en
stringlengths
1
8.65k
vi
stringlengths
1
3.03k
OBJECTIVE Analysis of the 5alpha-reductase type 2 (SRD5A2) gene in Egyptian patients with suspected 5alpha-reductase (5alphaR) deficiency. PATIENTS AND METHODS Eight unrelated patients, originating from different geographical areas of Egypt, were referred to the Department of Pediatrics. Six prepubertal and two postpubertal patients presented with ambiguous genitalia. Four were being reared as females while the others were being reared as males. Six patients were products of consanguineous marriages. All patients had 46,XY karyotype. Basal and post-human chorionic gonadotrophin (hCG) stimulation plasma levels of testosterone and dihydrotestosterone were determined. Sequencing of five exons of the SRD5A2 gene was carried out. RESULTS All patients had normal male testosterone levels, both basal and post-hCG stimulation. The T/DHT ratio was available for six patients and showed values that ranged from normal to high. Three different homozygous mutations were identified. One patient carried a Y235F substitution and two had a N160D substitution. Interestingly, all five of the other patients had the G34R mutation. The parents were heterozygous for the mutations, although the mother of one patient was homozygous for the G34R mutation. CONCLUSION Among eight unrelated Egyptian children with 5alpha-reductase deficiency, the G34R mutation was identified in five patients. The high consanguinity rate in Egypt suggests a common ancestor with a founder gene effect in cases of G34R mutation.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 8 bệnh nhi nghi ngờ thiếu hụt 5alpha-reductase type 2 (SRD5A2) từ Ai Cập được đưa vào khoa Nhi. Sáu bệnh nhi trước và sau sinh có cơ quan sinh dục không rõ ràng. Bốn bệnh nhi được nuôi dưỡng với tư cách là nữ giới, bốn bệnh nhi còn lại là nam giới. Sáu bệnh nhi là sản phẩm của quá trình kết hôn đồng huyết. Tất cả các bệnh nhân đều có 46 kiểu nhân đồ XY. Nồng độ testosteron và dihydrotestosterone (HCG) ở hai nhóm kích thích cơ quan sinh dục dưới và cơ quan sinh dục sau được xác định. Giải trình tự năm exon của gen SRD5A2. Kết quả cho thấy tất cả các bệnh nhân đều có nồng độ testosteron nam bình thường, cả kích thích cơ bản và sau hCG. Tỷ lệ T/DHT cho thấy có 6 bệnh nhân có mức độ từ bình thường đến cao. Ba đột biến đồng hợp tử khác nhau được phát hiện. Một bệnh nhân mang gen thay thế Y235F và hai bệnh nhân mang gen thay thế N160D. Cả năm bệnh nhân còn lại đều mang gen G34R. Bố mẹ dị hợp tử đối với đột biến này, mặc dù mẹ của một bệnh nhân là đồng hợp tử đối với đột biến G34R. Kết luận: Trong số 8 trẻ em Ai Cập không có quan hệ huyết thống, có 5 bệnh nhi nghi ngờ thiếu hụt 5alpha-reductase được xác định đột biến gen G34R. Tỷ lệ đồng huyết cao ở Ai Cập cho thấy có một tổ tiên chung có hiệu lực gen sáng lập trong các trường hợp đột biến gen G34R.
BACKGROUND Familial isolated hyperparathyroidism (FIHP) is an autosomal dominant disorder characterized by uniglandular or multiglandular parathyroid tumours that occur in the absence of other endocrine tumours. The disorder may represent either an early stage of multiple endocrine neoplasia type 1 (MEN1), or an allelic variant of MEN1, or a distinct entity involving another locus. We have explored these possibilities in seven families in whom primary hyperparathyroidism occurred as the sole endocrinopathy. METHODS Seven FIHP families were ascertained and venous blood samples obtained from 35 members (17 affected and 18 unaffected) for DNA sequence analysis of the MEN1 gene. The mean (+/- SD) follow-up period in the 17 affected members was 15.06 (+/- 8.83) years. RESULTS Four heterozygous germline mutations of the MEN1 gene were identified. These consisted of two 4-bp intragenic deletions that would result in prematurely truncated proteins, and two missense (Asp153Val and Ala411Pro) mutations. Furthermore, analysis of parathyroid tumour DNA from one individual revealed a loss of the wild-type allele and retention of the mutant allele, consistent with Knudson's 'two-hit' model of hereditary cancer and a tumour suppressor role for MEN1 in FIHP. CONCLUSIONS Our results provide further support for FIHP being a distinct allelic variant of MEN1, and an analysis of the 16 mutations reported to date indicate that FIHP is associated with a higher frequency of missense MEN1 mutations.
GIẢI PHẪU TRƯỚC SỰ CỐ CỦA GIẢI PHẪU TRUYỀN THẦN KINH PHÂN LẬP GIA ĐÌNH CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP CÂN ĐỘC TRONG GIA ĐÌNH là một bệnh lý nội tiết đơn tuyến hoặc đa tuyến, thường xảy ra khi không có các u nội tiết khác. Bệnh có thể biểu hiện ở giai đoạn đầu của nhiều u
Animal models for migraine have provided substantial advances on the mechanisms and mediators underlying migraine attacks. The neurogenic inflammation model has helped understanding the perivascular mechanisms underlying the pathophysiology of migraine attacks, the receptors involved and the effect of specific antimigraine drugs. The model based on probing the neuronal effects of nitroglycerin--an organic nitrate known to induce spontaneous-like migraine attacks in predisposed subjects--in the rat has provided interesting insights into the neuroanatomic circuits and neuropharmacological mechanisms involved in the initiation and repetition of migraine attacks [corrected].
Mô hình gây đau nửa đầu trên động vật đã mang lại những tiến bộ đáng kể về cơ chế và chất trung gian gây ra cơn đau nửa đầu. Mô hình viêm thần kinh đã giúp hiểu thêm về cơ chế quanh mạch máu của sinh lý bệnh lý cơn đau nửa đầu, các thụ thể liên quan và tác dụng của thuốc chống đau nửa đầu. Mô hình dựa trên việc thăm dò tác dụng thần kinh của nitroglycerin-một nitrat hữu cơ được biết đến là có khả năng gây ra cơn đau nửa đầu tự phát ở những đối tượng dễ mắc bệnh-ở chuột cống đã cung cấp những hiểu biết
EEG-studies in migraine in the last decade has contributed modestly to the understanding of headache pathogenesis. Headache patient groups seem to have increased EEG responses to photic stimulation, but a useful biological marker for migraine in single patients has not been found. In future EEG and QEEG studies we recommend to use follow-up designs and record several EEGs across the migraine cycle. It is also important to use a blinded study design in order to avoid selection bias. A clinical EEG should be performed in patients with acute headache attacks when either epilepsy, basilar migraine, migraine with prolonged aura or alternating hemiplegia is suspected. Unequivocal epileptiform abnormalities usually suggest a diagnosis of epilepsy. In children with occipital spike-wave activity the probable diagnosis is childhood epilepsy with occipital paroxysms (CEOP). The final diagnosis of either an epilepsy syndrome or migraine must be mainly based on a clinical judgement [corrected].
Nghiên cứu điện não đồ về chứng đau nửa đầu trong thập kỷ qua đã đóng góp khiêm tốn cho sự hiểu biết về sinh bệnh học của chứng đau đầu. Các nhóm bệnh nhân đau đầu dường như có phản ứng điện não đồ tăng lên khi kích thích ánh sáng, nhưng một dấu hiệu sinh học hữu ích cho chứng đau nửa đầu ở bệnh nhân đơn lẻ chưa được tìm thấy. Trong các nghiên cứu điện não đồ và QEEG trong tương lai, chúng tôi khuyến cáo sử dụng các thiết kế theo dõi và ghi lại một số điện não đồ trong suốt chu kỳ đau nửa đầu. Điều quan trọng là sử
Electrophysiological methods may help to unravel some of the pathophysiological mechanisms of migraine. Lack of habituation is the principal and most reproducible interictal abnormality in sensory processing in migraineurs. It is found in evoked potential (EP) studies for every stimulation modality including nociceptive stimuli, and it is likely to be responsible for the increased intensity dependence of EP. We have hypothesized that deficient EP habituation in migraine could be due to a reduced preactivation level of sensory cortices because of hypofunctioning subcortico-cortical aminergic pathways. This is not in keeping with simple hyperexcitability of the cortex, which has been suggested by some, but not all, studies of transcranial magnetic stimulation (TMS). A recent study of the effects of repetitive TMS on visual EP strongly supports the hypothesis that migraine is characterized by interictal cortical hypoexcitability. With regard to pain mechanisms in migraine, electrophysiological studies of trigeminal pathways using nociceptive blink and corneal reflexes have confirmed that sensitization of central trigeminal nociceptors occurs during migraine attacks.
Các phương pháp điện sinh lý có thể giúp làm sáng tỏ một số cơ chế sinh lý bệnh của chứng đau nửa đầu. Thiếu thói quen là bất thường liênictal chính và có thể tái tạo nhất trong quá trình xử lý cảm giác ở bệnh nhân đau nửa đầu. Nó được tìm thấy trong các nghiên cứu tiềm năng gợi ý (EP) cho mọi phương thức kích thích bao gồm cả kích thích đau, và có khả năng là nguyên nhân làm tăng cường độ phụ thuộc EP. Chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng thiếu thói quen EP trong đau nửa đầu có thể là do giảm mức độ hoạt động
Nociceptive processing in trigeminal system is likely to undergo to significant changes in chronic pain disorders such as in primary headache. The electrophysiological testing of brainstem reflexes seems to offer a valuable adjunct to the clinical evaluation, providing direct evidence for central dysmodulation of sensory and pain neurotransmission, i.e. dishabituation pattern and reduced pain threshold. We review the contribution of trigeminofacial reflex studies in the light of those recent data supporting the view of a dysfunctional sensory processing in primary headache.
Xử lý cảm giác đau trong hệ thần kinh sinh ba có khả năng trải qua những thay đổi đáng kể trong các rối loạn đau mạn tính như đau đầu nguyên phát. Các xét nghiệm điện sinh lý phản xạ thân não dường như là một bổ trợ có giá trị cho đánh giá lâm sàng, cung cấp bằng chứng trực tiếp cho sự rối loạn trung tâm dẫn truyền thần kinh cảm giác và đau, tức là mô hình thói quen và ngưỡng đau giảm. Chúng tôi đánh giá sự đóng góp của các nghiên cứu phản xạ thần kinh sinh ba dưới ánh sáng của các dữ liệu gần đây hỗ trợ cho quan điểm xử lý cảm
Involvement of the (efferent) autonomic nervous system in the generation of pain is ongoing matter of debate. Based on clinical and experimental observations, there are good arguments that the sympathetic nervous system may be involved in pain following trauma, with and without nerve lesion, at an extremity, such as in complex regional pain syndrome type I and II. However, the mechanisms involved are in many cases still unclear. In various types of headache there is no convincing evidence that the sympathetic nervous system is involved in the generation of pain, although these pains may be accompanied by considerable autonomic reactions which are dependent on activity in sympathetic neurons. Migraine and headaches with autonomic symptoms are accompanied by autonomic reactions which are dependent on activity in cranial parasympathetic neurons. Whether parasympathetic neurons innervating cranial blood vessels are involved in activation or sensitization of trigemino-vascular afferents is discussed and needs experimental verification.
Sự tham gia của hệ thần kinh tự chủ (hơi hướng ngoại) trong việc tạo ra cơn đau là vấn đề gây tranh cãi đang diễn ra. Dựa trên các quan sát lâm sàng và thực nghiệm, có những lập luận tốt cho rằng hệ thần kinh giao cảm có thể liên quan đến cơn đau sau chấn thương, có và không có tổn thương thần kinh, ở một chi, chẳng hạn như trong hội chứng đau khu vực phức tạp loại I và II. Tuy nhiên, cơ chế liên quan trong nhiều trường hợp vẫn chưa rõ ràng. Trong các loại đau đầu khác nhau, không có bằng chứng thuyết phục
Despite the tremendous socioeconomic impact of tension-type headache surprisingly little is known about the underlying pathophysiology and treatment. Existing evidence and theories about the relation between central and peripheral mechanisms are discussed. Central sensitization is probably the most important key to understand this widespread disorder. An effective prevention or reversal of this central sensitization will probably be of major importance in future treatment strategies.
Mặc dù có tác động kinh tế xã hội to lớn nhưng người ta biết rất ít về sinh lý bệnh và cách điều trị bệnh đau đầu do căng thẳng. Các bằng chứng và lý thuyết hiện có về mối liên quan giữa cơ chế trung tâm và ngoại vi được thảo luận. Cảm giác trung tâm có lẽ là chìa khóa quan trọng nhất để hiểu được chứng đau đầu lan rộng này. Việc ngăn ngừa hoặc đảo ngược hiệu quả cảm giác trung tâm có thể sẽ có tầm quan trọng lớn trong các chiến lược điều trị trong tương lai.
OBJECTIVE To assess the practicability and efficacy of systematic screening for renal cell carcinoma (RCC) by ultrasonography (US), as more small RCCs are being detected incidentally by US. SUBJECTS AND METHODS A 2-year screening programme for RCC was established for the general population (aged >or= 40 years) in two German cities, Mainz and Wuppertal. In cooperation with different health insurers, the organisers recruited general practitioners, internists and urologists in private practice who were experienced in and equipped to conduct renal US. The screening was offered in the form of cost-free renal US in the first year and a re-examination in the second. For any equivocal or positive renal mass, a reference ultrasonogram was provided by the urology departments at the two university hospitals. RESULTS In all, 9959 volunteers participated in the screening programme (49% men, 51% women, mean age 61 years, range 40-94) in the first year. Of these participants, 79% returned for re-examination in the second year. Thirteen (0.1%) subjects were found to have a renal mass, of which nine were RCC. The sensitivity of the programme was 82% (at the 1-year follow-up), and the predictive value 2% for equivocal findings on initial examination and 50% for positive findings. The incidence of other abnormal findings was 12%. CONCLUSION The screening programme was well accepted by physicians in private practice and by the eligible population. The method was effective, especially if equivocal findings were re-assessed by reference US before using further imaging studies, e.g. computed tomography or magnetic resonance imaging.
ĐÁNH GIÁ TÍNH THỰC TRẠNG VÀ TÁC DỤNG CỦA CHẨN ĐOÁN SUY GIẢM THƯỜNG XUYÊN UNG THƯ TẾ BÀO THEO CHẨN ĐOÁN SỐ 2 NĂM 2012 Chương trình sàng lọc ung thư biểu mô tế bào thận bằng siêu âm (US) được xây dựng cho đối tượng người dân (> = 40 tuổi) tại
OBJECTIVE To document long-term survival in patients with renal cell carcinoma (RCC) in whom the primary tumour was left in situ and treatment limited to palliative and symptomatic measures. PATIENTS AND METHODS All patients with a diagnosis of RCC from January 1994 to January 1999 and in whom the primary tumour was left in situ were identified from hospital records (nine women and 16 men, mean age 69 years). The tumour stage was T1-T4. RESULTS The mean survival overall was 19.3 months; patients with locally advanced disease, i.e. stage >or= T3a, had a mean survival of 16.9 months. CONCLUSIONS There is renewed interest in the management of advanced RCC, with data supporting cytoreductive nephrectomy with systemic biological therapy. These results confirm that such patients with or without metastatic disease can survive for a considerable period with no aggressive surgical or systemic measures, and such intervention may offer no significant advantage in outcome and survival over supportive treatment alone.
MỤC TIÊU: Ghi nhận thời gian sống thêm của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào thận (UTBMTN) có khối u nguyên phát để lại tại chỗ và điều trị hạn chế ở các biện pháp giảm nhẹ và triệu chứng. BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP TỔNG QUÁT TÌNH TRẠNG THỰC NGHIỆM Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán UTBMTNT từ tháng 1/1994
OBJECTIVES To analyse descriptively the use of complementary medicine (CM) by patients with localized prostate cancer treated with curative intent, assessing the major influences on their choice to use CM, and the major critics and advocates of CM. PATIENTS AND METHODS From January 1997 to June 2000, 351 men with stage T1c-T3 adenocarcinoma of the prostate were treated with either radical prostatectomy (RP) or brachytherapy. On the final date all patients were mailed a questionnaire relating to their use of CM and the results analysed cross-sectionally. RESULTS In all, 238 (67.8%) patients returned the questionnaires, of whom 37% acknowledged using some type of CM, with a similar overall use of CM among those treated with RP or brachytherapy. Of these, 43% began using CM before and 32% after starting conventional treatment, and most indicated they would never discontinue these therapies. The most common reason for using CM was the patient's impression that it made them feel better, and secondarily that they felt it helped to cure their cancer. Physicians were the most common source of information about CM, with twice as many patients identifying physicians as being advocates rather than critics of CM. Many patients felt their urologist or radiation oncologist was neutral or chose not to discuss CM. However, when these physicians discussed CM, more patients felt that they encouraged rather than discouraged the use of CM. CONCLUSIONS These data on the motivations for patient choices relating to CM are novel; the sources of information, both positive and negative, that patients find useful in their decision to use these therapies were explored. Interestingly, physicians were generally supportive of the use of such approaches.
