca khúc chủ đề "Tell Me You Love Me (좋다고 말해)" cho đĩa đơn Red Planet "Hidden Track". Ca khúc đạt vị trí thứ nhất trên MelOn, Genie, Naver, Bugs, Olleh Music và Soribada. Ca khúc cũng đạt vị trí thứ nhất trên Instiz chỉ sau 3 ngày phát hành. Đầu năm 2017, Bolbbalgan4 hợp tác với Mad Clown trong ca khúc "Lost Without You" và San E trong "mohae". Hai ca khúc đều đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng. Ngày 13 tháng 6 năm 2017, nhóm phát hành đĩa đơn BolBBalgan4 & 20 Years of Age với ca khúc "We Loved". Ngày 24 tháng 5 năm 2018, nhóm phát hành album "Red Diary Page.2" với ca khúc chủ đề "Travel" Ca khúc đã đạt giải Đĩa Vàng. Ca khúc này làm mưa làm gió trên nhiều bảng xếp hạng. Trong thời gian ấy, nhóm cũng đã đạt được giải thưởng Âm nhạc Seoul. Ngày 2 tháng 4 năm 2019, nhóm phát hành mini album "사춘기집 Ⅰ 꽃기운 (Youth Diary 1: Flower Energy)" với ca khúc chủ đề là "Bom (나만, 봄)". Bài hát được đón nhận khá nồng nhiệt bởi các fan hâm mộ. Ngày 10 tháng 9 năm 2019, BOL4 phát hành mini album "Two Five" với ca khúc chủ đề "Workaholic". Ngày 15 tháng 1 năm 2020, BOL4 ra mắt đĩa đơn tiếng Nhật với ca khúc chủ đề "LOVE" là bài hát tiếng Nhật đầu tiên của bộ đôi. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2020, Shofar Music thông báo rằng Woo Ji-yoon đã quyết định rời khỏi bộ đôi này với lý do cá nhân, Ahn Ji-young sẽ tiếp tục hoạt động và quảng bá với tên gọi Bolbbalgan4, mặc dù rời nhóm nhưng hai người vẫn giữ mối quan hệ là những đồng nghiệp, tiếp tục giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong công việc. Trưa ngày 29 tháng 4 năm 2020, nữ ca sĩ Ahn Ji-young của BOL4 đã chính thức tiết lộ lịch trình quảng bá cho album sắp phát hành của mình trong thời gian tới và trong lần trở lại này, cô sẽ kết hợp cùng với nam ca sĩ Baekhyun của nhóm EXO. Ngày 23 tháng 10 năm 2020, công ty chủ quản của ca sĩ Ahn Ji-young đã tiết lộ lịch trình quảng bá cho album sắp phát hành của cô trong thời gian sắp tới. Ngày 4/11/2020, BOL4 phát hành đĩa đơn mới mang tên "Filmlet" với ca khúc chủ đề là "Dancing Cartoon". Vào chiều ngày 12/10/2021, trên trang cá nhân chính thức của BOL4 đăng tải hình ảnh được cho là sự xuất hiện trở lại sau gần 1 năm mà ca sĩ Ahn Ji Young, thành viên còn lại của nhóm nhạc Indie BOL4 tạm dừng hoạt động để điều trị căn bệnh (rối loạn lo âu) trước đó của cô. Trên bài đăng, dòng trạng thái 'Butterfly Effect' được cho là tên chủ đề chính thức của cô sau lần trở lại này. Trở lại sau vài tháng từ đĩa đơn "Butterfly Effect" vào cuối năm 2021, vào ngày 6 tháng 4 năm 2022, trên trang cá nhân chính thức của BOL4 đã đăng tải hình ảnh lịch trình cho mini album "Seoul" chính thức cho màn trở lại lần này. Đĩa mở rộng sẽ được phát hành vào ngày 20 tháng 4. Sau đó sẽ là chuyến lưu diễn của cô từ ngày 14 tháng 5 ~ 15 tháng 5 năm 2022. Thành viên Danh sách đĩa nhạc Album phòng thu Đĩa đơn Album nhạc phim Đĩa đơn Danh sách giải thưởng và đề cử Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Bolbbalgan4 trên Daum Cafe Nhóm nhạc K-pop Nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Khởi đầu năm 2016 ở Hàn Quốc Bộ đôi âm nhạc nữ
VI_open-0000004475
Arts_and_Entertainment
Micrit là một thành phần cấu thành của đá vôi bao gồm các hạt calci cacbonat có đường kính lên tới 4 μm được hình thành bởi sự kết tinh của bùn vôi. Micrit là một thuật ngữ sử dụng để diễn tả bùn vôi, đá cacbonat bùn. Nó cũng được sử dụng trong bảng phân loại Folk để mô tả đá cacbonat giàu calcit hạt mịn. Đá cacbonat chứa calcit hạt mịn cùng với các allochem được gọi là intramicrit, oomicrit, biomicrit hoặc pelmicrit trong bảng phân loại Folk phụ thuộc vào allochem chính. Micrit như là một thành phần của các loại đá cacbonat có thể xuất hiện dưới dạng chất nền, hoặc dưới dạng micrit bao bọc xung quanh các allochem hoặc dưới dạng peloid. Micrit có thể được tạo ra bởi kết tủa hoá học, sự phân rã của peloid, hoặc bởi sự micrit hoá. Thuật ngữ được Robert Folk đặt ra năm 1959 trong hệ thống phân loại đá cacbonat của ông. Tên micrit bắt nguồn từ chữ MICRocrystalline calcITe trong tiếng Anh, nghĩa là calcit vi kết tinh. Tham khảo Folk R. L., 1959. Thạch học phân loại đá vôi thực hành: Hiệp hội Địa chất Dầu khí Hoa Kỳ, quyển 43, tr. 1-38. https://www2.imperial.ac.uk/earthscienceandengineering/rocklibrary/viewglossrecord.php?Term=micrite Đá vôi