TỔNG QUAN Phân tích mô tả việc sử dụng thuốc bổ sung (CM) ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt cục bộ được điều trị có chủ đích, đánh giá ảnh hưởng chính đến sự lựa chọn sử dụng CM của bệnh nhân và những người chỉ trích cũng như ủng hộ CM. BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP TIỀN TIỀN Từ tháng 1/1997 đến tháng 6/2000,351 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn T1c-T3 đã được điều trị bằng phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc (RP) hoặc xạ trị (BTTT ). Vào ngày cuối cùng, tất cả bệnh nhân được gửi một bảng câu hỏi về việc sử dụng CM và kết quả được phân tích theo phương pháp mô tả cắt ngang. KẾT QUẢ TỔNG QUÁT: Có 238 bệnh nhân (67,8% ) đã trả lời câu hỏi, trong đó 37% thừa nhận sử dụng một số loại CM, sử dụng chung tương tự như CM trong số những người được điều trị bằng RP hoặc xạ trị. Trong số này, 43% đã bắt đầu sử dụng CM trước và 32% sau khi bắt đầu điều trị thông thường, và hầu hết cho biết họ sẽ không bao giờ ngừng sử dụng các liệu pháp này. Lý do phổ biến nhất để sử dụng CM là bệnh nhân cảm thấy nó làm họ cảm thấy tốt hơn, và thứ hai là họ cảm thấy nó giúp chữa khỏi bệnh ung thư của họ. Các bác sĩ là nguồn thông tin phổ biến nhất về CM, với số lượng bệnh nhân gấp đôi nhận định các bác sĩ là những người ủng hộ CM hơn là chỉ trích CM. Nhiều bệnh nhân cảm thấy bác sĩ chuyên khoa tiết niệu hoặc xạ trị là trung lập hoặc chọn không thảo luận về CM. Tuy nhiên, khi các bác sĩ thảo luận về CM, nhiều bệnh nhân cảm thấy họ khuyến khích hơn là không khuyến khích sử dụng CM. KẾT LUẬN: Những dữ liệu này về động cơ lựa chọn CM của bệnh nhân là mới; các nguồn thông tin, cả tích cực và tiêu cực mà bệnh nhân thấy hữu ích trong quyết định sử dụng các liệu pháp này đã được khám phá. Thú vị thay, các bác sĩ nhìn
OBJECTIVE To present the results (to January 1996, the end of blinded treatment) of the Nutritional Prevention of Cancer (NPC) Trial, a randomized trial of selenium (200 micro g daily) designed to test the hypothesis that selenium supplementation (SS) could reduce the risk of recurrent nonmelanoma skin cancer among 1312 residents of the Eastern USA. MATERIALS AND METHODS Original secondary analyses of the NPC to 1993 showed striking inverse associations between SS and prostate cancer incidence. A subsequent report revealed that this effect was accentuated among men with the lowest baseline plasma selenium concentrations. The effects of treatment overall and within subgroups of baseline prostate-specific antigen (PSA) and plasma selenium concentrations were examined using incidence rate ratios and Cox proportional hazards models. RESULTS SS continued to significantly reduce the overall incidence (relative risk and 95% confidence interval) of prostate cancer (0.51, 0.29-0.87). The protective effect of SS appeared to be confined to those with a baseline PSA level of <or= 4 ng/mL (0.35, 0.13-0.87), although the interaction of baseline PSA and treatment was not statistically significant. Participants with baseline plasma selenium concentrations only in the lowest two tertiles (< 123.2 ng/mL) had significant reductions in prostate cancer incidence. A significant interaction between baseline plasma selenium and treatment was detected. CONCLUSION To the end of the blinded treatment the NPC trial continued to show a significant protective effect of SS on the overall incidence of prostate cancer, although the effect was restricted to those with lower baseline PSA and plasma selenium concentrations.
THỰC TRẠNG THỬ NGHIỆM DINH DƯỠNG CỦA SS (THỰC TRẠNG ĐIỀU TRỊ ĐỘT QUỴ NÃO) TRONG PHÒNG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TIỀN LIỆT Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá giả thuyết cho rằng bổ sung selen (SS) có thể làm giảm nguy cơ tái phát ung thư da không phải u ác tính ở 1312 người dân tại miền Đông Hoa Kỳ. Các phân tích thứ cấp ban đầu của N
OBJECTIVE To report results of a clinical investigation on the detection of bladder dysplasia and in situ carcinoma by using fluorescence induced by 5-aminolaevulinic acid (ALA). PATIENTS AND METHODS The study included 50 patients with a primary bladder lesion, who had a bladder instillation of 50 mL of 3% ALA solution >or= 1 h before transurethral resection of the tumour. Random biopsies were taken using white-light cystoscopy, then using blue light to induce fluorescence; positive zones were noted and biopsied. The primary lesion was then resected. The frequency of dysplasia detected by ALA-induced fluorescence was evaluated, as was the risk of recurrence with a follow-up of >or= 2 years. RESULTS In all patients the tumours were positive; in 21 fluorescence distant from the tumour was detected. The pathological report of the biopsies showed 11 cases of dysplasia, six of carcinoma in situ and four of inflammatory lesions. In 29 patients there was no fluorescence and quadrant biopsies were normal in all but three with moderate dysplasia. Within the minimum follow-up patients with bladder dysplasia detected by ALA-induced fluorescence had a higher risk of recurrence. CONCLUSION ALA-induced fluorescence of the bladder significantly enhanced the detection of dysplasia and in situ carcinoma. However, this technique requires further investigation using well-characterized instrumentation and study protocols to determine any effect on treatment choice.
MỤC TIÊU KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BỆNH VIÊM SAU PHẪU THUẬT SỬ DỤNG HUYẾT ÁP BẰNG ALA (5-aminolaevulinic acid-ALA ). BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH Nghiên cứu được tiến hành trên 50 bệnh nhân có tổn thương bàng quang nguyên phát, được thấm 50 mL dung dịch ALA 3% trước phẫu thuật cắt đốt qua đường hậu môn. Sinh thiết được thực hiện bằng phương pháp nội soi bàng quang bằng ánh sáng trắng, sau đó sử dụng ánh sáng xanh để tạo huỳnh quang; vùng dương tính được phát hiện và sinh thiết. Tổn thương nguyên phát được cắt đốt. Tần suất xuất hiện loạn sản do ALA được đánh giá, nguy cơ tái phát sau 2 năm theo dõi. KẾT QUẢ: Tất cả các trường hợp đều dương tính, 6 trường hợp ung thư bàng quang phát hiện tại chỗ và 4 trường hợp có tổn thương viêm. 29 trường hợp không có huỳnh quang và sinh thiết 1/4 đều bình thường, chỉ có 3 trường hợp loạn sản mức độ vừa. Trong số theo dõi tối thiểu, bệnh nhân loạn sản bàng quang phát hiện do ALA có nguy cơ tái phát cao hơn. Kết luận: Kết quả sinh thiết cho thấy có 11 trường hợp loạn sản, 6 trường hợp ung thư bàng quang phát hiện tại chỗ và 4 trường hợp có tổn thương viêm. Kết luận: Tất cả các trường hợp đều có nguy cơ tái phát cao hơn so với nhóm chứng. Kết luận: Kết quả sinh thiết cho thấy có sự gia tăng đáng kể về khả năng phát hiện loạn sản và ung thư bàng quang. Tuy nhiên, kỹ thuật này đòi hỏi phải nghiên cứu sâu hơn, sử dụng thiết bị và phác đồ nghiên cứu có tính đặc thù để xác định hiệu quả của phương pháp này.
OBJECTIVE To evaluate the safety and efficacy of the Urolume endourethral self-expandable metallic stent (American Medical Systems, MI, USA) in treating urethral strictures, based on a follow-up of> 10 years. PATIENTS AND METHODS Between November 1989 and June 1990, the Urolume stent was inserted into 15 patients (aged 25-77 years) who had recurrent urethral strictures. The mean duration of stricture before stent insertion was 10.9 years. The patients (all men) were followed using a questionnaire and uroflowmetry, and if necessary, retrograde cysto-urethrography and/or urethroscopy and/or X-ray urodynamics. RESULTS Two failures were caused by excessive tissue proliferation in the stent, which ended in stent removal or a suprapubic catheter. Another two stents were removed because of discomfort or pain. Two patients developed stenosis in the stent after 7 and 9 years. In the final evaluation only two of the 15 patients were satisfied with their stent. The mean maximum urinary flow rate at the last follow-up was 15 mL/s, and half the patients noted 'stent' incontinence. Lower urinary tract infections, urge and stress incontinence, and discomfort with ejaculation, were all symptoms perceived at the last follow-up. CONCLUSION The long-term results of the Urolume stent in this study weaken the optimistic early results. Only two of the 15 patients were satisfied with their stent.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG VÀ TÁC DỤNG CỦA THÉP kim loại tự giãn nở ĐƯỜNG THƯỜNG TRÊN 15 BỆNH NHÂN ĐƯỜNG THƯỜNG TRÚ TRÊN 10 NĂM 1989 VÀ 6/1990 TRÊN 15 BỆNH NHÂN ĐƯỜNG THƯỜNG TRÚ TR
OBJECTIVE To investigate nonresponse bias in a postal survey on urinary symptoms in people aged >or= 40 years. SUBJECTS AND METHODS Nonresponders to a postal survey on incontinence and other urinary symptoms were studied. A random sample of 1050 nonresponders (stratified for age and sex) was traced by a team of interviewers. Eligible nonresponders were asked several questions from the postal questionnaire, and their reason for not participating in the postal survey. RESULTS Only 1% of those not responding were not traced in person or accounted for, and 12% were identified as not eligible to be in the survey sample (moved from address, deceased, residential home). Half of the eligible nonresponders (51%) did not answer the interviewer's questions, the main reason being general unwillingness or disinterest. The number in whom poor health was the reason increased with age. Comparing nonresponders who answered the interviewer's questions with a random sample of responders from the postal survey showed little difference in the reporting of urinary symptoms, although there were differences in general health and long-term health problems. Separate analyses by age showed greater reporting of some urinary symptoms and of poorer general health in the older nonresponders (>or= 70 years). CONCLUSION Overall, for people aged >or= 40 years there was no evidence of a nonresponse bias in the reporting of urinary symptoms, providing confidence in such prevalence rates. However, poorer general health and greater reporting of some urinary symptoms by the older nonresponders (>or= 70 years) suggests prevalence rates in this age group may be underestimated.
ĐỐI TƯỢNG ĐÁNH GIÁ THAM GIA CÁC THAM GIA TRONG ĐIỀU TRỊ TIÊM TIẾT Ở NGƯỜI > = 40 TUỔI Nghiên cứu đối tượng và phương pháp khảo sát. Nhóm đối tượng không đáp ứng với khảo sát qua bưu điện về chứng tiểu không tự chủ và các triệu chứng tiểu tiện khác được chọn ngẫu nhiên từ 1050 đối tượng không đáp ứng (được phân loại theo tuổi và giới tính) và được nhóm người
OBJECTIVE To investigate the short-term safety of desmopressin in elderly patients with nocturia, with special focus on the risk of hyponatraemia, and to assess the short-term effects on urine output, sleep and voiding patterns. PATIENTS AND METHODS Patients (72) were recruited from a study using frequency-volume charts, which in turn was preceded by a questionnaire study. Each patient took one 0.2 mg desmopressin tablet at bedtime for three consecutive nights and kept a frequency-volume chart. Serum sodium was assessed in the morning after the first and the third dose. Patients with a mean serum sodium level during treatment deviating more than five units from baseline were considered sensitive to change in serum sodium. Potential predictors for sodium sensitivity and response were investigated with logistic and multiple regression. RESULTS All 72 enrolled patients completed the trial; no serious adverse events occurred and no adverse events of severe intensity were recorded. Six patients were sensitive to change in serum sodium. The risk (odds ratio, 95% confidence interval) increased with increasing age (1.3, 1.1-1.6), concomitant cardiac disease (10.0, 0.9-105.8) and increasing baseline 24-h urine output (1.2, 1.0-1.5). Patients sensitive to change in serum sodium were pharmacological responders and desmopressin had a greater effect on their 24-h diuresis, indicating that the drug effect was not limited to the night only. CONCLUSION Desmopressin was well tolerated in elderly patients with nocturia, but the results suggest that serum sodium should be measured before and after a few days of treatment.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG TRONG TÁC DỤNG THANG TRƯỜNG CỦA desmopressin TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI TIÊM THỤ, TRƯỜNG HỢP TÁC DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP TIÊM THỤ, GIA ĐÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP TÁC DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP TÁC DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP TÁC DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ THỂ THỰC HÀNH TRÊN 72 BỆNH NHÂN (72) được đưa vào nghiên cứu sử dụng biểu đồ tần suất-thể tích, sau đó được đánh giá bằng bộ câu hỏi. Mỗi bệnh nhân uống 1 viên desmopressin 0,2 mg lúc ngủ, trong 3 đêm liên tiếp và giữ một biểu đồ tần suất-thể tích. Natri huyết thanh được đánh giá vào buổi sáng sau khi uống liều 1 và liều 3. Các bệnh nhân có nồng độ natri huyết thanh trung bình trong quá trình điều trị lệch hơn 5 đơn vị so với ban đầu được đánh giá là nhạy cảm với sự thay đổi nồng độ natri huyết thanh. Các yếu tố dự báo về độ nhạy và đáp ứng với natri huyết thanh được khảo sát bằng phương pháp logistic và hồi quy đa biến. KẾT QUẢ: Tất cả 72 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu đều hoàn thành thử nghiệm, không có tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra và không có tác dụng phụ có cường độ nặng. Sáu bệnh nhân nhạy cảm với sự thay đổi nồng độ natri huyết thanh. Tỷ lệ chênh lệch (tỷ lệ chênh lệch: 95% ) tăng dần theo tuổi (1,3,1,1-1,6) và bệnh tim đồng thời (10,0,0-105,8) và tăng lượng nước tiểu trong 24 giờ (1,2,1,0-1,5).
OBJECTIVE To assess the effectiveness of a portable electronic diary as a data collection device for overactive bladder symptoms, and to evaluate its level of patient acceptability compared with a conventional paper-based voiding diary. PATIENTS AND METHODS Patients were identified through USA and UK hospital incontinence clinics. Patients were trained in the use of paper and electronic diaries before randomization, to complete either diary for 7 days. The diaries were then collected and, after a further training session, patients completed the other diary type for 7 days. RESULTS In all, 35 patients were recruited into the trial; overall, patients using the paper diaries (35) and electronic diaries (33) recorded similar data for the median number of incontinent episodes per week (8.2 and 7.0, respectively) and for the median number of significant leaks per day (0.4 and 0.5, respectively). However, the number of daily micturitions was slightly lower for the electronic than for the paper diary (7.3 vs 8.5, respectively). The frequency of urgency recorded in the electronic diary was higher than that recorded in the paper diary (5.8 vs 4.7). As 94% of patients found the electronic diary easy to use, and the electronic diary reflects real-time data entries, the electronic diary data may provide a more accurate reflection of patient symptoms. CONCLUSION We confirmed that the electronic diary is a novel method of collecting clinically relevant symptom data from patients with an overactive bladder. In addition, the ease-of-use ratings support the use of the electronic diary as a superior alternative to paper diaries, providing real-time data which can be rapidly analysed, and thus allowing a speedy review of data during ongoing clinical studies.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của nhật ký điện tử di động trong việc thu thập dữ liệu các triệu chứng bàng quang tăng hoạt và mức độ chấp nhận của bệnh nhân so với nhật ký đi tiểu trên giấy thông thường. BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP BỆNH NHÂN được xác định thông qua phòng khám bệnh tiểu không tự chủ tại bệnh viện Mỹ và Anh. Bệnh nhân được tập huấn về sử dụng nhật ký giấy và điện tử trước khi chọn ngẫu nhiên, để hoàn thành cả hai loại nhật ký trong 7 ngày.
OBJECTIVE To assess the long-term effects of a form of ileocolic urinary reservoir (Charleston Pouch 1) on vitamin B12 serum levels, as vitamin B12 deficiency may be an important long-term risk after urinary diversion by this method. PATIENTS AND METHODS The study included 60 patients (mean age 52 years, range 27-77; 33 men and 27 women) who had a follow-up of >or= 36 months (36-132 months) after the construction of an ileocaecal urinary reservoir. Vitamin B12 serum levels were determined at the time of diversion and again when the patients were evaluated every 6 months. RESULTS Fifty-eight patients had a normal serum vitamin B12 concentration before surgery (two patients were excluded from the study because they had low levels); the mean level was 464 pg/mL (normal range 247-1000). At 6 and 12 months, the mean vitamin B12 levels were 367.5 and 468.5 pg/mL; at 1.5, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 and 11 years, the mean levels were 305, 495.5, 436.5, 379.5, 423.5, 393, 529.5, 631, 333.5 and 340 pg/mL, respectively. CONCLUSION Ileocaecal urinary reservoirs have no adverse effects on serum vitamin B12 levels for up to 10 years after surgery. Patients with vitamin B12 deficiency must be identified and given adequate parenteral doses for life. Because body stores of vitamin B12 may not be depleted for many years, problems with B12 may be masked for a long time. We recommend that vitamin B12 levels be obtained annually, that a modest supplement twice yearly (by injection) may be beneficial and that serum vitamin B12 must be sampled before giving vitamin B12 injections, to avoid false results.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG DÀNH CHO HUYẾT THANH CỦA PHƯƠNG PHÁP TIÊU HỦY VIÊN BIỂN PONG (Chủ hồ Pouch 1) ĐỐI VỚI NGUY CƠ SỬ DỤNG VIEN B12 TRONG HUYẾT THANH TRÊN MÔI TRƯỜNG NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG VIEN B12 Nghiên cứu được tiến hành trên 60 bệnh nhân (tuổi trung bình 52, từ 27-77; 33 nam và 27 nữ) có thời gian theo dõi > = 36 tháng (36-132 tháng) sau khi xây dựng hồ chứa nước tiểu rửa tay. Nồng độ vitamin B12 huyết thanh được xác định tại thời điểm chuyển lưu và được đánh giá lại khi bệnh nhân được đánh giá 6 tháng một lần. Kết quả nghiên cứu cho thấy 58 bệnh nhân có nồng độ vitamin B12 huyết thanh bình thường trước phẫu thuật (2 bệnh nhân được loại trừ khỏi nghiên cứu vì nồng độ thấp); ở thời điểm 6 và 12 tháng, nồng độ vitamin B12 trung bình lần lượt là 464 pg/mL (phạm vi bình thường 247-1000 ). Ở thời điểm 6 và 12 tháng, nồng độ vitamin B12 huyết thanh là 367,5 và 468,5 pg/mL; ở thời điểm 1,5,2,3,4,5,6,7,8,10 và 11 năm, nồng độ vitamin B12 huyết thanh lần lượt là 305, 495,5, 436,5, 379,5, 423,5, 393, 529,5, 631, 333,5 và 340 pg/mL. Kết luận hồ chứa nước tiểu rửa tay không có tác dụng phụ đối với nồng độ vitamin B12 huyết thanh trong thời gian 10 năm sau phẫu thuật. Bệnh nhân thiếu vitamin B12 cần được phát hiện và tiêm đủ liều vắc xin phòng bệnh. Do nồng độ vitamin
OBJECTIVES To examine whether orthotopic neobladder replacement using either ileum or colon segments results in increased oxidative stress, by measuring urinary 8-hydroxy-2'-deoxyguanosine (8-OHdG), one of the most commonly used markers for evaluating oxidative DNA damage. PATIENTS, SUBJECTS AND METHODS Urinary levels of 8-OHdG and creatinine, urine analysis, nutritional status, and acid-base and electrolyte balances, were assessed in 22 patients with an ileal neobladder, 28 with a colon neobladder, 37 with an ileal conduit and 22 healthy volunteers. The results from both types of orthotopic neobladder, the ileal conduit and in the healthy controls were compared. RESULTS The mean (sd) ratios of urinary 8-OHdG to urinary creatinine in patients with an ileal neobladder, colon neobladder, ileal conduit and in controls were 20.4 (7.8), 15.2 (4.3), 15.9 (5.1) and 15.2 (5.4) ng/mg, respectively. The urinary 8-OHdG ratio in the first group was significantly higher than in the other three groups. Among patients with a neobladder, the urinary 8-OHdG ratio was closely associated with the degree of pyuria, but not age, gender, the interval from surgery, body weight, height, serum creatinine or the degree of metabolic acidosis. CONCLUSIONS These findings suggest that creating an ileal neobladder caused significantly greater oxidative stress than a colon neobladder, ileal conduit, or that in healthy controls. Therefore, it is recommended to conduct a careful long-term follow-up considering the possible development of malignant disease after urinary diversion, especially by an ileal neobladder.
MỤC TIÊU THỰC TRẠNG THAY THẾ LIÊN TỤC TRÊN ĐƯỜNG HÔ HẤP CÓ TĂNG CƯỜNG Ô XƠ TRÊN MẶT ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN MẶT ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN MẶT ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN MẶT ĐƯỜNG HÔ HẤ
OBJECTIVE To evaluate the ability of the five-item version of the International Index of Erectile Function (IIEF-5) to diagnose the vascular aetiology and severity of erectile dysfunction (ED), and to compare it with pharmacological testing and duplex Doppler ultrasonography, as such questionnaires are widely used by the pharmaceutical industry to categorize the severity of ED and to assess the efficacy of drug therapy. PATIENTS AND METHODS In all, 80 patients (mean age 45.2 years, sd 14.0; mean duration of ED 3.5 years) were reviewed by an examiner unaware of their IIEF scores during testing. Penile blood flow was assessed in each patient after an intracavernosal injection with prostaglandin-E1 (10 micro g), with self-stimulation in privacy. The peak systolic velocity, end diastolic velocity and resistive index were measured for the vascular diagnosis. Visual ratings of erectile responses were also used for analysis. RESULTS Of the 80 patients, 30 had a normal vascular response, 38 arterial insufficiency and 12 were diagnosed with venous leakage. There was no significant difference in the IIEF scores among patients with a normal vascular response, arterial insufficiency or venous leakage. Analysis of visual ratings of erections showed no difference in IIEF scores among the different groups of patients. CONCLUSION The IIEF was designed and developed specifically for assessing and evaluating sexual function in clinical trials. However, as shown here, the IIEF cannot and should not be used as a tool to diagnose or compare specific vascular causes of ED.
Đánh giá khả năng chẩn đoán căn nguyên và mức độ nặng của rối loạn cương dương bằng bảng câu hỏi IIEF-5, so sánh với siêu âm Doppler hai chiều và siêu âm dược lý, bởi vì bảng câu hỏi này được ngành dược sử dụng rộng rãi để phân loại mức độ nặng của rối loạn cương dương và đánh giá hiệu quả của điều trị bằng thuốc. 80 bệnh nhân (tuổi trung bình 45,2, sd 14,0; thời gian trung bình của rối loạn cương dương 3,5 năm) được đánh giá không nhận thức được điểm IIEF trong quá trình đánh giá. Lưu lượng máu dương vật được đánh giá ở mỗi bệnh nhân sau khi tiêm nội khí quản tuyến tiền liệt E1 (10 microg ), có tính chất tự kích thích trong điều trị. Vận tốc đỉnh tâm thu, vận tốc cuối tâm trương và các chỉ số điện trở được đo đạc để chẩn đoán mạch máu. Đánh giá đáp ứng cương dương bằng thị giác cũng được sử dụng để phân tích. Kết quả: Trong 80 bệnh nhân, 30 bệnh nhân có đáp ứng mạch bình thường, 38 bệnh nhân suy động mạch và 12 bệnh nhân được chẩn đoán rò tĩnh mạch. Không có sự khác biệt về điểm IIEF giữa các nhóm bệnh nhân. Kết luận: Bảng câu hỏi IIEF được thiết kế và phát triển đặc biệt để đánh giá và đánh giá chức năng tình dục trong thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, như đã trình bày ở đây, bảng câu hỏi IIEF không thể và không nên được sử dụng như một công cụ để chẩn đoán hoặc so sánh các nguyên nhân cụ thể của rối loạn cương dương.
OBJECTIVE To describe the clinical features of neonatal scrotal haematoma and distinguish them from those of neonatal testicular torsion. PATIENTS AND METHODS Five neonates presenting with an acute scrotum and initial diagnosis of neonatal testicular torsion were found to have neonatal scrotal haematoma. In one case the diagnosis was surgical and in four subsequent cases the diagnosis was by colour Doppler ultrasonography, and surgery was avoided. Four of the five children had risk factors associated with neonatal scrotal haematoma, including bleeding diathesis, birth trauma and high birth weight. CONCLUSIONS The importance of including haematoma in the differential diagnosis of the acute neonatal scrotum is emphasized, as is the value of contemporary Doppler ultrasonography in making this diagnosis.
MỤC TIÊU: Mô tả đặc điểm lâm sàng và phân biệt với xoắn tinh hoàn sơ sinh.
OBJECTIVE To determine whether chronic renal failure (CRF) reduces nitrergic relaxant responses in a rabbit model. MATERIALS AND METHODS Ten rabbits underwent surgery to induce uraemia (CRF rabbits) and a further 10 a sham operation (controls). Corpus cavernosal tissue was prepared and used in organ-chamber experiments, with relaxation assessed against a background of pre-contraction with phenylephrine. At the plateau of contraction, relaxation responses to cumulative concentrations of carbachol or sodium nitroprusside (SNP), to test endothelium-dependent and -independent relaxations, respectively, were assessed. Before electrical-field stimulation (EFS), the tissue was treated with an adrenergic nerve blocker and a muscarinic receptor blocker to eliminate the adrenergic and cholinergic components, and to determine the relaxation responses to the stimulation of nonadrenergic, noncholinergic (NANC) nerves. The relaxation responses in corporal strips obtained from CRF rabbits were compared with those from controls. RESULTS When tissues were contracted with KCl, tensions were similar in all groups. The impairment in concentration-dependent relaxation with carbachol was significant in CRF rabbits, but SNP- and papaverine-induced concentration-dependent relaxation responses were no different among the groups. EFS-induced frequency-dependent relaxations were significantly lower in CRF rabbits than in controls. CONCLUSION CRF inhibits the NANC-mediated relaxation of rabbit corpus cavernosum smooth muscle. Changes in NANC-mediated and carbachol-induced (endothelium-dependent) relaxation of corporal smooth muscle in the rabbit are probably caused by uraemia and subsequently, hyperthyroidism, hyperparathyroidism or low testosterone levels in CRF. These results also suggest that if vasoactive agents are to be used for treating erectile dysfunction in uraemic patients, direct-acting vasodilators and phosphodiesterase inhibitors will be useful.
Mục tiêu: Xác định sự giảm đáp ứng giãn cơ bằng thuốc ức chế nitrergic (CRF) trên thỏ thực nghiệm. 10 thỏ được phẫu thuật gây thiếu máu và 10 thỏ phẫu thuật giả (đối chứng ). Mô cơ thể hang được chuẩn bị và sử dụng trong các thử nghiệm nội bào, với sự thư giãn được đánh giá dựa trên nền của sự co thắt trước đó với phenylephrine. Ở cao nguyên co thắt, đáp ứng thư giãn với nồng độ carbachol hoặc natri nitroprusside (SNP) tích lũy được đánh giá để kiểm tra sự thư giãn phụ thuộc nội mô và
OBJECTIVE To evaluate the peripheral anatomical distribution of innervation within muscle bundles of the detrusor and the changes arising in neurogenic detrusor overactivity (DO). PATIENTS AND METHODS Full-thickness samples from the bladder dome of three cadaveric transplant organ donors and four people with neurogenic DO caused by spinal cord injury were compared. Systematic serial cryostat sections were stained using Masson trichrome and elastin techniques, and vimentin immunohistochemistry. A coherent image stack was generated for three-dimensional image reconstructions, which were displayed using mixed rendering (i.e. differing graphics for separate tissue components) to show peri- and intra-bundle innervation against the muscle fascicle framework. RESULTS Control specimens had a dense nerve supply. Muscle bundle innervation was derived by dichotomous branching from peri-bundle nerve trunks in the inter-bundle connective tissue. Transverse interfascicular branches entered bundles perpendicular to the long axis at the midpoint of the bundle. They gave rise to axial interfascicular branches, which distributed to the pre-terminal and terminal nerve fibres. All samples from patients with neurogenic DO had patchy denervation. The primary deficit was predominantly at the level of the terminal axial innervation and was cross-sectionally consistent along the longitudinal axis of the muscle bundle. CONCLUSION Patchy denervation may reflect a deficit at the level of the peripheral ganglia. Any contraction in the areas of denervation either occurs out of co-ordination with the rest of the bladder, or is co-ordinated by means of non-neural structures. The observation of fine muscle strands running between fascicles, and connective tissue anchoring structures, represent two hypothetical mechanisms by which such co-ordination might be effected.
MỤC TIÊU: Đánh giá sự phân bố các dây thần kinh ngoại vi trong các bó cơ của cơ trơn và sự thay đổi của các dây thần kinh này. Các mẫu đầy đủ độ dày từ vòm bàng quang của 3 người cho tạng và 4 người cho tạng có DO do tổn thương tuỷ sống được so sánh. Các đoạn lạnh nối tiếp có hệ thống được nhuộm màu bằng kỹ thuật Masson trichrome và elastin, và hóa mô miễn dịch vimentin. Một chồng hình ảnh nhất quán được tạo ra để tái tạo hình ảnh ba chiều, được hiển thị bằng hình ảnh hỗn hợp (các hình ảnh khác nhau cho các thành phần mô riêng biệt) để thể hiện sự phân bố dây thần kinh trong và ngoài so với khung mô fascicle cơ. Các mẫu đối chứng có sự phân bố các dây thần kinh dày đặc. Sự phân bố dây thần kinh của bó cơ được bắt nguồn từ sự phân nhánh kép của các thân dây thần kinh trong mô liên kết giữa các bó. Các nhánh liên kết ngang đi vào bó vuông góc với trục dài ở điểm giữa của bó. Chúng sinh ra các nhánh liên kết trục phân bố đến các sợi thần kinh trước và cuối. Tất cả các mẫu từ bệnh nhân có phân bố dây thần kinh ngoại vi đều có sự phân bố dây thần kinh chắp vá. Sự thiếu hụt ban đầu chủ yếu ở mức độ phân bố dây thần kinh trục cuối và thống nhất theo trục dọc của bó cơ. Kết luận phân bố dây thần kinh chắp vá có thể phản ánh sự thiếu hụt ở mức độ hạch ngoại vi. Bất kỳ sự co thắt nào ở các vùng phân bố dây thần kinh đều xuất phát từ sự phối hợp với phần còn lại của bàng quang hoặc được phối hợp bởi các cấu trúc không liên quan đến thần kinh. Việc quan sát các sợi cơ mịn chạy giữa các bó và cấu trúc neo mô liên kết thể hiện hai cơ chế giả thuyết mà theo đó sự phối hợp đó có thể được thực hiện.
OBJECTIVE To investigate different stimulation signals for the peripheral nerve evaluation test (PNE, carried out before implanting a sacral neuromodulator for functional voiding dysfunction) in an animal model and to determine their efficacy, as up to 80% of patients do not respond to the PNE test. MATERIALS AND METHODS PNE foramen electrodes were placed in the S3 of 12 anaesthetized Göttingen minipigs. First, detrusor instabilities were induced by the intravesical instillation of formalin. A 10-min stimulation phase with both a quasi-trapezoidal (QT) signal and a rectangular signal followed. An interval of 30 min elapsed between the series of stimulations. The attained bladder pressure values were registered on a urodynamic unit and evaluated as contractions and amplitudes per minute. Six minipigs were treated in the same way but were not stimulated and served as a control group. RESULTS After formalin instillation, the mean (sd) number of involuntary detrusor contractions was 3.5 (0.8)/min and the sum of amplitudes 7.2 (1.1) cmH2O/min. Subsequent NaCl instillation and QT-stimulation reduced the contractions to 0.3 (0.3)/min and the sum of amplitudes to 0.8 (0.4) cmH2O/min. Stimulation with a rectangular signal, as used in the PNE test, followed after an interval of 10 min, giving 1.1 (0.1) contractions/min and a sum of amplitudes of 5.1 (2.4) cmH2O/min. Within the control group there was no significant reduction. CONCLUSIONS These results show that QT-stimulation suppresses uncontrollable detrusor contractions in the minipig more effectively than the conventional rectangular stimulation presently applied in sacral neuromodulation.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CÁC DẤU HIỆU KINH TRÙNG TRÊN ĐỘNG VẬT TRÊN ĐỘNG VẬT TRÊN MÔ TẢ THỎ Nghiên cứu nhằm khảo sát các tín hiệu kích thích khác nhau cho xét nghiệm đánh giá chức năng thần kinh ngoại biên (PNE ), được thực hiện trước khi cấy điện cực điều biến thần kinh cùng cụt để đánh giá hiệu quả của chúng, vì có
OBJECTIVE To assess whether adipocytes (mesenchymal stromal cells thought to affect the proliferation and differentiation of epithelial cells) affect the behaviour of prostate cancer cells in vitro, as prostate cancer metastasizes to the bone, which is an adipocyte-rich environment. MATERIALS AND METHODS The human bone-metastatic prostate carcinoma cell line PC3 was cultured with or without adipocytes in a three-dimensional collagen gel matrix. Histological and immunohistochemical assays were used to evaluate the proliferation and differentiation of PC3 cells. The cytokine expression of this culture assembly was also examined by reverse transcription-polymerase chain reaction (RT-PCR). RESULTS The proliferation and differentiation of cancer cells were clearly changed on co-culture with adipocytes compared with the control cultures. The mean (range) bromodeoxyuridine (BrdU) indices estimated (according to uptake) to evaluate the growth of the cultured cells were 36.3 (8.55)% in the co-culture and 26.95 (10.50) in the control (P < 0.02). PC3 cells in co-culture formed larger clusters than in the control, at 16.0 (11.0) vs 14.0 (10.0), respectively (P < 0.01). Cancer cells also showed pleomorphism, varying from cuboidal to spindle-shaped. The expressions of vascular endothelial and platelet-derived growth factor were greater in co-culture than in the control. CONCLUSION These findings suggest that adipocytes modulate the growth, morphology and cytokine expression of prostate cancer cells. This specific mesenchymal stromal cell type is important in the biological behaviour of prostate cancer cells.