VI_open-0000004479
Science
Song Hye-rim (Chosŏn'gŭl: 성혜림; 24 tháng 1 năm 1937 - ngày 18 tháng 5 năm 2002) là một nữ diễn viên Bắc Triều Tiên, nổi tiếng vì là một người tình được sủng ái của Kim Jong-il. Tiểu sử Song Hye-rim sinh ra ở Changnyeong, khi xứ Triều Tiên đang dưới sự cai trị Đế quốc Nhật Bản. Bà theo học Trường Điện ảnh Bình Nhưỡng năm 1955, nhưng rời trường năm sau để sinh một bé gái. Sau đó bà học lại và tốt nghiệp, có bộ phim đầu tay của mình vào năm 1960. Bà trở thành một nữ diễn viên nổi tiếng ở trong Miền Bắc Triều Tiên trong những năm 1960, xuất hiện trong các bộ phim bao gồm Onjŏngryŏng (Chosŏn'gŭl: 온 정령) và Baek Il-hong (Chosŏn'gŭl: 백일홍). Hầu hết các ghi chép về bà được rút ra từ cuốn hồi ký Hàn của chị mình, Song Hye-rang. Bạn cũ của bà Kim Young-soon xuất bản cuốn tự truyện Tôi Là bạn của Song Hye-rim, và tiết lộ bà và gia đình đã được gửi đến một trại tập trung mười năm sau khi chính quyền phát hiện ra bí mật gì đấy của Hye-rim, và dẫn đến cái chết của bà con và cha mẹ và chồng bị bắt đi và không bao giờ nhìn thấy một lần nữa trước khi bà Kim tìm cách để đào tẩu sang Đại Hàn Dân Quốc (Quốc gia Nam Hàn) vào năm 2003. Cuộc sống cá nhân Song bắt đầu hẹn hò với Kim Jong-il vào năm 1968, sau khi ly dị người chồng đầu tiên; cô được tin là đã được người tình đầu tiên của ông. Năm 1971, cô đã sinh ra Kim Jong-nam, người lúc đó được cho là được chọn để thừa kế chức vụ của Kim Jong-il. Việc sinh người con trai này được cho là đã được Kim Il-sung giữ bí mật đến năm 1975. Qua đời Từ đầu những năm 1980, bà Song thường xuyên đến Moskva một mình để chữa bệnh, nhưng bà ta vẫn không hề tiết lộ mình đã mắc bệnh gì. Năm 1996, có báo cáo cho rằng bà Song đã bí mật trốn sang các nước Tây Âu hay chí ít là Mỹ để chữa bệnh, nhưng các quan chức tình báo Hàn Quốc đã bác bỏ tin đồn này. Bà ta được cho là đã qua đời vào ngày 18 tháng 5 năm 2002 ở Moskva, Nga. Tham khảo Gia tộc Kim Nhật Thành
VI_open-0000004481
Arts_and_Entertainment
USS Irwin (DD-794) là một tàu khu trục lớp Fletcher được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Chuẩn đô đốc Noble E. Irwin (1869-1937), người tham gia cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, ngừng hoạt động một thời gian ngắn, rồi tái biên chế trở lại năm 1951 và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên và sau đó cho đến khi xuất biên chế năm 1958. Con tàu được chuyển cho Brazil năm 1968, và hoạt động như là chiếc Santa Catarina (D32) cho đến khi ngừng hoạt động năm 1988 và bị đánh chìm như mục tiêu năm 1990. Irwin được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân và sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm một Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Triều Tiên. Thiết kế và chế tạo Irwin được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Shipbuilding Company ở San Pedro California vào ngày 2 tháng 5 năm 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 10 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà Charles A. Lockwood, Jr., con gái Chuẩn đô đốc Irwin và là phu nhân Chuẩn đô đốc Charles A. Lockwood, Jr.. Nó nhập biên chế vào ngày 14 tháng 2 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Daniel B. Miller. Lịch sử hoạt động 1944 Sau khi hoàn tất chạy thử máy, Irwin khởi hành từ San Diego vào ngày 26 tháng 4 năm 1944 hướng sang quần đảo Hawaii, rồi tiếp tục đi Eniwetok để tập trung lực lượng chuẩn bị cho Chiến dịch quần đảo Mariana. Nó lên đường vào ngày 11 tháng 6 trong thành phần bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống để hỗ trợ trên không cho việc đổ bộ lên Saipan vào ngày 15 tháng 6. Trong quá trình Hạm đội Liên hợp Nhật Bản bị đánh bại trong Trận chiến biển Philippine từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 6, chiếc tàu khu trục đã bắn rơi một máy bay ném bom-ngư lôi đối phương. Irwin đã bắn phá các vị trí của đối phương tại Saipan từ ngày 21 đến 29 tháng 6, rồi bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống hỗ trợ cho cuộc tấn công chiếm đóng Tinian cho đến ngày 23 tháng 7. Nó sau đó bắn pháo hỗ trợ cho binh lính chiến đấu trong trận Guam, trước khi tham gia thành phần hộ tống các tàu sân bay nhanh trong hoạt động không kích các căn cứ đối phương tại quần đảo Palau, dọc theo bờ biển Luzon, Okinawa và Đài Loan. Tại vùng biển ngoài khơi Đài Loan vào ngày 14 tháng 10, nó đã bắn rơi một máy bay ném bom-ngư lôi đối phương, rồi sau đó hộ tống các tàu tuần dương hạng nặng và bị hư hại do trúng bom rút lui về hậu phương an toàn. Chiếc tàu khu trục lại tiếp tục tham gia thành phần hộ tống các tàu sân bay nhanh hỗ trợ trực tiếp Trận Leyte vào ngày 20 tháng 10. Hải quân Nhật Bản tổ chức ba gọng kìm nhằm phản công lại Chiến dịch Philippines, đưa đến Trận chiến vịnh Leyte vào ngày 24 tháng 10. Máy bay từ tàu sân bay thuộc đội đặc nhiệm của Irwin đã tấn công các tàu chiến chủ lực thuộc Lực lượng Trung tâm Nhật Bản, đánh chìm thiết giáp hạm Musashi và buộc đối phương phải tạm thời rút lui. Tuy nhiên đòn phản công của phía Nhật cũng mang lại kết quả, khi một quả bom đánh trúng tàu sân bay hạng nhẹ . khiến nó nổ tung và bốc cháy. Bất chấp đám cháy đang lan nhanh, những vụ nổ dữ dội và mảnh vỡ bắn ra do bom đạn trên chiếc tàu sân bay, Irwin đã tiếp cận chiếc tàu sân bay để giúp chữa cháy, và sau đó thả các xuồng cứu sinh cùng những thợ lặn tình nguyện để cứu vớt những người sống sót, tiếp tục áp sát và cứu được 646 người của Princeton trên biển và từ sàn tàu. Hành động anh dũng của Irwin khi cứu hộ Princeton, mà bản thân nó cũng bị hư hại do các vụ nổ, đã mang lại cho nó danh hiệu Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân. Irwin hướng đến Ulithi cùng những người sống sót từ Princeton trong khi Lực lượng phía Nam Nhật Bản bị tiêu diệt phần lớn trong Trận chiến eo biển Surigao, những tàu sân bay thuộc Lực lượng phía Bắc Nhật Bản bị đánh chìm trong Trận chiến mũi Engaño, và những thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng hùng mạnh thuộc Lực lượng Trung tâm bị đẩy lui trong Trận chiến ngoài khơi Samar. Từ Ulithi, Irwin tiếp tục hành trình quay trở về Hoa Kỳ, nơi nó được đại tu tại Xưởng hải quân San Francisco từ ngày 17 tháng 11 năm 1944 đến ngày 23 tháng 1 năm 1945. Nó lên đường đi Hawaii, rồi tiếp tục hướng sang quần đảo Marshall, và cuối cùng đi đến Saipan vào ngày 14 tháng 2 năm 1945 1945 Irwin đã giúp hộ tống bảo vệ các tàu sân bay không kích hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 2, 1945, và sau đó đã không kích xuống Okinawa. Sau đó nó tham gia đợt không kích chuẩn bị xuống Okinawa từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3, đánh trả các cuộc tấn công liên tục của đối phương bằng máy bay, xuồng phóng lôi và xuồng máy cảm tử. Vào ngày 30 tháng 3, nó đẩy lui cuộc tấn công của ba tàu phóng lôi, đánh chìm một chiếc và gây hư hại một chiếc khác, buộc chiếc cuối cùng phải rút lui. Khi lực lượng Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên hòn đảo này vào ngày 1 tháng 4, nó bắn rơi một máy bay ném bom hai động cơ, cứu vớt một người sống sót thuộc đội bay. Trong hai tháng tiếp theo sau, chiếc tàu khu trục bắn phá các vị trí pháo binh, súng máy, điểm tập trung quân, hang động của đối phương trên bờ, cùng các vị