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá sự ảnh hưởng của tế bào mô đệm trung mô (tế bào mô đệm trung mô) đến hoạt động của tế bào ung thư tuyến tiền liệt (UTTT) trong môi trường nuôi cấy (In vitro) bởi ung thư tuyến tiền liệt di căn vào xương, nơi chứa nhiều tế bào mô đệm. Dòng tế bào ung thư tuyến tiền liệt di căn xương PC3 ở người được nuôi cấy có hoặc không có tế bào mô đệm trong một ma trận gel collagen 3 chiều. Các xét nghiệm mô học và hóa mô miễn dịch được sử dụng để đánh giá sự tăng sinh và biệt hóa của tế bào PC3. Biểu hiện cytokine của dòng nuôi cấy này cũng được kiểm tra bằng phản ứng sao chép ngược chuỗi polymerase (RT-PCR) để đánh giá sự tăng trưởng của tế bào nuôi cấy (PC3 ). Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng sinh và biệt hóa của tế bào ung thư đã được thay đổi rõ rệt khi nuôi cấy đồng thời với tế bào mô đệm so với nuôi cấy đối chứng (P < 0,02 ). Các tế bào PC3 nuôi cấy đồng thời hình thành các cụm lớn hơn so với đối chứng, ở mức 16,0 (11,0) so với 14,0 (10,0) ( P < 0,01 ). Các tế bào ung thư cũng có hình thái pleomorphism, thay đổi từ hình khối đến hình thoi. Biểu hiện của yếu tố tăng trưởng nội mô và tăng trưởng từ tiểu cầu trong mạch máu ở nuôi cấy đồng thời lớn hơn so với nuôi cấy đối chứng. Kết luận này cho thấy tế bào mô đệm trung mô có vai trò quan trọng trong hoạt động sinh học của tế bào ung thư tuyến tiền liệt.
BACKGROUND Many deaths in intensive care occur after life support has been withdrawn or withheld. In Sweden there are no guidelines for the withholding or withdrawal of life-sustaining treatments, and information on the frequency of such decisions is scarce. Open and conscious accounts of crucial standpoints in theses decisions are important. The aim of this study was to determine the incidence of decisions to withdraw medical therapy in a Swedish, general intensive care unit (ICU), the underlying reasons and outcomes. METHODS In this historical cohort study in a 10 bed ICU, we studied the records of the 3904 patients admitted during the period 1994-2000. RESULTS Medical therapy was withdrawn in 318 (8.1%) patients. During the study period, 466 patients died in the ICU, of which 191 (41.0%) had had a withdrawal decision. Of the 318 patients with a withdrawal decision followed up, 191 (60.1%) died in the ICU, 104 (32.7%) later on a general ward, and 23 (7.2%) were discharged alive from the hospital. The main reasons for withdrawing therapy were failure to respond to treatment in 119 (37%), poor prognosis of the acute disease in 119 (37%), poor prognosis of coexisting chronic disease in 62 (20%) and the patient's own request in 18 (6%) of the cases. The median time from ICU-admission to a withdrawal decision was 2.8 days. The median time from a withdrawal decision to death was 0.6 days (191 patients) in the ICU, 2.4 days (104 patients) in the general ward and 1.4 months (19 patients) for those dying after hospital discharge. In five cases a renewed evaluation was performed. CONCLUSION Medical therapy was withdrawn in the ICU in 8.1% of patients and the chief reasons were failure to respond to therapy or poor prognosis of the acute disease. Four patients were still alive five years later. The time interval from admission to a withdrawal decision was short.
Hồi sức tích cực (TED) là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong ở bệnh nhân hồi sức sau khi đã rút hoặc ngừng các phương pháp điều trị duy trì sự sống. Tại Thụy Điển, việc rút hoặc ngừng các phương pháp điều trị duy trì sự sống là rất hiếm, thông tin về tần suất của các quyết định này rất ít ỏi. Việc công khai và có ý thức về các quan điểm quyết định quan trọng trong các quyết định này là rất quan trọng. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỷ lệ rút hoặc ngừng điều trị tại khoa Hồi sức tích cực ở Thụy Điển, nguyên nhân và kết quả điều trị. PHƯƠNG PHÁP Trong nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu 3904 bệnh nhân nhập khoa Hồi sức tích cực trong thời gian 1994-2000, chúng tôi đã nghiên cứu hồ sơ của 3904 bệnh nhân nhập khoa Hồi sức tích cực trong thời gian 1994-2000. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ đã được rút ra ở 318 bệnh nhân (8,1% ). Trong suốt thời gian nghiên cứu, có 466 bệnh nhân đã có quyết định rút khỏi khoa Hồi sức tích cực, trong đó có 191 bệnh nhân (41,0% ) đã có quyết định rút khỏi. Trong số 318 bệnh nhân có quyết định rút khỏi, có 191 bệnh nhân (60,1% ) đã chết trong khoa Hồi sức tích cực, 104 bệnh nhân (32,7% ) chết sau đó ở khoa Hồi sức tổng quát, và 23 bệnh nhân (7,2% ) đã được xuất viện sống. Lý do rút khỏi điều trị chủ yếu là do không đáp ứng với điều trị ở 119 bệnh nhân (37% ), tiên lượng xấu ở bệnh cấp tính ở 119 bệnh nhân (37% ), tiên lượng xấu ở bệnh mãn tính cùng tồn tại ở 62 bệnh nhân (20% ) và theo yêu cầu của bệnh nhân ở 18 bệnh nhân (6% ). Thời gian trung bình từ khi vào khoa Hồi sức tích cực đến khi quyết định rút khỏi là 2,8 ngày. Thời gian trung bình từ khi quyết định rút khỏi đến khi tử vong là 0,6 ngày (191 bệnh nhân) ở khoa Hồi sức tích cực, 2,4 ngày (104
BACKGROUND Intensive care medicine uses a disproportionate share of medical resources, and little is known about the distribution of resources between different patient groups. METHODS In this prospective observational study, all patients admitted between 1 January 1998 and 31 December 1999 to our medical-surgical university's ICU were assigned to one of two groups according to length of stay (LOS): patients staying more than 7 days in the unit (group L) and those staying a maximum of 7 days (group S). Resource use was estimated using TISS-28, number of nursing shifts, use of mechanical ventilation, and use of renal replacement therapy. Further, SAPS II and ICU and hospital mortalities were recorded. RESULTS Of 5481 patients, 583 (10.6%) were in group L and 4898 in group S (89.4%). Patients in group L were more severely sick upon admission than those in group S. Patients in group L stayed a total of 9726 days in the ICU (52.5% of the total LOS). In group L, 69.2% of all shifts with respiratory support and 80.1% of all shifts with renal replacement were used. Further, group L patients consumed 53.4% (909225) of all TISS points provided. The ICU-mortality rates were 14.4% in group L and 7.2% in group S, and the hospital mortality rates were 19.9% and 9.8%, respectively. A mean of 1898 TISS points was used per patient surviving the hospital stay in group L compared with 190 points in group S. CONCLUSIONS In this university-based, medical-surgical adult ICU, 11% of all patients stayed more than 7 days in the unit and consumed more than 50% of all resources. Thus, a highly disproportionate amount of resources were used per survivor in group L compared with those in group S.
Hồi sức tích cực (HSTC) sử dụng một phần không cân đối các nguồn lực y tế, và ít biết về sự phân bổ nguồn lực giữa các nhóm bệnh nhân khác nhau. PHƯƠNG PHÁP Trong nghiên cứu này, tất cả bệnh nhân nhập khoa HSTC từ 1/1/1998 đến 31/12/1999 được chia thành hai nhóm theo thời gian lưu trú: nhóm L lưu hơn 7 ngày và nhóm S lưu tối đa 7 ngày. Sử dụng nguồn lực theo TISS-28, số ca điều dưỡng, thở máy và lọc máu. SAPS II, ICU và tử vong được ghi nhận. KẾT QUẢ THỰC HÀNH: 5481 bệnh nhân, 583 (10,6% ) ở nhóm L và 4898 (89,4% ) ở nhóm S. Bệnh nhân ở nhóm L có tình trạng nặng hơn khi nhập khoa S. Bệnh nhân ở nhóm L lưu 9726 ngày (52,5% tổng số ngày lưu trú ). Ở nhóm L, 69,2% số ca hỗ trợ hô hấp và 80,1% số ca lọc máu. Hơn nữa, bệnh nhân ở nhóm L tiêu thụ 53,4% ( 909225) điểm TISS. Tỷ lệ tử vong sau khi vào khoa HSTC là 14,4% ở nhóm L và 7,2% ở nhóm S, và tỷ lệ tử vong sau khi vào viện lần lượt là 19,9% và 9,8 %. Trung bình 1898 điểm TISS được sử dụng trên một bệnh nhân sống sót sau khi vào khoa L so với 190 điểm ở nhóm S. Kết luận: Trong khoa HSTC người lớn phẫu thuật tại trường đại học này, 11% bệnh nhân ở lại khoa > 7 ngày và tiêu thụ hơn 50% nguồn lực. Như vậy, một lượng nguồn lực được sử dụng trên một bệnh nhân sống sót ở nhóm L không cân đối so với nhóm S.
BACKGROUND General anaesthesia may stimulate the renin-angiotensin system. Exogenous administration of angiotensin II elevates blood pressure mainly via increased total peripheral resistance caused by direct vasoconstrictor actions. It is also well established that the hypertensive effect of angiotensin II involves a cerebrally mediated component. The hypertensive effect of an intravascular infusion of angiotensin II is substantially reduced by isoflurane anaesthesia. A likely mechanism is that isoflurane anaesthesia reduces the cerebral component of the angiotensin II effect on blood pressure, which involves influences on autonomic nervous activity. In an experimental study in sheep we used real-time spectral analysis of arterial blood pressure signals to obtain information on parasympathetic, respectively, sympathetic autonomic nervous activity in response to angiotensin II administration during isoflurane anaesthesia. METHODS The study was performed on conscious and isoflurane-anaesthetized sheep that were subjected to an intracarotid infusion of angiotensin II (85 ng kg(-1) min(-1)) during 20 min followed by a recovery period of 30 min and thereafter an injection of the angiotensin II, AT1-receptor antagonist losartan (10 mg kg(-1)) i.v. Systemic and regional (renal and femoral) circulation was monitored in parallel to real-time spectral analysis of the arterial blood pressure signal. RESULTS Isoflurane anaesthesia reduced both magnitude and duration of the hypertensive response to angiotensin II infusion. The power spectral density in the frequency band that represents sympathetic activation, correlated to the changes in mean arterial pressure in conscious animals, but not during isoflurane anaesthesia. CONCLUSION We conclude that the cerebrally mediated component of the hypertensive effect of circulating angiotensin II is largely eliminated by isoflurane anaesthesia. Spectral power analysis of the blood pressure signal indicates that the cerebral angiotensin II effect involves activation of sympathetic nervous activity.
GIẢM THẦN CÓ TÁC DỤNG GIẢM THẦN TRÊN THỎ Nghiên cứu được tiến hành trên cừu có ý thức và gây mê bằng cách truyền tĩnh mạch angiotensin II (85 ng kg (- 1) min (- 1) ) trong 20 phút, sau đó hồi phục 30 phút và sau đó tiêm thuốc đối kháng thụ thể AT1 losartan (10 mg kg (- 1) ) i.v. Theo dõi sự biến đổi của các tín hiệu huyết áp khi tiêm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp. Kết quả cho thấy, tác dụng của thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng với tín hiệu huyết áp của nhóm thuốc đối kháng
BACKGROUND Assessment of preload independent left ventricular function with conductance volumetry is traditionally accomplished by inflating a balloon in the inferior caval vein. Our aim was to investigate if a similar change in preload could be achieved by positive pressure ventilation with large tidal volume. METHODS Conductance volumetry generating left ventricular pressure-volume loops was used in seven pentobarbital-anesthetized pigs. Changes in preload recruitable stroke work were studied, comparing the effects of inferior vena cava occlusion (IVCO) or large tidal volume (LTV). Cardiodepression was induced by halothane anesthesia and halothane + phenylephrine, and stimulation by epinephrine infusion. RESULTS Although the decreasis in left ventricular end diastolic volume was slightly less with LTV (16.5 +/- 1.7 ml, mean +/- SEM) than with IVCO (22.4 +/- 1.7 ml) (P < 0.0001) the PRSW-slopes showed a high degree of correlation (r=0.80, P < 0.0001). Although peak tracheal pressures increased significantly to 27.8 +/- 0.9 mmHg during LTV, esophageal pressures (used as an indicator of pericardial pressure) were unchanged. CONCLUSIONS Positive pressure ventilation with LTV is similar to IVCO in creating transient changes in preload, necessary for assessment of left ventricular systolic function. This observation was valid also during drug-induced cardiac depression and stimulation. The preload recruitable stroke work used for this validation was shown to be a reliable and stable method.
Đánh giá chức năng thất trái trước nạp bằng đo thể tích dẫn truyền (DVTT) thường được thực hiện bằng cách bơm phồng một quả bóng vào tĩnh mạch kỵ binh dưới. Mục đích của chúng tôi là khảo sát sự thay đổi tương tự về thể tích trước nạp bằng thông khí áp lực dương với thể tích thủy triều lớn. Phương pháp đo thể tích dẫn truyền tạo vòng áp lực-thể tích thất trái được sử dụng trên bảy con lợn gây mê bằng pentobarbital. Những thay đổi về thể tích trước nạp được khảo sát, so sánh ảnh hưởng của tắc tĩnh mạch chủ dưới (IVCO) hoặc thể tích thủy triều lớn (LTV ). Gây tê tim bằng halothane vàhalothane + phenylephrine, kích thích bằng truyền epinephrine. Kết quả: Mặc dù áp lực đỉnh khí quản tăng lên đáng kể đến 27,8 +/- 0,9 mmHg trong quá trình kích thích bằng LTV, áp lực thực quản (dùng làm chỉ thị áp lực màng ngoài tim) không thay đổi. Kết luận: Thông khí áp lực dương với LTV tương tự như IVCO trong việc tạo ra những thay đổi tạm thời về thể tích trước nạp, cần thiết cho đánh giá chức năng tâm thu thất trái. Điều này có giá trị trong quá trình gây ức chế và kích thích tim bằng thuốc. Kết quả cho thấy thông khí áp lực dương với LTV tương tự như IVCO trong việc tạo ra những thay đổi tạm thời về thể tích trước nạp, cần thiết cho đánh giá chức năng tâm thu thất trái.
PURPOSE To evaluate inadvertent warming of the infusion syringe in four different types of electronic syringe pumps. METHODS Ambient temperature and syringe surface temperature were simultaneously measured by two electronic temperature probes in four different models of commercially available syringe pumps. Experiments were performed at an infusion rate of 1 ml h(-1) using both battery-operated and main power-operated pumps. Measurements were repeated four times with two pumps from each of the four syringe pump types at a room temperature of approximately 23 degrees C. Differences among the four syringe pump brands regarding ambient to syringe temperature gradient were compared using ANOVA. A P-value of less than 0.05 was considered statistically significant. RESULTS Syringe warming differed significantly between the four syringe brands for both the battery-operated and main power-operated mode (ANOVA, P< 0.001 for both modes). Individual differences between syringe surface and ambient temperature ranged from 0.3 to 1.9 degrees C for battery operation and from 0.5 to 11.2 degrees C during main-power operation. CONCLUSION Infusion solutions can be significantly warmed by syringe pumps. This has potential impact on bacterial growth and the stability of drug solutions and blood products infused, as well as on the susceptibility to hydrostatic pressure changes within the infusion syringe.
ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI CỦA CÁC MÁY BÁO CÁO TRONG TRONG 4 LOẠI BÁO CHUYỂN THUỐC TRÊN 4 MÁY BÁO CHUYỂN THUỐC TRÊN 4 MÁY BÁO CHUYỂN THUỐC TRÊN 4 MÁY BÁO CHUYỂN THUỐ
BACKGROUND We studied whether hemodynamic and oxygenation profiles are altered in critically ill patients after exposure to hyperbaric oxygen (HBO). METHODS Ten intensive-care patients (two females, eight males) undergoing HBO treatment after major abdominal surgery, after burn injury and after CO poisoning were included. All subjects were put on mechanical ventilation and received continuous sedation, and had HBO treatment at 2.2 absolute atmospheres for 50 min. DESIGN Observational prospective study, and repeated measure design. RESULTS Hemodynamic and oxygen transport patterns were determined before (C0), 1 h (C1) and 2 h (C2) after HBO therapy with continuous cardiac output dual oximetry pulmonary arterial catheter, a central venous and radial arterial line. Data were analyzed with non-parametric repeated measure analysis. Key results are expressed as a percentage of baseline (C0 values correspond to 100%) at C1 and C2 (median values, lower and upper limit of confidence interval): cardiac index [C1: 105% (98-135), C2: 99% (91-117), P = 0.19], systemic (P = 0.62) and pulmonary vascular (P = 0.76) resistance indices were unchanged, but pulmonary venous admixture (Qs/Qt) increased [C1: 173% (112-298), C2: 140% (92-241), P = 0.00002)] and arterial oxygen tension decreased [C1: 76% (67-94), C2: 82% (72-112), P = 0.010]. CONCLUSION The hemodynamic profile remained unaffected. The increase in Qs/Qt and the decrease in PaO2 may be attributed to the inhalation of HBO, and both are reversible.