trí che giấu những xuồng cảm tử. Nó lại bắn rơi một máy bay ném bom-ngư lôi tự sát vào ngày12 tháng 4, rồi một chiếc khác vào ngày 16 tháng 4 khi nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Ie Shima. Một máy bay tấn công cảm tử đối phương khác lại bị tiêu diệt vào ngày 21 tháng 5, rồi đến đêm 16 tháng 6, nó trợ giúp vào việc cứu vớy những người sống sót từ tàu khu trục bị đánh chìm bởi tấn công phối hợp trên không, ngư lôi và tự sát đối phương. Irwin tiếp tục ở lại hoạt động ngoài khơi Okinawa cho đến khi chiến sự kết thúc, lúc Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 chấm dứt Thế Chiến II. Nó đi vào vịnh Tokyo vào ngày 31 tháng 8, hộ tống tàu chở binh lính chiếm đóng từ Okinawa đến chính quốc Nhật Bản cho đến ngày 28 tháng 10, khi nó rời Yokosuka để quay trở về San Diego, đến nơi vào ngày 15 tháng 11. Sau khi được đại tu, con tàu xuất biên chế vào ngày 31 tháng 5, 1946 và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. 1951 - 1958 Irwin được cho nhập biên chế trở lại tại Long Beach, California vào ngày 26 tháng 2, 1951, vào lúc đang xảy ra Chiến tranh Triều Tiên. Nó lên đường vào ngày 12 tháng 5 để đi sang vùng bờ Đông Hoa Kỳ, được đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia rồi đặt cảng nhà tại Newport, Rhode Island từ ngày 16 tháng 12, 1951. Chiếc tàu khu trục được phái sang tăng cường cho lực lượng của Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải từ tháng 1 đến tháng 6, 1952, và sau đó thực tập huấn luyện dọc theo vùng bờ Đông. Irwin khởi hành từ Fall River, Massachusetts vào ngày 1 tháng 4, 1953, băng qua kênh đào Panama và đi ngang qua San Diego và Hawaii để gia nhập Đệ Thất hạm đội đang hoạt động tại vùng chiến sự ngoài khơi bán đảo Triều Tiên. Nó hộ tống bảo vệ các tàu sân bay nhanh khi chúng không kích các mục tiêu đối phương sâu trong nội địa; bản thân chiếc tàu khu trục đã tham gia bắn phá các tuyến đường vận chuyển ven biển của đối phương và hỗ trợ cho binh lính thuộc lực lượng Liên Hợp Quốc trên bộ. Sau khi có được thỏa thuận ngừng bắn, nó quay trở về nhà qua ngã kênh đào Suez và ghé qua các cảng tại Địa Trung Hải, về đến Boston, Massachusetts vào ngày 2 tháng 10, hoàn thành một chuyến đi vòng quanh trái đất. Irwin tiếp tục các hoạt động tại chỗ thường lệ từ Newport cho đến ngày 5 tháng 1, 1955, khi nó lên đường tham gia các cuộc tập trận của khối NATO tại Bắc Đại Tây Dương, và sau đó tại Địa Trung Hải. Nó quay trở về Newport vào ngày 26 tháng 5, hoạt động tại vùng bờ Đông cho đến ngày 29 tháng 3, 1956 để đi sang Long Beach, California, đến nơi vào ngày 15 tháng 4. Nó trải qua mùa Hè năm đó hoạt động cùng Đệ Thất hạm đội tại các vùng biển Nhật Bản, Okinawa, Philippines và Đài Loan, trước khi quay trở về Long Beach vào ngày 11 tháng 8. Sau khi cùng hạm đội thực tập chiến thuật tại vùng bờ Tây xa đến tận quần đảo Hawaii, chiếc tàu khu trục lại lên đường vào ngày 12 tháng 3, 1957 để gia nhập Đệ Thát hạm đội tại Viễn Đông. Nó tiến hành tuần tra tại eo biển Đài Loan, tập trận phối hợp cùng các tàu chiến trong khối SEATO, đồng thời viếng thăm hữu nghị các cảng Philippines và Nhật Bản trước khi quay trở về Long Beach vào ngày 24 tháng 8. Một lần nữa chiếc tàu khu trục lại được xuất biên chế vào ngày 10 tháng 1, 1958. Santa Catarina (D32) Irwin được chuyển cho Brazil vào ngày 10 tháng 5, 1968, và phục vụ cùng Hải quân Brazil như là chiếc Santa Catarina (D32). Nó ngừng hoạt động vào năm 1988, và sau đó phục vụ như một mục tiêu thực hành. Vào năm 1989, nó là mục tiêu cho việc phóng thử nghiệm lần đầu tiên tên lửa không đối hạm Sea Skua từ một máy bay trực thăng Westland Lynx của Hải quân Brazil. Con tàu cuối cùng bị đắm vào năm 1990. Phần thưởng Irwin được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân và sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm một Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Triều Tiên. Tham khảo Bài này có các trích dẫn từ nguồn :en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: http://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/i/irwin.html Bài này có các trích dẫn từ nguồn :en:Naval Vessel Register thuộc phạm vi công cộng: www.nvr.navy.mil/SHIPDETAILS/SHIPSDETAIL_DD_794.HTML Liên kết ngoài navsource.org: USS Irwin hazegray.org: USS Irwin Lớp tàu khu trục Fletcher Tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ Tàu khu trục trong Thế Chiến II Tàu khu trục trong Chiến tranh Triều Tiên Tàu khu trục trong Chiến tranh Lạnh Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Brazil Lớp tàu khu trục Pará (1959) Tàu khu trục của Hải quân Brazil Tàu bị đánh chìm như mục tiêu Sự kiện hàng hải 1990 Tàu thủy năm 1943
VI_open-0000004482
Autos_and_Vehicles
Tiến sĩ Federico Chaves Careaga (15 tháng 2 năm 1882 - ngày 24 tháng 4 năm 1978) là một chính trị gia và quân đội Paraguay, từng là tổng thống Paraguay từ ngày 10 tháng 9 năm 1949 đến ngày 5 tháng 5 năm 1954. Ông là thành viên của đảng Colorado. Chaves sinh ngày 15 tháng 2 năm 1882 tại Paraguarí. Cha mẹ ông là Bồ Đào Nha Federico Chaves và Felicia Careaga, từ Guaira, Paraguay. Chaves, người đã nhận được bằng luật sư năm 1905, là một nhà lãnh đạo lâu năm của đảng trung thành Colorado (đảng Cộng hòa). Khi đảng của ông phục vụ trong một liên minh chính phủ vào năm 1946, Chaves đã được bổ nhiệm vào Tòa án Tối cao. Ông từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Paraguay từ năm 1947 cho đến khi ông trở thành tổng thống năm 1949. Ông được bầu vào nhiệm kỳ 3 năm vào năm 1950 và sau đó được bầu lại vào năm 1953. Khi Chaves cố gắng củng cố chế độ của mình bằng cách trang bị cảnh sát quốc gia vào năm 1954, cuộc đảo chính được chỉ huy bởi Tướng Alfredo Stroessner vào ngày 5 tháng 5 đã kết thúc nhiệm kỳ của ông. Chaves đã chết năm 1978 ở tuổi 96 tại thành phố Asunción, từ những nguyên nhân tự nhiên. Ông được chôn với đầy đủ danh dự của nhà nước; Stroessner tham dự các dịch vụ... Tham khảo Chữ đậm Tổng thống Paraguay
VI_open-0000004487
News
Giovanni Leone (; 3 tháng 11 năm 1908 – 9 tháng 11 năm 2001) là chính trị gia người Ý. Ông là Thủ tướng thứ 37 của Ý từ 21 tháng 6 năm 1963 đến 4 tháng 12 năm 1963 và từ 24 tháng 6 năm 1968 đến 12 tháng 12 năm 1968. Ông còn giữ chức Tổng thống thứ sáu của Ý từ năm 1971 đến năm 1978. Tiểu sử Leone sinh ra ở Naples từ Mauro và Maria Gioffredi, cả Pomigliano d'Arco, cha của ông, Mauro Leone là một luật sư nổi bật của Naples Bar, và đã tham gia vào việc thành lập Đảng Nhân dân ở Campania. Ông tốt nghiệp luật năm 1929 của Đại học Naples Federico II có uy tín. Cha của ông là một trong những người sáng lập Democrazia Cristiana ở thành phố quê hương của ông, và ông được bầu vào Quốc hội Lập hiến Ý năm 1946. Một thành viên của phe cánh hữu trong đảng của ông, ông được bầu vào Hạ viện Ý năm 1948, Được xác nhận cho đến năm 1963. Trong những năm 1955-1963, ông cũng là Chủ tịch của Phòng, từ đó ông từ chức một thời gian ngắn làm Thủ tướng. Tham khảo Tổng thống Ý Chính trị gia Ý thế kỷ 20 Thủ tướng Ý
VI_open-0000004491
News
Vieques (, ), đầy đủ Isla de Vieques, là một đảo–municipios của Puerto Rico ở đông bắc Caribbe, là một phần của nhóm đảo đôi khi được gọi là quần đảo Virgin thuộc Tây Ban Nha. Vieques là một phần của Thịnh vượng chung Puerto Rico, và vẫn duy trì ảnh hưởng dài 400 năm của Tây Ban Nha. Vieques nằm cách đảo lớn Puerto Rica về phía đông, và dài chừng , rộng . Điểm dân cư đông nhất trên đảo là Isabel Segunda (đôi khi viết là "Isabel II"), trung tâm hành chính của mạn bắc đảo. Dân số Vieques là 9.301 theo thống kê 2010. Chú thích Địa lý Puerto Rico
VI_open-0000004493
Travel_and_Transportation
Randall Enrique Leal Arley (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1997) là cầu thủ bóng đá người Costa Rica, chơi cho đội Nashville SC đang thi đấu tại giải MLS. Anh từng được triệu tập vào đội tuyển bóng đá quốc gia Costa Rica để tham gia Cúp vàng CONCACAF 2017 nhưng đã bị loại khỏi danh sách chính thức tham dự giải. Chú thích Sinh năm 1997 Cầu thủ Costa Rica Tiền vệ bóng đá Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ
VI_open-0000004495
Sports
Đại tướng Cevdet Sunay (; 10 tháng 2 năm 1899 – 22 tháng 5 năm 1982) là sĩ quan quân đội, chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ và Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ thứ 5. Sunay sinh năm 1899 tại Trabzon, Đế quốc Ottoman. Sau khi học tiểu học và trung học ở Erzurum và Edirne, ông tốt nghiệp Trường Trung học Quân sự Kuleli ở Istanbul. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông chiến đấu ở mặt trận Palestine năm 1917 và trở thành tù binh của Anh ở Ai Cập năm 1918. Sau khi được phóng thích, ông chiến đấu ở mặt trận phía nam, sau đó là mặt trận phía đông trong suốt Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Sunay hoàn thành giáo dục quân sự năm 1927, và tốt nghiệp Học viện Chiến tranh Quân đội (Thổ Nhĩ Kỳ) năm 1930 và là sĩ quan tham mưu. Ông được thăng hàm Đại tướng năm 1949 và sau đó là Tướng bốn sao năm 1959, ông đóng vai trò quan trọng trong công tác quân sự. Năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Lục quân và sau đó là Tổng tham mưu trưởng. Ngày 14 tháng 3 năm 1966, ông được đề cử vào thượng viện bởi Cemal Gürsel dưới thời ông làm Tổng thống. Khi nhiệm kỳ Tổng thống Gürsel chấm dứt vì lý do sức khoẻ và sự phù hợp với Hiến pháp, Cevdet Sunay được bầu làm Tổng thống bởi Hội nghị Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kỳ vào 28 tháng 3 năm 1966. Ông giữ vững chức vụ của mình mặc dù tình trạng gia tăng hoạt động khủng bố và các cuộc phá rối của sinh viên. Ông tại nhiệm 7 năm đến 28 tháng 3 năm 1973 và sau đó trở thành thượng nghị sĩ suốt đời. Ông kết hôn với Atıfet năm 1929. Họ có ba người con. Cevdet Sunay mất vào 22 tháng 5 năm 1982 ở Istanbul. Thi thể của ông được an táng tại khu mộ vĩnh cữu tại Nghĩa trang Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ mới xây ở Ankara. Tham khảo Sinh năm 1899 Mất năm 1982 Quân nhân Ottoman trong Thế chiến thứ nhất Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ
VI_open-0000004498
News
Lanolin (từ tiếng Latin lāna, 'len', và oleum, 'dầu'), còn gọi là sáp len hoặc mỡ len, là một loại sáp tiết ra từ tuyến bã nhờn của động vật có lớp lông len. Lanolin được con người sử dụng có nguồn gốc từ cừu nhà được gây giống đặc biệt chuyên lấy len. Về mặt lịch sử, nhiều dược sĩ đã gọi lanolin như chất béo len (adeps lanae); tuy nhiên, khi lanolin thiếu glycerit (este glycerol), nó không phải là chất béo thật sự. Lanolin chủ yếu bao gồm các ester sterol thay thế. Thuộc tính chống thấm nước của lanolin giúp cừu khi bị đổ nước vào lớp lông phủ ngoài. Một số giống cừu sản sinh lượng lớn lanolin. Có mối tương quan nghịch giữa đường kính sợi và hàm lượng sáp len. Vai trò của lanolin trong tự nhiên là bảo vệ len và da khỏi khí hậu và môi trường; nó cũng đóng vai trò trong vệ sinh da (hệ vỏ bọc). Lanolin và các dẫn xuất được sử dụng để bảo vệ, điều trị và làm đẹp da người. Tham khảo Sáp
VI_open-0000004499
Beauty_and_Fitness