Nghiên cứu được tiến hành trên 10 bệnh nhân hồi sức tích cực (2 nữ, 8 nam) được thở máy, an thần liên tục và được điều trị thở máy ở 2,2 atm trong 50 phút. Thiết kế nghiên cứu tiến cứu, đo lặp lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình vận chuyển oxy và huyết động được xác định trước (C0) và sau (C1) 1 h (C1) 2 h (C2) với catheter oxy kép cung lượng tim liên tục, đường tĩnh mạch trung tâm và đường xuyên tâm. Các chỉ số sức cản tĩnh mạch
BACKGROUND Recruitment of monocytes to inflamed tissue is a crucial step in the acute inflammatory reaction. Adherence of monocytes to endothelial cells followed by transmigration depends on monocyte surface adhesion molecules, inflammatory cytokines and chemoattractant chemokines. In the present study, we determined the effect of isoflurane on monocyte adhesion receptor expression in vitro. METHODS Citrated whole blood was incubated for 60 min with either 0.5 or 1 MAC isoflurane. In unstimulated blood samples and after stimulation with N-formyl-methionyl-leucyl-phenylalanine (FMLP) monocyte cell-surface expression of the selectins PSGL-1 and L-selectin, and the beta2-integrins CD11a and CD11b were evaluated by flow cytometry. RESULTS Isoflurane reduced significantly the expression of PSGL-1 on unstimulated monocytes, whereas the remaining selectins and beta2-integrins were not affected. At both concentrations, the FMLP-induced removal of PSGL-1 from the monocyte surface was increased. Furthermore, at 1 MAC isoflurane the FMLP-induced increase in CD11a expression was significantly inhibited. The surface expression of L-selectin and CD11b was not affected following exposure to isoflurane. CONCLUSION Isoflurane increases the removal of the selectin PSGL-1 from the monocyte surface. Since PSGL-1 is important during the initial step of monocyte adhesion to endothelial P-selectin, the decrease in monocyte surface PSGL-1 may have profound effects on monocyte-endothelial interactions. Furthermore, the effects of isoflurane on monocyte adhesion molecule expression are different from those reported for neutrophils.
Tuyển chọn tế bào đơn nhân vào mô viêm là bước quan trọng trong phản ứng viêm cấp. Sự bám dính của tế bào đơn nhân vào tế bào nội mô, sau đó di cư phụ thuộc vào các phân tử bám dính bề mặt tế bào đơn nhân, các cytokine gây viêm và các chemokine hóa trị. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định được tác động của isoflurane lên sự biểu hiện thụ thể bám dính của tế bào đơn nhân in vitro. METHODS Citrin máu toàn phần được ủ trong 60 phút với isoflurane 0,5 hoặc 1 MAC. Ở các mẫu máu không kích thích và sau khi kích thích bằng N-formyl-methionyl-leucyl-phenylalanin (FMLP) và beta2-integrin CD11a và CD11b, sự biểu hiện của PSGL-1 trên bề mặt tế bào đơn nhân tăng lên đáng kể. Ở cả hai nồng độ, sự tăng biểu hiện của PSGL-1 gây bởi FMLP đều bị ức chế. Sự biểu hiện bề mặt của L-selectin và CD11b không bị ảnh hưởng sau khi tiếp xúc với isoflurane. Isoflurane CONCLUSION làm tăng sự biểu hiện của PSGL-1 từ tế bào đơn nhân. Vì PSGL-1 rất quan trọng trong bước đầu của quá trình bám dính tế bào đơn nhân với P-selectin nội mô, sự giảm biểu hiện của PSGL-1 trên bề mặt tế bào đơn nhân có thể có tác động sâu sắc lên tương tác giữa bạch cầu trung tính và tế bào đơn nhân. Hơn nữa, tác động của isoflurane lên sự biểu hiện của phân tử bám dính tế bào đơn nhân khác với tác động của isoflurane lên sự biểu hiện của bạch cầu trung tính.
BACKGROUND Little is known about the influence of racemic ketamine on autoregulation of cerebral blood flow (CBF), and available reports regarding its influence on cerebral hemodynamics are contradictory. This study was designed to evaluate cerebrovascular responses to changes in the mean arterial pressure (MAP) during ketamine anesthesia. METHODS In eight normoventilated pigs anesthesia was induced with propofol and maintained by i.v. infusion of ketamine (15.0 mg kg(-1) x h(-1)) during measurements. The intra-arterial xenon clearance technique was used to calculate CBF. Balloon-tipped catheters were introduced in the inferior caval vein and mid-aorta, and increases or decreases by up to 40% in mean arterial pressure (MAP) in random order were achieved by titrated inflation of these balloon catheters. Cerebral blood flow was determined at each MAP level. Regression coefficients of linear pressure-flow curves were calculated in all animals. RESULTS From the mean baseline level (101 mmHg) MAP was reduced by 20% and 40%, and increased by 26% and 43%. The maximal mean increase and decrease in MAP induced a 12% increase and a 15% decrease, respectively, of CBF from the mean baseline level (52.6 ml.100 g(-1) x min1). The 95% confidence interval (-0.02; 0.38) of the mean regression coefficient of individual pressure-flow curves does not include the regression coefficient (0.64) of a linear correlation between MAP and CBF including origo (correlation coefficient 0.99), which indicates complete lack of cerebrovascular autoregulation. CONCLUSIONS We conclude that autoregulation of CBF is not abolished during continuous ketamine infusion in normoventilated pigs and that previous divergent conclusions are unlikely to be associated with severe impairment of cerebrovascular autoregulation.
Có rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng của racemic ketamine lên sự tự điều chỉnh lưu lượng máu não (LMC) và các báo cáo hiện có về ảnh hưởng của nó lên huyết động não là trái ngược nhau. Nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá phản ứng của mạch máu não trước những thay đổi áp lực động mạch trung bình (HATĐ) trong quá trình gây tê bằng ketamine. Các phương pháp được sử dụng trong gây tê mạch máu não là: gây tê tĩnh mạch bình thường bằng propofol và duy trì bằng truyền tĩnh mạch ketamine liều 15,0 mg kg (-1) x h (-1) ).
BACKGROUND Muscle relaxants are believed to be responsible for 2/3 of the cases of anaphylactic reactions during anesthesia. This assumption is based mainly on positive skin tests obtained in individuals that have experienced anesthesia-related anaphylaxis. A positive skin test is supposed to be associated with mast cell degranulation of vasoactive amines. In the present study we tested the frequency of positive skin tests with two commonly used muscle relaxants, rocuronium and cisatracurium, in a selected group of volunteers with low potential for allergic reactions. METHODS Thirty healthy volunteers without known allergy or previous exposure to muscle relaxants were studied. Low potential for allergic reactions was determined prior to inclusion in the study, using various allergy tests. Each individual was tested with intradermal and skin prick tests, and molar drug concentration thresholds for positive skin reactions were determined using a dilution titration technique. The presence or absence of mast cell degranulation was tested by electron microscopic investigation of skin biopsies obtained from positive and negative skin reactions. RESULTS None of the volunteers had a positive skin prick test. More than 90% of the volunteers had a positive intradermal test with both rocuronium and cisatracurium. The highest molar drug concentration that was not associated with a positive intradermal test was 10(-6) M (rocuronium) and 10(-7) M (cisatracurium), equivalent to vial dilution 1 : 1000 for both drugs. In none of the volunteers was mast cell degranulation detected. CONCLUSION Non-mast-cell-mediated positive intradermal skin reactions are frequently occurring with rocuronium and cisatracurium, even at vial dilution 1 : 1000. A clinically applicable test technique is needed that is able to separate positive skin tests associated with mast cell degranulation from non-mast-cell-mediated reactions.
Thuốc giãn cơ là nguyên nhân gây phản ứng phản vệ ở 2/3 số trường hợp gây mê. Giả thiết này chủ yếu dựa trên các xét nghiệm da dương tính ở những người đã từng phản vệ liên quan đến gây mê. Xét nghiệm da dương tính được cho là có liên quan đến sự thoái hóa tế bào mast của các amin mạch. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thử nghiệm tần suất xét nghiệm da dương tính với hai loại thuốc giãn cơ thường được sử dụng là rocuronium và cisatracurium trong một nhóm tình nguyện viên có nguy cơ dị ứng thấp. PHƯƠNG PHÁP THỰC TRẠNG: 30 người khỏe mạnh, không có dị ứng hoặc đã từng tiếp xúc với thuốc giãn cơ được xác định trước khi đưa vào nghiên cứu, sử dụng các xét nghiệm dị ứng khác nhau. Mỗi người được thử nghiệm với xét nghiệm lẩy da và lẩy da, và ngưỡng nồng độ thuốc đối với phản ứng da dương tính được xác định bằng kỹ thuật chuẩn độ pha loãng. Sự có hay vắng mặt của thoái hóa tế bào mast được kiểm tra bằng cách khảo sát bằng kính hiển vi điện tử của sinh thiết da từ các phản ứng da dương tính và âm tính. KẾT QUẢ: Không có tình nguyện viên nào bị thoái hóa tế bào mast. Hơn 90% số người tình nguyện bị thoái hóa tế bào mast bằng cả hai loại thuốc rocuronium và cisatracurium. Nồng độ thuốc mol cao nhất không liên quan đến thoái hóa tế bào mast là 10 (- 6) M (rocuronium) và 10 (- 7) M (cisatracurium) tương đương với pha loãng 1: 1000 của cả hai loại thuốc. Không có tình nguyện viên nào bị thoái hóa tế bào mast. Kết luận: Phản ứng da dương tính không qua trung gian tế bào gốc thường xảy ra với cả hai loại thuốc rocuronium và cisatracurium, ngay cả khi pha loãng 1: 1000. Cần có kỹ thuật xét nghiệm lâm sàng có thể áp dụng để phân biệt các phản ứng da dương tính liên quan đến thoái hóa tế bào mast và không qua trung gian tế bào gốc.
BACKGROUND Rocuronium (ORG 9426) has been shown to have an onset of action more rapid than other nondepolarizing neuromuscular blocking agents and to provide intubating conditions similar to those of succinylcholine 60-90 s after administration. We compared the intubating conditions and hemodynamic changes after the administration of rocuronium 0.6 mg kg(-1) and lidocaine 1.5 mg kg(-1) with rocuronium alone and succinylcholine 60 and 90 s after administration. METHODS One hundred and twenty-five adult patients of ASA physical status I or II scheduled for elective surgery were randomly divided into five groups. After propofol administration in all patients, patients in group Su (succinylcholine), group R60 (rocuronium) and group RL60 (rocuronium-lidocaine) were intubated within 60 s, while groups RL90 and R90 were intubated 90 s after the administration of rocuronium and succinylcholine. Laryngoscopy was performed and intubating conditions were graded by an experienced anesthetist blind to the muscle relaxant allocation. RESULTS In this study, groups Su, RL60, R90 and RL90 had similar intubation scores, which were significantly better than that for group R60. Heart rate did not increase after intubation in groups Su, RL60 and RL90. CONCLUSION The combination of lidocaine (1.5 mg kg(-1)) and low-dose rocuronium (0.6 mg kg(-1)) along with propofol is clinically equivalent to succinylcholine, improves intubating conditions in 60 s and effectively blocks increases in heart rate after intubation.
BACKGROUND Rocuronium (ORG 9426) đã được chứng minh là có tác dụng khởi phát nhanh hơn so với các thuốc ức chế thần kinh cơ không phân cực khác và có tác dụng hỗ trợ đặt nội khí quản tương tự như của succinylcholine 60-90 s sau khi dùng. Chúng tôi so sánh tình trạng đặt nội khí quản và sự thay đổi huyết động sau khi dùng rocuronium 0,6 mg kg (-1) và lidocain 1,5 mg kg (-1) với rocuronium đơn thuần và succinylcholine 60 và 90 s sau khi dùng. PHƯƠNG PHÁP 125 bệnh nhân người lớn ASA tình trạng thể chất I hoặc II được chia ngẫu nhiên thành năm nhóm. Sau khi dùng propofol ở tất cả các nhóm, bệnh nhân ở nhóm Su (succinylcholine ), nhóm R60 (rocuronium) và nhóm RL60 (rocuronium-lidocain) được đặt nội khí quản trong vòng 60 s, trong khi nhóm RL90 và R90 được đặt nội khí quản trong vòng 90 s sau khi dùng rocuronium và succinylcholine. Nội soi thanh quản được thực hiện và đánh giá tình trạng đặt nội khí quản của bệnh nhân bằng thang điểm của bác sĩ gây mê không có kinh nghiệm về sự phân bố thuốc giãn cơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm số đặt nội khí quản của nhóm Su, RL60, R90 và RL90 tương đương nhau về mặt lâm sàng so với nhóm R60. Nhịp tim không tăng sau đặt nội khí quản ở nhóm Su, RL60 và RL90. Kết luận: Sự kết hợp giữa lidocain 1,5 mg kg (-1) ) và rocuronium liều thấp (0,6 mg kg (-1) ) cùng với propofol tương đương về mặt lâm sàng với succinylcholine, giúp cải thiện tình trạng đặt nội khí quản trong vòng 60 s và ngăn chặn hiệu quả sự gia tăng nhịp tim sau đặt
BACKGROUND In anaesthetized patients, body temperature decreases often, but overweight patients become less hypothermic. Obesity in itself protects body heat, and thermoregulatory reflexes may maintain normothermia in obese patients. We tested the hypothesis that even slight obesity increases the vasoconstriction threshold. METHODS Twenty male patients aged 30-65 years scheduled for open abdominal surgery were allocated to two groups: body fat >/=25% (obese group, n = 10), or <25% (normal weight group, n = 10). Anaesthesia was maintained with 0.4% isoflurane and opioid. The thermoregulatory vasoconstriction threshold was defined by the tympanic membrane temperature at which the skin temperature gradient equalled 0 degrees C. Plasma adrenaline, noradrenaline and leptin were measured. RESULTS Age, height, heart rate and blood pressure did not differ between the two groups of patients. In the obese group the vasoconstriction threshold was higher than that in the normal weight group: 36.0 +/- 0.1 vs. 35.5 +/- 0.2 degrees C. Consequently, after 4 h of anaesthesia, the core temperature was highest in the obese patients: 36.4 +/- 0.1 vs. 35.5 +/- 0.2 degrees C. CONCLUSIONS These results suggest that core temperature is maintained in obese patients because their vasoconstriction threshold to a low environmental temperature is high.
Ở bệnh nhân gây mê, thân nhiệt thường giảm nhưng tăng thân nhiệt ít hơn. Béo phì tự thân bảo vệ thân nhiệt và phản xạ nhiệt có thể duy trì thân nhiệt bình thường ở bệnh nhân béo phì. Chúng tôi đã thử nghiệm giả thuyết rằng ngay cả tình trạng béo phì nhẹ cũng làm tăng ngưỡng co mạch. 20 bệnh nhân nam tuổi từ 30-65 dự kiến phẫu thuật bụng mở được phân chia thành hai nhóm: nhóm mỡ >/= 25% ( nhóm béo phì, n = 10) hoặc <25% ( nhóm cân nặng bình thường, n = 10).
BACKGROUND There are at least three components of the anesthetic state: loss of consciousness, amnesia and obtundation of reflex responses to noxious stimuli. To investigate the third component, we used a standard electrical stimulus to evoke a blink reflex, which was electromyographically recorded. These data may give information on the anesthetic state. METHODS The relation between the electrically evoked blink and corneal reflexes and the depth of sedation and anesthesia induced with intravenous midazolam was investigated. Ten patients received i.v. increments of midazolam (1 mg, 2 mg, 3 mg, 3 mg, 3 mg, etc., until a 21-mg total dose) to create a step-wise deepening of sedation and anesthesia. Depth of anesthesia was assessed by the Observer's Assessment of Alertness/Sedation (OAAS) scale, ranging from 5 ( = awake and alert) to 0 ( = no motor response to tetanic stimulation). RESULTS Latency of the first (R1) and second (R2) blink components and the corneal (C) reflex component increased, whereas duration and area decreased with increasing depth of sedation and anesthesia. R1 was last seen at an OAAS score [mean (SD)] of 1.8 (0.8), R2 at a score of 3.1 (1.1), C at a score of 3.8 (0.8), and R3 at 4.8 (0.5). These end-points were all statistically different from each other, except R2 vs. C. CONCLUSIONS Our results suggest that the differential sensitivity of the components of the blink reflex could be useful to monitor depth of sedation and light levels of anesthesia during the administration of midazolam.
Có ít nhất ba thành phần của trạng thái gây mê: mất ý thức, mất trí nhớ và phản xạ chậm do tác nhân kích thích độc hại. Để khảo sát thành phần thứ ba, chúng tôi sử dụng kích thích điện tiêu chuẩn để gây phản xạ nháy mắt, ghi điện cơ đồ. Các số liệu này có thể cung cấp thông tin về trạng thái gây mê. PHƯƠNG PHÁP Mối liên quan giữa phản xạ nháy mắt và giác mạc do kích thích điện với độ sâu gây mê và gây mê bằng midazolam tĩnh mạch được khảo sát. Mười bệnh nhân được tăng liều midazolam (1 mg, 2 mg, 3 mg, 3 mg, 3 mg, v. v... cho đến khi tổng liều 21mg) để tạo độ sâu gây mê và gây mê theo từng bước. Độ sâu gây mê được đánh giá theo thang điểm OAAS, dao động từ 5 ( = tỉnh táo và tỉnh táo) đến 0 ( = không có phản xạ vận động do kích thích tetanic ). Độ nhạy của thành phần phản xạ nháy mắt lần 1 (R1) và lần 2 (R2) và phản xạ giác mạc (C) tăng lên, trong khi thời gian và diện tích giảm đi khi độ sâu gây mê và gây mê tăng lên. R1 được đánh giá lần cuối theo thang điểm OAAS là 1,8 (0,8); R2 được đánh giá ở mức 3,1 (1,1); C được đánh giá ở mức 3,8 (0,8); R3 được đánh giá ở mức 4,8 (0,5).
BACKGROUND Intrathecal injection of sufentanil offers labour pain relief of short duration. This double-blind randomised study evaluates if the combination of adenosine to sufentanil could give relevant prolongation (40%) of the duration of sufentanil spinal analgesia. METHODS Twenty-five healthy parturients requesting labour analgesia were included. Patients received 10 micro g of sufentanil + 500 micro g of adenosine or 10 micro g of sufentanil intrathecally. Pain intensity and duration of pain relief were assessed. RESULTS Pain relief was equal between groups. Duration of analgesia was not increased by adenosine + sufentanil, 99 +/- 54 min, vs. sufentanil, 89 +/- 56 min. CONCLUSION Adding 500 micro g of adenosine to 10 micro g of sufentanil could not provide any prolongation of labour pain relief.