Choi Tae Joon (, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1991) là diễn viên người Hàn Quốc. Một trong những vai diễn sáng giá nhất của anh là con trai của nhân vật chính trong phim Padam Padam... The Sound of His and Her Heartbeats (2011), và vai sinh viên bị bắt nạt trong bộ phim webtoon Adolescence Medley (2013). Anh trở thành người dẫn chương trình dài hạn trong chương trình truyền hình thực tế Hàn Quốc Hello Counselor vào tháng 9 sau hai tuần được làm khách mời vào cuối tháng 8 năm 2016. Đời tư Ngày 7 tháng 3 năm 2018, Huayi Brothers xác nhận rằng Choi Tae-joon đã hẹn hò với nữ diễn viên Park Shin-hye kể từ cuối năm 2017. Ngày 23 tháng 11 năm 2021, công ty chủ quản của Park Shin-hye thông báo rằng cô đang mang thai và chuẩn bị kết hôn với Choi Tae-joon. Họ kết hôn vào ngày 22 tháng 1 năm 2022, trước sự chứng kiến ​​của bạn bè và gia đình trong một lễ cưới tại nhà thờ ở Seoul. Ngày 31 tháng 5 năm 2022, công ty chủ quản của Park Shin-hye thông báo rằng cô đã hạ sinh một bé trai khoẻ mạnh tại bệnh viện Seoul. Cả cô và em bé đều có sức khoẻ tốt. Chồng cô Choi Tae-joon và gia đình ở bên 2 mẹ con để chúc mừng sự kiện trọng đại này. Phim truyền hình Điện ảnh Web series Video ca nhạc Chương trình thực tế Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài Nam diễn viên Seoul Sinh năm 1991 Nhân vật còn sống Nam diễn viên truyền hình Hàn Quốc Cựu sinh viên Đại học Chung-Ang Người Hàn Quốc thế kỷ 20 Người Hàn Quốc thế kỷ 21
VI_open-0000004500
Arts_and_Entertainment
Lưu Tư (chữ Hán: 刘孜, ? – 1468), tự Hiển Tư, người Vạn An, Giang Tây, quan viên nhà Minh. Tiểu sử Năm Chánh Thống thứ 10 (1445) thời Minh Anh Tông, Tư đỗ tiến sĩ; được thụ chức Ngự sử, ra làm Tuần án Liêu Đông. Minh Đại Tông lên ngôi, bấy giờ có người đề nghị dời về nam để tránh quân Ngõa Lạt Mông Cổ, Tư đòi chém kẻ ấy để yên lòng người. Tư mãn nhiệm kỳ, triều đình bàn rằng vùng biên lắm việc, nên giữ ông thêm 1 năm. Sau đó Tư lại làm Tuần án Trực Lệ. Khi ấy triều đình sắp xây thành Luân Châu, nhưng theo lời Tư nên bãi bỏ. Tiếp đó Tư được cất làm Sơn Đông án sát sứ. Năm Thiên Thuận thứ 4 (1460) thời Minh Anh Tông phục vị, bộ Lại tiến cử quan viên có thành tích tốt trong cả nước, Án sát sứ được chọn chỉ có mình Tư. Mùa xuân năm sau (1461), Tư giữ chức Hữu phó đô ngự sử, làm Tuần phủ Giang Nam 10 phủ. Tô Châu, Tùng Giang giàu có, từ khi Chu Thầm lập ra phép Bình mễ , đã trải qua nhiều thay đổi; Tư mô phỏng lối cũ của Chu Thầm, châm chước thi hành, được dân khen là tiện. Năm Thành Hóa đẩu tiên (1465), phủ Ứng Thiên có nạn đói, quan viên đang chẩn cứu, nhưng dân đói Giang Bắc kéo đến xin ăn quá nhiều. Tư đề nghị mở hết kho của các huyện, cứu sống nạn dân không đếm xuể. Bấy giờ khắp nơi chịu thiên tai, ruộng công ven Trường Giang bỏ phế đã lâu, nhưng triều đình vẫn thu thuế: các phủ Tô Châu, Tùng Giang, Hàng Châu, Gia Hưng ghi chép bổ sung số nhà giàu trong địa phương; nhà môn của Nam Kinh đã đổ nát, nhưng vẫn trưng thu hàng hóa; nông dân Thương Nguyên, Giang Ninh thay nhà chài ven Hoàng Hà bắt cá cháy; thuế của phủ Ứng Thiên bị các Tuyên khóa tư thu thêm thuế ngoài ngạch ; dân các huyện Giang Âm phải nộp tô ruộng bỏ hoang; Lục Hợp, Giang Phổ (nay là Phổ Khẩu) thu tiền cho thuê bò của quan bằng cách đòi cả nghé. Tư đều dâng sớ đề nghị bãi bỏ tất cả. Sau đó Tư được triệu bái làm Nam Kinh Hình bộ thượng thư. Năm thứ 4 (1468), Tư được trí sĩ, mất trên đường về quê nhà. Đánh giá Sử cũ nhận xét Tư có tính thanh liêm và thận trọng, làm việc kín đáo và kỹ lưỡng. Nhưng Tư dùng pháp luật quá nghiêm khắc, nên người đương thời bình luận rằng ông quá cay nghiệt. Tham khảo Minh sử quyển 159, liệt truyện 47 – Lưu Tư truyện Chú thích Nhân vật chính trị nhà Minh Người Giang Tây Năm sinh không rõ Mất năm 1468 Tiến sĩ nhà Minh
VI_open-0000004505
News
"Get Here" là một bản ballad pop được viết bởi ca sĩ / nhạc sĩ người Mỹ Brenda Russell: ca khúc chủ đề của album năm 1988 Get Here, nó đã trở thành một hit trung bình trên bảng xếp hạng Billboard R & B. Năm 1990, ca sĩ người Mỹ Oleta Adams thu âm ca khúc này đã trở thành hit lớn quốc tế, đạt vị trí thứ 5 ở cả Mỹ và Anh. Phiên bản "Get Here" của Adams, đồng sản xuất bởi Roland Orzabal từ ban nhạc Tears for Fears, đã trở thành ca khúc có chữ ký của cô. Biên soạn và phát hành lần đầu Brenda Russell viết bài hát trong khi ở tại một penthouse ở Stockholm: giai điệu đã đến với cô khi cô xem một số khí cầu khinh khí cầu nổi trên