Tiêm sufentanil vào cơ thể giúp giảm đau trong thời gian ngắn. Nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi này đánh giá kết hợp adenosine với sufentanil có thể kéo dài thời gian giảm đau (40% ) không. 25 bệnh nhân khỏe mạnh có nhu cầu giảm đau được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân được tiêm sufentanil 10 microg + 500 microg hoặc sufentanil 10 microg vào cơ thể. Đánh giá cường độ đau và thời gian giảm đau. KẾT QUẢ giảm đau tương đương nhau
BACKGROUND Ketamine efficacy as an analgesic adjuvant has been studied in several clinical settings with conflicting results. The aim of this study was to investigate the effect of ketamine on spontaneous and swallowing-evoked pain after tonsillectomy. METHODS Fifty children were randomized to receive premedication with either ketamine 0.1 mg kg(-1) i.m. or placebo given 20 min before induction of a standard general anaesthesia. All children received rectal diclofenac 2 mg kg(-1) and fentanyl 1 micro g kg(-1) i.v. before surgery. RESULTS The ketamine group showed significantly lower pain scores both at rest and on swallowing, with less total paracetamol consumption (P < 0.05) during the 24 h after surgery. Significantly more patients required postoperative morphine titration in the control group (P < 0.05). The time to the first oral intake, and duration of i.v. hydration, were significantly shorter and the quality of oral intake was significantly better in the ketamine group (P < 0.05). There were no differences in the incidence of vomiting or dreaming between the groups. CONCLUSION Premedication with a small dose of ketamine reduces swallowing-evoked pain after tonsillectomy in children who received an analgesic regimen combining an opioid and a NSAID.
Hiệu quả của ketamin như một chất bổ trợ giảm đau đã được nghiên cứu ở nhiều cơ sở lâm sàng nhưng các kết quả còn nhiều mâu thuẫn. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát tác dụng giảm đau tự phát và đau do nuốt sau cắt amiđan của ketamin. 50 bệnh nhi được chọn ngẫu nhiên để điều trị trước bằng ketamin 0,1 mg kg (-1) i.m hoặc dùng giả dược trong 20 phút trước khi gây mê toàn thân. Tất cả bệnh nhi đều được uống diclofenac trực tràng 2 mg kg (-1) và fentanyl 1 microg kg (-1) i.v. trước phẫu thuật. KẾT QUẢ: Nhóm ketamin có điểm đau giảm rõ rệt cả khi nghỉ và khi nuốt, lượng paracetamol tổng số thấp hơn (P < 0,05) trong 24 giờ sau phẫu thuật. Số bệnh nhi cần chuẩn độ morphin sau phẫu thuật nhiều hơn đáng kể (P < 0,05 ). Thời gian uống liều đầu tiên và thời gian cấp nước ngắn hơn có ý nghĩa thống kê và chất lượng uống tốt hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm ketamin (P < 0,05 ). Không có sự khác biệt về tỷ lệ nôn mửa hay mơ giữa các nhóm. Kết luận về hiệu quả giảm đau khi uống ketamin liều nhỏ làm giảm đau do nuốt sau cắt amiđan ở trẻ dùng thuốc giảm đau kết hợp opioid và NSAID.
BACKGROUND Diabetes-related emergencies are frequent and potentially life-threatening. A study was performed to obtain reliable data about the prevalence of diabetic emergencies and to improve the quality of prehospital care of patients with diabetes-related emergencies. METHODS A prospective population-based study in a German emergency medical service district in the period from 1997 to 2000 was conducted. After initial diabetes training for the entire emergency team, a standardized protocol was introduced for prehospital emergency therapy of severe hypoglycaemia (SH) and severe hyperglycaemic disorders. A rapid blood glucose test was performed on all emergency patients with the exception of resuscitations and deaths. Indicators of treatment quality before and after these interventions were compared. RESULTS A rapid blood glucose test was performed in 6631 (85%) of the 7804 emergencies that occurred during the period investigated. The prevalence of acute diabetic complications was 3.1%, and 213 cases of SH and 29 severe hyperglycaemic disorders were recorded. Education of the emergency team led to a significant improvement in the quality of treatment. Larger volumes of iv 40% glucose solution (50 +/- 20 ml (1997-2000) vs. 25 +/- 17 ml (1993-96); P < 0.0001) were administered to patients with SH. Insulin-treated patients who were well educated about their diabetes were more often treated only at the emergency scene, after SH (25% vs. 8%; P = 0.007), and without complications. In 50 patients who experienced sulfonylurea-induced SH, the mandatory additional glucose infusions and hospitalization for further observation reduced mortality from 4.9% to 0% (P = 0.2). CONCLUSION Training of the emergency team is an effective and efficient intervention to improve quality of treatment and prognosis outcome for patients with diabetic emergencies. Treatment of SH at the emergency scene only was demonstrated to be safe in type 1 diabetic patients who had previously received structured patient education.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CẬ
Lactic acidosis is a common cause of metabolic acidosis and is usually connected with high mortality. However, changes in the level of lactate and pH can also be seen after generalized epileptic attacks, due to local muscle hypoxia during the seizures. Although these changes can be quite marked, the condition is self-limiting and usually does not call for any specific treatment. We report five cases of lactic acidosis following convulsions from our centre.
Toan chuyển hóa là nguyên nhân thường gặp gây toan chuyển hóa và thường có tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên, thay đổi nồng độ lactate và pH cũng có thể gặp sau động kinh toàn thể do thiếu oxy cơ bắp trong cơn co giật. Mặc dù những thay đổi này có thể rõ rệt nhưng tình trạng này có thể tự giới hạn và thường không cần điều trị đặc hiệu. Chúng tôi báo cáo 5 trường hợp toan lactic sau co giật do trung tâm điều trị.
A healthy 21-year-old male who had previously been anaesthetized without complications underwent a laparotomy following a skiing accident. He developed severe malignant hyperthermia. The initial reaction was successfully treated with dantrolene, but during the following days the patient developed several compartment syndromes requiring fasciotomies. The patient died of hyperkalaemia in spite of continuous dialysis. We present a detailed description of the case and also discuss the role of propofol and rhabdomyolysis.
Một bệnh nhân nam 21 tuổi, trước đó đã được gây mê và không có biến chứng, sau một tai nạn trượt tuyết, đã được phẫu thuật mở ổ bụng điều trị. Bệnh nhân bị tăng thân nhiệt ác tính. Phản ứng ban đầu đã được điều trị thành công bằng dantrolene, nhưng trong những ngày tiếp theo bệnh nhân phát triển một số hội chứng khoang cần phải phẫu thuật. Bệnh nhân tử vong do tăng kali máu mặc dù đã lọc máu liên tục. Chúng tôi trình bày một mô tả chi tiết về trường hợp này và cũng thảo luận về vai trò của propofol và tiêu cơ
Bronchial rupture after intubation with a double-lumen endobronchial tube has been infrequently reported. Overinflation of the bronchial cuff was speculated to be a frequent cause of the bronchial damage. We report the case of a 78-year-old woman with non-small cell carcinoma of the right upper lobe. Her trachea and left main-stem bronchus were intubated with a left-sided polyvinylchloride (PVC) double-lumen endobronchial tube (Broncho-Cath(R) 37 Fr, Mallinckrodth Medical, Athlone, Ireland). She underwent an uneventful right upper lobectomy. At the end of the resection, the surgeons noticed the herniating cuff from the ruptured left main-stem bronchus. Laceration was repaired. Subsequent course of the patient was uneventful: she developed neither bronchial leak nor mediastinitis. Ten days later the patients was discharged home in a satisfactory condition. Factors that seem to increase the risk of injury by a double-lumen tube are discussed.
Thông báo ít được đưa ra về trường hợp vỡ phế quản sau đặt ống nội khí quản hai nòng. Hiện tượng phồng quá mức của ống nội khí quản được cho là nguyên nhân thường gặp gây tổn thương phế quản. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nữ, 78 tuổi, bị ung thư biểu mô tế bào không tế bào nhỏ thùy trên bên phải. Khí quản và phế quản chính bên trái được đặt ống nội khí quản hai nòng bằng polyvinylchloride (PVC) bên trái (Broncho-Cath (R) 37 Fr, Mallinckrodth Medical
Attempted jugular vein cannulation in a patient with a discrete goitre resulted in a rapid growing haematoma and airway obstruction. This life-threatening complication is rare, and is usually related to two conditions: pre-existing coagulopathy and/or arterial puncture by a large bore cannula or vessel dilator. None of these was present in this patient. Investigations revealed a retrosternal goitre causing tracheal compression and major changes in the calibre and the anatomical relationships of neck vessels. Possible origin and mechanism for the sudden haematoma are discussed, as well as the airway management. This case clearly illustrates how internal jugular vein cannulation using the traditional blind technique, guided by external landmarks, can be extremely hazardous in patients with distorted anatomy of the neck.
Sự cố can thiệp tĩnh mạch cảnh ở bệnh nhân có bướu cổ rời rạc dẫn đến tụ máu phát triển nhanh và tắc nghẽn đường thở. Biến chứng nguy hiểm đến tính mạng này rất hiếm gặp, thường liên quan đến hai tình trạng: rối loạn đông máu trước đó và/hoặc thủng động mạch bằng ống thông lỗ khoan lớn hoặc ống nong mạch. Không có biến chứng nào trong số này xuất hiện ở bệnh nhân này. Điều tra cho thấy bướu cổ sau gây chèn ép khí quản và thay đổi lớn về kích thước và mối liên quan giải phẫu của các mạch máu cổ. Nguồn gốc và cơ chế có
Myotonia congenita (MC) is caused by a defect in the skeletal muscle chloride channel function, which may cause sustained membrane depolarisation. We describe a previously healthy 32-year-old woman who developed a life-threatening muscle spasm and secondary ventilation difficulties following a preoperative injection of suxamethonium. The muscle spasms disappeared spontaneously and the surgery proceeded without further problems. When subsequently questioned, she reported minor symptoms suggesting a myotonic condition. Myotonia was found on clinical examination and EMG. The diagnosis MC was confirmed genetically. Neither the patient nor the anaesthetist were aware of the diagnosis before this potentially lethal complication occurred. We give a brief overview of ion channel disorders including malignant hyperthermia and their anaesthetic considerations.
Myotonia congenita (MC) là do khiếm khuyết chức năng kênh cơ xương clorua, có thể gây mất cực màng kéo dài. Chúng tôi mô tả một phụ nữ 32 tuổi khỏe mạnh trước đó bị co thắt cơ đe dọa tính mạng và khó thở thứ phát sau khi tiêm suxamethonium trước mổ. Các cơn co thắt cơ biến mất một cách tự nhiên và phẫu thuật tiến hành mà không có vấn đề gì thêm. Sau đó, cô báo cáo các triệu chứng nhỏ cho thấy tình trạng myotonia. Myotonia được phát hiện trên lâm sàng và điện cơ
Bemisia tabaci (Gennadius) populations, collected from cassava and other plants in major cassava-cultivation areas of Sub-saharan Africa and from elsewhere around the world, were studied to determine their biotype status and genetic variation. Random amplified polymorphic DNA-polymerase chain reaction (RAPD-PCR) markers were used to examine the genetic structure of the populations. The dendogram obtained using the neighbour joining method (NJ) split the cassava-associated populations from the non-cassava types with a 100% bootstrap probability. Analysis of molecular variance (AMOVA) of the RAPD fragments revealed that 63.2% of the total variation was attributable to differences among populations, while the differences among groups (host) and within populations accounted for 27.1 and 9.8% respectively. Analysis of the internally transcribed spacer region I (ITS 1) of the ribosomal DNA confirmed that the cassava populations of B. tabaci populations were distinct from non-cassava populations. Experiments to establish whitefly populations on various host plants revealed that cassava-associated populations were restricted to cassava only, whereas B. tabaci from other hosts were polyphagous but did not colonize cassava. Hence, populations of B. tabaci from cassava in Africa represent a distinct group.
Quần thể Bemisia tabaci (Gennadius ), thu thập từ sắn và các loài thực vật khác ở các vùng trồng sắn lớn của châu Phi hạ Sahara và từ các nơi khác trên thế giới, đã được nghiên cứu để xác định tình trạng kiểu sinh học và biến dị di truyền của chúng. Các marker phản ứng chuỗi trùng hợp đa hình khuếch đại ngẫu nhiên (RAPD-PCR) được sử dụng để kiểm tra cấu trúc di truyền của quần thể. Biểu đồ nhánh cây thu được bằng phương pháp nối hàng xóm (NJ) đã tách các quần thể sắn liên quan từ các loài không phải là sắn với xác suất tự khởi động 100 %. Phân tích phương sai phân tử (AMOVA) của các đoạn RAPD cho thấy 63,2% tổng số biến dị là do sự khác biệt giữa các quần thể, trong khi sự khác biệt giữa các nhóm (chủ) và trong quần thể chiếm lần lượt là 27,1 và 9,8 %. Phân tích vùng đệm nội phiên mã I (ITS 1) của DNA ribosome xác nhận quần thể sắn của quần thể B. tabaci khác biệt với quần thể không phải là sắn. Các thí nghiệm xác định quần thể ruồi trắng trên các cây chủ khác nhau cho thấy quần thể sắn chỉ bị giới hạn ở sắn, trong khi B. tabaci từ các vật chủ khác là đa bào nhưng không xâm chiếm sắn. Do đó, quần thể B. tabaci từ sắn ở châu Phi đại diện cho một nhóm riêng biệt.
Delta and wing traps baited with synthetic female sex pheromone of Leucinodes orbonalis Guenée were found to catch and retain ten times more moths than either Spodoptera or uni-trap designs. Locally-produced water and funnel traps were as effective as delta traps, although 'windows' cut in the side panels of delta traps significantly increased trap catch from 0.4 to 2.3 moths per trap per night. Trap catch was found to be proportional to the radius of sticky disc traps in the range 5-20 cm radius, discs with a 2.5 cm radius caught no moths. Wing traps placed at crop height caught significantly more moths than traps placed 0.5 m above or below the crop canopy. Replicated integrated pest management (IPM) trials (3 x 0.5 ha per treatment) were conducted in farmers fields with young and mature eggplant crops. Farmers applied insecticides at least three times a week in all check and IPM plots. In addition pheromone traps were placed out at a density of 100 per ha and infested shoots removed weekly in the 0.5 ha IPM plots. Pheromone trap catches were reduced significantly from 2.0 to 0.4 moths per trap per night respectively in check and IPM plots in a young crop and 1.1 to 0.3 moths per trap per night in check and IPM plots respectively in a mature crop. Fruit damage was significantly reduced from an average of 41.8% and 51.2% in check plots of young and mature crops respectively to 22% and 26.4 respectively in the associated IPM plots. Significant differences in pheromone trap catches and fruit damage were attained four and two weeks respectively after IPM treatments began in the mature crop whereas in the immature crop significant differences were not observed for the first eight to nine weeks respectively. The relative impact of removing infested shoots and mass trapping on L. orbonalis larval populations was not established in these trials but in both cases there was an estimated increase of approximately 50% in marketable fruit obtained by the combination of control techniques compared to insecticide treatment alone.
Bẫy ruồi Delta và bẫy cánh có chứa pheromone giới tính nữ tổng hợp của loài Leucinodes orbonalis Guenée đã được phát hiện có khả năng bắt và giữ lại số lượng bướm đêm nhiều gấp 10 lần so với Spodoptera hoặc thiết kế bẫy đơn. Bẫy nước và bẫy phễu được sản xuất tại địa phương có hiệu quả như bẫy delta, mặc dù các lỗ hở trên nắp bên của bẫy delta tăng khả năng bắt mồi từ 0,4 đến 2,3 con bướm đêm. Bẫy bẫy tỷ lệ thuận với bán kính của bẫy đĩa dính trong khoảng 5-20 cm, đĩa có bán kính 2,5 cm không bắt được bướm đêm. Bẫy cánh được đặt ở độ cao của cây trồng có khả năng bắt được nhiều bướm đêm hơn bẫy đặt ở độ cao trên hoặc dưới tán cây 0,5 m. Thử nghiệm tổng hợp kiểm soát dịch hại (IPM) được thực hiện lại trên các cánh đồng trồng cà tím non và trưởng thành. Nông dân sử dụng thuốc trừ sâu ít nhất ba lần một tuần trên tất cả các lô kiểm tra và IPM. Ngoài ra, bẫy pheromone được đặt với mật độ 100 con/ha và loại bỏ các chồi bị nhiễm bọ mỗi tuần trên các lô IPM 0,5 ha. Sản lượng bẫy pheromone thu được giảm đáng kể từ 2,0 đến 0,4 con bướm đêm trên các lô kiểm tra và 1,1 đến 0,3 con bướm đêm trên các lô kiểm tra và IPM trên các cây trưởng thành. Cây trưởng thành bị tổn thương về quả giảm đáng kể từ mức trung bình 41,8% và 51,2% trên các lô kiểm tra. Sau khi IPM được bắt đầu điều trị, sản lượng thu được và tổn thương về quả đạt được lần lượt là 4 và 2 tuần, trong khi đó ở các cây chưa trưởng thành, không có sự khác biệt đáng kể trong 8 đến 9 tuần đầu tiên. Tác động tương đối của việc loại bỏ các chồi bị nhiễm bọ và bẫy hàng loạt đối với quần thể ấu trùng L. orbonalis chưa được thiết lập trong các thử nghiệm này nhưng trong cả hai trường hợp, ước tính có sự gia tăng khoảng 50% sản lượng quả thu được bằng cách kết hợp các kỹ thuật kiểm soát so với chỉ sử dụng thuốc trừ sâu.
The autumn return migration of the beet armyworm Spodoptera exigua Hübner and other insects in northern China was observed with radar and with a simultaneously-operated searchlight trap and ground light-trap at a site in Langfang, near Beijing. The searchlight trap was found to be an efficient tool for trapping migrants and, operated alongside a ground light-trap, could distinguish migrant from locally-flying species. It was confirmed that S. exigua and some other species were high-altitude nocturnal windborne migrants during September and October in northern China. Maximum density of moths typically occurred below 500 m, and strong layering was often observed at about 200 m above ground level in airflows that would carry the moths towards the south. Descent of S. exigua in the vicinity of the radar site in late September was often associated with rain.
Sự di cư trở lại vào mùa thu của sâu quân sự spodoptera exigua H ?? bner và các loài côn trùng khác ở miền bắc Trung Quốc đã được quan sát bằng ra đa và bẫy đèn tìm kiếm hoạt động đồng thời với bẫy ánh sáng mặt đất tại một địa điểm ở Langfang, gần Bắc Kinh. Bẫy đèn tìm kiếm được phát hiện là một công cụ hiệu quả để bẫy những con bướm di cư và, khi được vận hành cùng với bẫy ánh sáng mặt đất, có thể phân biệt được loài di cư với các loài bay nội địa. Người ta đã xác nhận rằng S
Three lepidopteran cereal stemborers, Chilo partellus (Swinhoe) (Crambidae), Busseola fusca Fuller, and Sesamia calamistis Hampson (Noctuidae) were collected from maize and sorghum in Ethiopia. The noctuid stemborers are indigenous to Africa while C. partellus is an introduced species from Asia. In 1999, the Asian stemborer parasitoid, Cotesia flavipes Cameron (Braconidae) was found to be widespread in Ethiopia, even though it had never been released in the country. In addition to attacking Chilo partellus, Cotesia flavipes was reared from B. fusca and S. calamistis. The origin of C. flavipes in Ethiopia may have been Somalia where it was released in 1997 near the border with eastern Ethiopia. Percent parasitism of borers by C. flavipes was higher in eastern Ethiopia than other surveyed regions, and parasitism was higher in 2000 than 1999. Parasitism was higher when cereals were intercropped with other plants and when wild grass hosts of stemborers were present.
Ba loài phôi thai ngũ cốc thuộc bộ Cánh vẩy, Chilo partellus (Swinhoe) (Crambidae), Busseola fusca Fuller và Sesamia calamistis Hampson (Noctuidae) được thu thập từ ngô và lúa miến ở Ethiopia. Phôi noctuid là loài bản địa châu Phi trong khi C. partellus là loài được du nhập từ châu Á. Năm 1999, ký sinh trùng phôi châu Á, Cotesia flavipes Cameron (Braconidae) được phát hiện phổ biến ở Ethiopia,
Multivariate morphometric analysis (method of canonical variates) was used to compare 38 parthenogenetic lineages and three field collections of aphids of the Myzus persicae (Sulzer) group sampled on peach and tobacco in the Caserta region of southern Italy. Comparisons were also made with the morphology of lineages collected on peach in Lehonia, in central eastern Greece away from tobacco-growing regions, and on tobacco in Naphplion, in southern Greece. The lineages were measured after parthenogenetic rearing for one to three generations on the same host (potato) under constant conditions. As in previous work, the multivariate morphometric approach separated the aphids from peach from those feeding on tobacco. The life cycle category of the lineages was also examined. Almost all the lineages from peach in Caserta were holocyclic, yet the lineages from tobacco in the same region were unable to produce sexual morphs. The results suggest that tobacco-adapted and non-tobacco-adapted forms co-exist in the same region in southern Italy, not only because they colonize different host plants, but also because they have different life cycles. This is in complete contrast to the situation in peach-growing areas of northern Greece, and shows that the ecology and population structure of M. persicae is different in neighbouring counties of the Mediterranean area, even where climatic conditions and cultivated crops are similar.
Phương pháp phân tích hình thái đa biến (phương pháp so sánh các biến dị kinh điển) được sử dụng để so sánh 38 dòng lai trinh sinh và ba mẫu rệp vừng của nhóm Myzus persicae (Sulzer) thu được trên quả đào và cây thuốc lá ở vùng Caserta miền nam nước Ý. So sánh này cũng được thực hiện trên hình thái của các dòng dõi thu được trên quả đào ở Lehonia, miền trung đông Hy Lạp cách xa các vùng trồng cây thuốc lá và trên cây thuốc lá ở Naphplion, miền nam Hy Lạp. Các dòng dõi này được đo sau khi chúng được nuôi dưỡng theo chế độ trinh sinh từ một đến ba thế hệ trên cùng một vật chủ (khoai tây) trong điều kiện không đổi. Như trong công trình trước, phương pháp hình thái đa biến tách rệp vừng từ đào ra khỏi những loài ăn cây thuốc lá. Nhóm vòng đời của các dòng dõi cũng được khảo sát. Hầu hết các dòng dõi từ đào ở Caserta đều có vòng đời chỉnh hình, tuy nhiên, các dòng dõi từ cây thuốc lá ở cùng một vùng lại không thể tạo ra hình thái giới tính. Kết quả này cho thấy rằng các loài thích nghi với thuốc lá và không thích nghi với thuốc lá cùng tồn tại ở cùng một vùng ở miền nam nước Ý, không chỉ bởi chúng chiếm hữu các cây chủ khác nhau mà còn bởi chúng có vòng đời khác nhau. Điều này hoàn toàn trái ngược với các vùng trồng đào ở miền bắc Hy Lạp và cho thấy rằng hệ sinh thái và cấu trúc quần thể của loài hồng (M. persicae) khác nhau ở các hạt lân cận vùng Địa Trung Hải, ngay cả khi điều kiện khí hậu và cây trồng giống nhau.
Chrysophtharta agricola (Chapuis) is a pest of commercial eucalypt plantations in Tasmania and Victoria. Vagility of pest populations may result in difficulty predicting temporal and spatial pest outbreaks, and influence genetic resistance to chemical control. Gene flow in this pest species was estimated to assess predictability of attack, the potential efficacy of natural enemies, and the likelihood of resistance build-up. Ten geographic populations of C. agricola (six from Tasmania, one from the Australian Capital Territory, one from New South Wales and two from Victoria) were examined for genetic variation and gene flow using cellulose acetate allozyme electrophoresis. Six enzyme systems (PGI, PGD, PGM, IDH, HEX and MPI) were consistently polymorphic and scorable and were used to quantify estimated gene flow between populations. FST values and analysis of molecular variance indicated that gene flow was restricted between populations. Chrysophtharta agricola exhibited high levels of heterozygosity, probably because of high allelic diversity, and because all loci examined were polymorphic. The southern-most population was the most genetically different to other Tasmanian populations, and may also have been the most recently colonized. Limited gene flow implies that outbreaks of C. agricola should be spatially predictable and populations susceptible to control by natural enemies. Our results also imply that genetic resistance to chemical control may occur under frequent application of insecticide. However, testing population movement between plantations and native forest also needs to be conducted to assess gene flow between forest types.
Chrysophtharta agricola (Chapuis) là loài gây hại cho các đồn điền bạch đàn ở Tasmania và Victoria. Sự biến động của các quần thể gây hại có thể dẫn đến khó khăn trong dự đoán sự bùng phát dịch theo thời gian và không gian, đồng thời ảnh hưởng đến khả năng kháng thuốc của các loài gây hại. Dòng gen của loài gây hại này được ước tính để đánh giá khả năng dự đoán sự tấn công, hiệu quả tiềm năng của kẻ thù tự nhiên và khả năng gia tăng kháng thuốc. Mười quần thể địa lý của C. Agricola (sáu từ Tasmania, một từ Lãnh thổ Thủ đô Úc, một từ New South Wales và hai từ Victoria) đã được kiểm tra sự biến đổi gen và dòng gen bằng điện di của cellulose acetate allozyme. Sáu hệ enzyme (PGI, PGD, PGM, IDH, HEX và MPI) luôn đa hình và có thể lưu giữ được và được sử dụng để định lượng dòng gen ước tính giữa các quần thể. Giá trị FST và phân tích phương sai phân tử cho thấy dòng gen bị hạn chế giữa các quần thể. Chrysophtharta agricola thể hiện mức độ dị hợp tử cao, có lẽ do sự đa dạng allelic cao và do tất cả các địa phương được kiểm tra đều đa hình. Quần thể ở cực nam có sự khác biệt về di truyền cao nhất so với các quần thể ở Tasmania khác và cũng có thể là quần thể mới di cư gần đây nhất. Dòng gen hạn chế ngụ ý rằng sự bùng phát dịch của C. agricola có thể dự đoán được về mặt không gian và quần thể dễ bị kiểm soát bởi kẻ thù tự nhiên. Kết quả của chúng tôi cũng ngụ ý rằng khả năng kháng thuốc của quần thể đối với kiểm soát hóa học có thể xảy ra khi sử dụng thuốc trừ sâu thường xuyên. Tuy nhiên, cần tiến hành kiểm tra sự di chuyển quần thể giữa các đồn điền và rừng bản địa để đánh giá dòng gen giữa các loại rừng.
Cytotaxonomic analysis of the polytene chromosomes from larvae of the Simulium damnosum Theobald complex from the island of Bioko in Equatorial Guinea is reported, and a new endemic cytoform is described. Chromosomally this cytoform is close to both S. squamosum (Enderlein) and S. yahense Vajime & Dunbar, but is not identical to either. However, it is morphologically and enzymatically identical to S. yahense. The Bioko form was also found to differ from other cytoforms of the S. damnosum complex in West Africa in the copy number or RFLP pattern of several different repetitive DNA sequences. It is clear that the Bioko form is genetically distinct from other populations of the S. damnosum complex, and whilst it is closest to S. yahense, it shows features that suggest a high degree of geographical and genetic isolation. Such isolation is an important consideration in the assessment of the potential for onchocerciasis vector eradication on Bioko.
Phân tích độc tế bào của các nhiễm sắc thể đa nhân từ ấu trùng của phức hệ Simulium damnosum Theobald từ đảo Bioko, Guinea Xích đạo được công bố và mô tả một dạng tế bào đặc hữu mới. Về mặt sắc tố, dạng tế bào này gần với cả S. squamosum (Enderlein) và S. yahense Vajime & Dunbar, nhưng không giống với cả hai. Tuy nhiên, nó giống nhau về hình thái và enzyme với S. yahense. Dạng Bioko cũng được phát hiện khác với các dạng tế bào khác của
The silvicultural management of Scottish birch woodlands for timber production is replacing traditional low intensity management practices, such as domesticated livestock grazing. These new management practices involve thinning of existing woodlands to prescribed densities to maximize biomass and timber quality. Although presently infrequent, the wide scale adoption of this practice could affect invertebrate community diversity. The impact of these changes in management on Staphylinidae andCarabidae(Coleoptera) in 19 woodlands in Aberdeenshire, north-east Scotland was investigated. Grazing and logging practices were important determinants of beetle community structure. Woodland area had no effect on any measure of beetle community structure, although isolation did influence the abundance of one carabid species. Changes towards timber production forestry will influence the structure of invertebrate communities, although the scale at which this occurs will determine its effect.
Quản lý lâm sinh vùng rừng bạch dương Scotland để sản xuất gỗ đang thay thế các phương thức quản lý cường độ thấp truyền thống như chăn thả gia súc thuần hóa. Các phương thức quản lý mới này bao gồm việc làm mỏng diện tích rừng hiện có theo mật độ quy định để tối đa hóa sinh khối và chất lượng gỗ. Mặc dù hiện nay không thường xuyên, nhưng việc áp dụng trên diện rộng có thể ảnh hưởng đến sự đa dạng của cộng đồng động vật không xương sống. Những thay đổi trong quản lý này có thể ảnh hưởng đến sự đa dạng của họ Staphylinidae và Carabidae
OBJECTIVE We performed a retrospective study to assess long-term outcomes in very old patients with ruptured intracranial aneurysms. The aim of the study was to develop guidelines for choosing surgical or conservative treatment with the goal of maintaining patients' quality of life. METHODS Between 1996 and 1999, 76 consecutive patients, aged 80 to 89 years, with ruptured intracranial aneurysms were treated at 18 participating centers. They were divided retrospectively into operated and nonoperated groups, and their preoperative characteristics and treatment outcomes were analyzed. Their Glasgow Outcome Scale and Barthel Index scores at least 2 years after the insult were recorded and analyzed from the perspective of their admission Hunt and Hess grade. RESULTS Our retrospective review encompassed 5.9 years. Of the original 76 patients, 54 (71.1%) died, 13 (17.1%) had a good outcome (Barthel Index >or=60), and 9 (11.8%) had a poor outcome (Barthel Index <60). All patients with Hunt and Hess grades of III or higher at admission had poor outcomes irrespective of treatment. Of 32 patients with an initial Hunt and Hess grade of I or II, 19 (59.4%) underwent surgery; 9 of these patients (47.4%) had good outcomes. Conversely, of 13 nonoperated patients (40.6%), only 2 (15.4%) experienced good outcomes. In seven of the nine operated patients with good outcomes, the aneurysm was small (<12 mm) and located at the internal carotid artery-posterior communicating artery junction. CONCLUSION Our results suggest that patients in the 9th decade of life with ruptured intracranial aneurysms can be considered for surgical treatment if they have a Hunt and Hess grade of I or II. The highest rate of favorable results was achieved in patients with small internal carotid artery-posterior communicating artery aneurysms.
MỤC TIÊU: Nghiên cứu hồi cứu kết quả lâu dài ở bệnh nhân PĐMN vỡ độ tuổi rất cao. Mục tiêu của nghiên cứu là xây dựng hướng dẫn lựa chọn phương pháp điều trị phẫu thuật hay bảo tồn nhằm duy trì chất lượng sống cho bệnh nhân. PHƯƠNG PHÁP TỪ 1996 đến 1999, có 76 bệnh nhân PĐMN vỡ được điều trị tại 18 trung tâm. Các bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: nhóm được phẫu thuật và nhóm không được phẫu thuật, phân tích đặc điểm trước và sau phẫu thuật. Điểm Glasgow kết quả và Barthel sau ít nhất 2 năm kể từ khi phân tích được ghi nhận và phân tích từ góc độ Hunt và Hess nhập viện. KẾT QUẢ: Nghiên cứu hồi cứu có độ tuổi 5,9 tuổi. Trong 76 bệnh nhân được phẫu thuật lần đầu độ tuổi Hunt và Hess từ I đến II, có 54 (71,1% ) bệnh nhân tử vong, 13 (17,1% ) bệnh nhân có kết quả tốt (chỉ số Barthel > = 60) và 9 (11,8% ) bệnh nhân có kết quả xấu (chỉ số Barthel < 60 ). Tất cả bệnh nhân có độ tuổi Hunt và Hess từ III trở lên đều có kết quả xấu không phân biệt phương pháp điều trị. Trong 32 bệnh nhân được phẫu thuật lần đầu độ tuổi Hunt và Hess từ I đến II, có 19 (59,4% ) bệnh nhân được phẫu thuật; 9 trong số này (47,4% ) bệnh nhân có kết quả tốt. Ngược lại, trong số 13 bệnh nhân không được phẫu thuật (40,6% ), chỉ có 2 (15,4% ) bệnh nhân có kết quả tốt. 7/9 bệnh nhân có kết quả tốt là túi phình nhỏ < 12 mm, vị trí nút nối giữa động mạch cảnh trong và động mạch thông sau. Kết luận: Những bệnh nhân ở độ tuổi 9 bị vỡ túi phình có thể được phẫu thuật nếu có độ tuổi Hunt và Hess từ I đến II. Kết quả tốt đạt được cao nhất ở nhóm bệnh nhân có túi phình động mạch cảnh trong và động mạch thông sau
OBJECTIVE After aneurysmal subarachnoid hemorrhage, approximately 30% of patients experience delayed neurological deficits, related in part to arterial vasospasm and dysautoregulation. Transcranial Doppler (TCD) ultrasonography is commonly used to noninvasively detect arterial vasospasm. We studied cerebral perfusion patterns and associated TCD indices for 25 patients who developed clinical signs of delayed neurological deficits. METHODS Patients were treated in a neurosurgical intensive care unit and were studied if they exhibited delayed focal or global neurological deterioration. Positron emission tomographic cerebral blood flow (CBF) studies and TCD studies measuring the mean flow velocity (FV) of the middle cerebral artery and the middle cerebral artery FV/internal carotid artery FV ratio (with the internal carotid artery FV being measured extracranially at the cranial base) were performed. Glasgow Outcome Scale scores were assessed at 6 months. RESULTS A markedly heterogeneous pattern of CBF distribution was observed, with hyperemia, normal CBF values, and reduced flow being observed among patients with delayed neurological deficits. TCD indices were not indicative of the cerebral perfusion findings. The mean CBF value was slightly lower for patients who did not survive (32.3 ml/100 g/min), compared with those who did survive (36.0 ml/100 g/min, P = 0.05). CONCLUSION Among patients who developed delayed neurological deficits after aneurysmal subarachnoid hemorrhage, a wide range of cerebral perfusion disturbances was observed, calling into question the traditional concept of large-vessel vasospasm. Commonly used TCD indices do not reflect cerebral perfusion values.