thành phố, một cảnh Russell nhớ lại đã làm cô "thật sự vấp phải về câu hỏi bao nhiêu cách bạn có thể đến với một người " (Lời nhạc sau cùng của bài hát bao gồm dòng chữ:" Bạn có thể làm điều đó trong một quả bóng lớn nhưng bạn nên làm nó sớm hơn "). Mặc dù Russell đã không theo đuổi ý tưởng âm nhạc của cô khi hãng thu âm hiện tại của cô xem cô như một nghệ sĩ khiêu vũ và cô nghĩ họ sẽ không quan tâm đến một bài hát như bài "Get Here", bài hát vẫn còn trong tâm trí của ca sĩ khi cô ấy thức dậy vào ngày hôm sau: "Tôi không đọc hay viết nhạc (do đó thật phi thường nếu bài hát vẫn còn trong đầu tôi mà tôi chưa ghi lại hoặc thu âm.) Vì vậy, nếu nó vẫn nằm trong đầu tôi qua đêm, tôi nghĩ đó là một cái gì đó đặc biệt, giống như ai đó đang cố nói với tôi điều gì đó. " Russell viết ca khúc này như là tiêu đề của album năm 1988, từ cuốn album nó được phát hành dưới dạng single - thứ ba của album - đạt # 37 trên Bảng xếp hạng Billboard R & B. Phiên bản Oleta Adams Trong khi Oleta Adams đang viếng thăm Stockholm, cô nghe bài hát của Russell đang chơi trong một cửa hàng đĩa hát và đã đủ ấn tượng với bài hát này để thu âm nó trong album Circle of One năm 1990. Phiên bản "Get Here" của Adams đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào đầu năm 1991. Các sự kiện trên thế giới vào thời điểm này đã mang lại cho bài hát này một tiếng vang như một bài hát cho quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh vùng Vịnh - được nhấn mạnh bởi lời bài hát: "Bạn có thể tiếp cận tôi bằng Caravan / Cross sa mạc giống như một người đàn ông Ả rập "- đã đưa single của Adams vào Top Ten của Billboard Hot 100 vào mùa xuân năm 1991. Tham khảo Bài hát năm 1988 Đĩa đơn năm 1988 Đĩa đơn năm 1991 Pop ballad Soul ballad Đĩa đơn của A&M Records
VI_open-0000004507
Arts_and_Entertainment
Nhật Bản tham dự Thế vận hội lần đầu tiên vào năm 1912, và đã góp mặt tại hầu hết các kỳ đại hội kể từ thời điểm đó. Quốc gia này không được mời tới Thế vận hội 1948 sau Đệ nhị Thế chiến, và từng tham gia tẩy chay Thế vận hội Mùa hè 1980 tại Moskva. Nhật Bản giành những tấm huy chương Olympic đầu tiên vào năm 1920, và lần đầu chinh phục thành công các tấm huy chương vàng vào năm 1928. Các vận động viên (VĐV) Nhật Bản đã mang về tổng cộng 439 huy chương từ các kỳ Thế vận hội Mùa hè, trong đó đa số huy chương vàng thuộc môn judo. Nhật Bản có 58 huy chương tại Thế vận hội Mùa đông. Ủy ban Olympic Nhật Bản được thành lập năm 1911 và được công nhận năm 1912. Các kỳ Thế vận hội Nhật Bản đã tổ chức Nhật Bản đã 4 lần làm nước chủ nhà Olympic: Bảng huy chương *Thế vận hội do Nhật Bản tổ chức nằm trong ô viền đỏ Huy chương tại các kỳ Thế vận hội Mùa hè Huy chương tại các kỳ Thế vận hội Mùa đông Huy chương theo môn (Thế vận hội Mùa hè) Huy chương theo môn (Thế vận hội Mùa đông) Các VĐV cầm cờ cho đoàn tại các kỳ Olympic Tham khảo Liên kết ngoài
VI_open-0000004508
Sports
Trong hình học,  tâm của một đối tượng là một điểm mà theo một nghĩa nào đó nằm ở giữa đối tượng. Theo định nghĩa cụ thể của tâm được xem xét, một vật thể có thể không có tâm. Nếu hình học được coi là nghiên cứu các nhóm đẳng cấu thì tâm là một điểm cố định của tất cả các đẳng cấu di chuyển đối tượng lên chính nó. Đường tròn, mặt cầu và đoạn thẳng Tâm của một đường tròn là điểm cách đều các điểm trên đường tròn. Tương tự, tâm của một mặt cầu là điểm cách đều các điểm trên mặt cầu, và tâm của một đoạn thẳng là trung điểm của đoạn thẳng đó. Đối tượng đối xứng Đối với các đối tượng có tính đối xứng, tâm đối xứng là điểm không thay đổi của các phép đối xứng. Vì vậy, tâm của một hình vuông, hình chữ nhật, hình thoi hoặc hình bình hành là nơi các đường chéo giao nhau, đây là điểm cố định của các phép quay đối xứng. Tương tự, trung tâm của một elip hoặc hyperbol là giao điểm của hai trục. Tham khảo Hình học sơ cấp
VI_open-0000004509
Science