MỤC TIÊU: Sau xuất huyết dưới màng nhện, khoảng 30% bệnh nhân có tình trạng suy thần kinh chậm, một phần do co thắt mạch máu và rối loạn vận động. Siêu âm Doppler xuyên sọ (TCD) thường được sử dụng để phát hiện co thắt mạch máu không xâm lấn. Chúng tôi nghiên cứu mô hình tưới máu não và các chỉ số liên quan trên 25 bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng suy thần kinh chậm. Các bệnh nhân được điều trị tại khoa Hồi sức thần kinh và được đánh giá tình trạng suy thần kinh chậm tại khu trú hay toàn thể. Các bệnh nhân được chụp cắt lớp Positron đo lưu lượng máu não (CBF) và đo TCD đo vận tốc dòng chảy trung bình (FV) của động mạch não giữa và FV động mạch não giữa/động mạch cảnh trong (có đo FV động mạch cảnh trong ngoài sọ tại đáy sọ ). Điểm số kết quả được đánh giá tại thời điểm 6 tháng. KẾT QUẢ: Mô hình phân bố CBF không đồng nhất, với sự gia tăng, giá trị CBF bình thường và giảm dòng chảy ở những bệnh nhân có suy thần kinh chậm. Các chỉ số TCD không biểu thị các kết quả về tưới máu não. Giá trị CBF trung bình thấp hơn một chút ở những bệnh nhân không sống (32,3 ml/100 g/phút) so với những bệnh nhân sống (36,0 ml/100 g/phút, P = 0,05).
OBJECTIVE The prevention of rebleeding is one of the most important issues in the successful treatment of moyamoya disease with hemorrhagic onset. However, the natural course of hemorrhagic moyamoya disease and the characteristics of rebleeding remain unclear. METHODS To study the natural course of the disease in conservatively treated patients, we analyzed long-term follow-up reports on 36 patients (12 male and 24 female) treated without bypass surgery at our hospitals before 1994 (mean follow-up, 12.7 +/- 7.1 yr; range, 2.9-27.0 yr). RESULTS Of our 36 patients, 22 (61.1%) experienced rebleeding; there were 29 rebleeding episodes. The outcomes in patients with rebleeding were worse than in patients who did not rebleed (P < 0.05); in most cases, unsatisfactory results were attributable to rebleeding. Kaplan-Meier and multivariate analysis of rebleeding-free survival showed that age at onset (>36 yr) was a statistically significant risk factor; sex, hypertension, type of intracranial bleeding, and outcome after the first bleeding episode were not. Although the intervals between the first and subsequent episodes varied, both the rebleeding rate and the number of rebleeding episodes were highest in patients 46 to 55 years old. CONCLUSION Rebleeding is the most important factor in unsatisfactory outcomes of patients with hemorrhagic moyamoya disease. Rebleeding seems to be age-related; rebleeding occurs at an increased rate when patients reach the age range of 46 to 55 years. Patients with hemorrhagic moyamoya must be followed up throughout their lives, even if their neurological status is excellent.
MỤC TIÊU CAN THIỆP CHĂM SÓC SUY THOÁI CHỨNG Ở BỆNH NHÂN MIỄN DỊCH CÓ XUẤT HIỆN METHAMOSA Ở BỆNH NHÂN MIỄN DỊCH TẠI BỆNH VIỆN NĂM 1994 TRUNG ƯƠNG THÁI BÌNH Nghiên cứu diễn biến tự nhiên của bệnh trên các bệnh nhân điều trị dự phòng, chúng tôi tiến hành phân tích các báo cáo theo dõi lâu dài trên 36 bệnh nhân (12 nam và 24 nữ) điều trị không phẫu thuật tại bệnh viện chúng tôi trước năm 1994 (theo dõi trung bình 12,7 +/- 7,1 năm; phạm vi theo dõi 2,9-27,0 năm) với 36 bệnh nhân (61,1% ) có xuất huyết tái phát; có 29 trường hợp xuất huyết tái phát. Kết cục của bệnh nhân xuất huyết tái phát xấu hơn so với bệnh nhân không xuất huyết tái phát (P < 0,05); trong hầu hết các trường hợp, kết cục không đạt yêu cầu là do xuất huyết tái phát. Phân tích Kaplan-Meier và đa biến cho thấy tuổi khởi phát (> 36 năm) là yếu tố nguy cơ có ý nghĩa thống kê; giới, tăng huyết áp, thể xuất huyết nội sọ và kết cục sau xuất huyết lần đầu không có ý nghĩa thống kê. Mặc dù khoảng thời gian giữa lần xuất huyết đầu tiên và các lần xuất huyết sau khác nhau, nhưng cả tỷ lệ xuất huyết tái phát và số lần xuất huyết đều cao nhất ở nhóm bệnh nhân 46-55 tuổi. KẾT LUẬN CHĂM SÓC SUY THOÁI CHỨNG ở nhóm bệnh nhân MIỄN DỊCH METHAMOSA. Xuất huyết tái phát có liên quan đến tuổi, xuất huyết tái phát tăng khi bệnh nhân đạt 46-55 tuổi. Bệnh nhân xuất huyết tái phát phải được theo dõi suốt đời, ngay cả khi tình trạng thần kinh của họ rất tốt.
OBJECTIVE To analyze the role of radiosurgery alone in patients with brain metastases. There were three specific study goals: 1) to determine whether survival of patients selected for this treatment approach can be predicted successfully by use of the recursive partitioning analysis classification defined by the Radiation Therapy Oncology Group; 2) to evaluate local control; and 3) to identify risk factors of cerebral failure. METHODS A total of 101 patients with Karnofsky Performance Scale scores of at least 50 and up to three brain metastases, each 3 cm or less in maximum diameter, were treated with radiosurgery alone. Survival, local control, distant brain freedom from progression (FFP), and overall brain FFP were evaluated according the method of Kaplan and Meier. Risk factors for survival and overall brain FFP were analyzed using the Cox model. RESULTS Median survival was 13.4 months, 9.3 months, and 1.5 months for patients in recursive partitioning analysis Classes 1, 2, and 3, respectively (P < 0.0001). At 1 year, local control, distant brain FFP, and overall brain FFP were 91, 53, and 51%, respectively. An interval greater than 2 years between diagnosis of the primary tumor and diagnosis of brain metastases and the presence of a single brain metastasis were associated with significantly higher overall brain FFP. CONCLUSION Recursive partitioning analysis classification successfully predicted survival. Radiosurgery alone yielded high local control. Overall brain FFP was highest in patients with an interval greater than 2 years between primary diagnosis and diagnosis of a single brain metastasis.
MỤC TIÊU: Phân tích vai trò của xạ phẫu đơn thuần trên bệnh nhân có di căn não. Có 3 mục tiêu nghiên cứu cụ thể: 1) Xác định khả năng dự đoán sống thêm của bệnh nhân được chọn để điều trị bằng phương pháp phân chia đệ quy của Nhóm Ung thư trị liệu bằng bức xạ; 2) Đánh giá sự kiểm soát tại chỗ; 3) Xác định các yếu tố nguy cơ suy não. PHƯƠNG PHÁP: Có 101 bệnh nhân với điểm số Karnofsky từ 50 điểm trở lên và có tới 3 di căn não, mỗi di căn có đường kính lớn nhất từ 3 cm trở xuống, được điều trị đơn thuần bằng xạ phẫu đơn thuần. Tỷ lệ sống thêm, kiểm soát tại chỗ, khoảng cách từ xa đến tiến triển của não (FFP) và FFP toàn não (FFP não) được đánh giá theo Kaplan và Meier. Các yếu tố nguy cơ sống thêm và FFP toàn não được phân tích bằng mô hình Cox. RESULTS trung vị sống thêm là 13,4 tháng, 9,3 tháng và 1,5 tháng ở các phân lớp phân chia đệ quy 1,2 và 3 (P < 0,0001 ). Tại thời điểm 1 năm, đối chứng tại chỗ, khoảng cách từ xa đến FFP não và sự có mặt của một di căn não lần lượt là 91,53 và 51 %. Khoảng thời gian từ khi chẩn đoán u nguyên phát đến khi chẩn đoán di căn não và sự có mặt của một di căn não có liên quan với tỷ lệ sống thêm toàn não cao hơn đáng kể so với trước khi chẩn đoán. Kết luận: Phân tích phân chia đệ quy giúp dự đoán thành công tỷ lệ sống thêm. Chỉ riêng xạ phẫu đơn thuần mang lại tỷ lệ kiểm soát tại chỗ cao. Tỷ lệ sống thêm toàn não cao nhất ở những bệnh nhân có khoảng cách từ khi chẩn đoán ban đầu đến khi chẩn đoán một di căn não lớn hơn 2 năm.
OBJECTIVE To report our experience in treating multiloculated pyogenic brain abscess and determine whether there are differences in the bacteriology, predisposing factors, treatment choices, and outcomes between multiloculated and uniloculated brain abscesses. METHODS We studied clinical data collected during a 16-year period from 124 patients with pyogenic brain abscess, including 25 cases of multiloculated abscess. RESULTS The incidence of multiloculated brain abscess was 20%. In these 25 patients, hematogenous spread from a remote infectious focus was the most common cause of infection, as it was for the cases of uniloculated abscess. Headache and hemiparesis were the most common symptoms in patients with multiloculated abscess. In patients with uniloculated abscess, fever was the most common symptom. Viridans streptococci were the most commonly isolated pathogens. Bacteroides fragilis was the most common anaerobe in multiloculated abscess, and aerobic gram-negative bacilli were the most common pathogens in patients with uniloculated abscess. Of the patients with multiloculated abscess, 21 were treated surgically and 4 were treated with antibiotics only. Overall, eight patients (38%) needed another operation because of abscess recurrence after the initial operation. In uniloculated abscess, the rate of abscess recurrence after initial surgery was 13.1%. Mortality was 16% in multiloculated abscess and 17.1% in uniloculated abscess. CONCLUSION Multiloculated abscesses accounted for 20% of our patients with pyogenic brain abscess. Excision seems to be the more appropriate surgical choice in multiloculated abscess. Prognosis for patients with multiloculated abscess can be as good as that for patients with uniloculated abscess. However, clinicians must carefully monitor these patients because the possibility of recurrence after surgery is significantly higher in patients with multiloculated abscess than in those with uniloculated abscess.
MỤC TIÊU THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN PHỔI THẢI MẠCH MÁU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG TỈNH THÁI BÌNH Chúng tôi tiến hành nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị áp-xe não đa ổ có kèm theo nhiều ổ áp-xe, trong đó có 25 trường hợp áp-xe não đa ổ.
OBJECTIVE Optimal treatment of elderly patients with Type II odontoid fractures is controversial. Suggestions vary between conservative management and different types of early surgery. Recent data confirm that early surgery may be warranted because conservative treatment has a high rate of failure in the elderly. METHODS We performed a case-control study of 27 patients with Type II odontoid fracture who were treated with anterior odontoid double-screw fixation at our institution. The aim of the study was to determine whether patients aged 70 years or older have a less favorable outcome than younger patients with this operative technique. Cases were defined as patients with Type II odontoid fracture aged 70 years or older. All patients younger than 70 years served as controls. RESULTS There were 15 patients aged 70 years or older (Group 1) and 12 patients younger than 70 years of age (Group 2). Mean follow-up was 16.6 months. Mean interval between fracture and surgery was 10 days. All patients were treated with anterior odontoid screw fixation by use of two compression screws. Fusion rates were 73% in Group 1 and 75% in Group 2. Additional dorsal stabilization was performed in 13% of cases in Group 1 and 17% of cases in Group 2. Complications occurred in 20% of cases in Group 1 and 8% of cases in Group 2. The only death occurred in Group 1, leading to 7% mortality in this group. Neurological status at admission and after treatment was similar in both groups. Statistical analysis did not reveal significant differences between groups for the factors studied. CONCLUSION Outcome after anterior odontoid screw fixation is not affected by patient age. Slightly higher rates of medical complications did not reach statistical significance. Because conservative management of odontoid fractures in the elderly has a high rate of failure, anterior stabilization for Type II odontoid fractures can be recommended.
MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ TỐI ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN GẮN MÁU CỔ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN Nghiên cứu bệnh chứng gồm 27 bệnh nhân gãy kín mặt mũi xoang loại II được điều trị kết hợp xương bằng hai ốc trước mặt tại khoa xương hàm mặt bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế.
OBJECTIVE To describe the results of deep brain stimulation of the ipsilateral posterior hypothalamus for the treatment of drug-resistant chronic cluster headaches (CHs). A technique for electrode placement is reported. METHODS Because recent functional studies suggested hypothalamic dysfunction as the cause of CH bouts, we explored the therapeutic effectiveness of posterior hypothalamic stimulation for the treatment of CHs. Five patients with intractable chronic CHs were treated with long-term, high-frequency, electrical stimulation of the posterior hypothalamus. Electrodes were stereotactically implanted in the following position: 3 mm behind the midcommissural point, 5 mm below the midcommissural point, and 2 mm lateral to the midline. RESULTS Since this treatment, all five patients continue to be pain-free after 2 to 22 months of follow-up monitoring. Two of the five patients have remained pain-free without any medication, whereas three of the five required low doses of methysergide (two patients) or verapamil (one patient). No adverse side effects of chronic, high-frequency, hypothalamic stimulation have been observed, and we have not encountered any acute complications resulting from the implant procedure. There have been no tolerance phenomena. CONCLUSION These preliminary results indicate a role for posterior hypothalamic stimulation, which was demonstrated to be safe and effective, in the treatment of drug-resistant chronic CHs. These data point to a central pathogenesis for chronic CHs.
MỤC TIÊU: Mô tả kết quả của kích thích vùng dưới đồi cùng bên trong điều trị đau đầu cụm mạn tính kháng thuốc. Kỹ thuật đặt điện cực được sử dụng. PHƯƠNG PHÁP: Vì các nghiên cứu chức năng gần đây cho thấy nguyên nhân đau đầu cụm là do rối loạn chức năng vùng dưới đồi, chúng tôi tìm hiểu hiệu quả điều trị của kích thích vùng dưới đồi trong điều trị đau đầu cụm mạn tính. Năm bệnh nhân đau đầu mạn tính dai dẳng đã được điều trị bằng kích thích vùng dưới đồi với tần số cao, kéo dài, được
OBJECTIVE To determine the clinical efficacy and cost effectiveness of using the fibrin sealant (FS) Tisseel (Baxter Healthcare Corp., Deerfield, IL) for patients undergoing anterior cranial base, infratemporal, and retromastoid surgical procedures. METHODS A retrospective review was performed, comparing two matched populations of patients who underwent surgical procedures using anterior cranial, infratemporal, or retromastoid approaches to intracranial pathological lesions. The incidences of cerebrospinal fluid (CSF) leaks in matched groups treated with the FS Tisseel or treated without FS were compared. The costs of Tisseel use were examined in comparison with the costs of postoperative management of CSF leaks and/or tension pneumocranium with spinal drainage and occasionally surgical reexploration, when lumbar drainage failed. RESULTS Patients who received the FS Tisseel exhibited no detectable postoperative CSF leaks or tension pneumocranium. Patients who did not receive Tisseel demonstrated 4 to 16% incidences of postoperative leaks, depending on the surgical approach used. The costs of treating those leaks far exceeded the costs of using Tisseel, even if it were used indiscriminately for all patients. CONCLUSION This retrospective review indicates that the FS Tisseel reduces the incidence of postoperative CSF leaks and tension pneumocranium while reducing overall management costs. Further prospective study is needed to determine which patients can benefit most from FS use.
MỤC TIÊU VỀ TÁC DỤNG TRÊN LÂM SÀNG VÀ TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH NHÂN SỬ DỤNG TENTERIN TENTERIN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG, HUYỆN NGHỆ AN, HUYỆN NGHỊ ĐỊA PHƯƠNG Nghiên cứu hồi cứu, so sánh hai nhóm bệnh nhân được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực não trước, não dưới và não trước. Các trường hợp rò dịch não tủy (DNT) ở nhóm được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực não trước, não dưới và não trước được so sánh với nhóm không được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực não trước, não dưới và não trước. Chi phí sử dụng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được so sánh với chi phí xử lý rò dịch não tủy và/hoặc tràn khí màng phổi có dẫn lưu tủy sống và được thăm dò lại sau phẫu thuật khi thất bại dẫn lưu tủy sống. KẾT QUẢ BỆNH NHÂN ĐƯỢC TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TRÊN 3 khu vực được điều trị bằng TENTERIN TR
OBJECTIVE To investigate the impact of packing of intervertebral spaces with oxidized regenerated cellulose (ORC) on the incidence of recurrence of lumbar disc herniation (LDH). METHODS We retrospectively reviewed 158 consecutive patients who underwent surgery for a newly diagnosed LDH and had a minimum of 18 months of follow-up. Single-level (151 patients) and two-level (7 patients) procedures accounted for 165 microdiscectomies. After microsurgical removal of disc herniation and curettage, the interspaces were tightly packed with ORC. RESULTS The average hospital stay was 1.47 days, without any relevant and permanent complications. In particular, complications related to intervertebral ORC packing were never observed. At a median follow-up of 29 months (range, 18-51 mo), the pain decreased or disappeared in almost all patients and the patient satisfaction rate was very high. A recurrence of LDH was observed in two patients (1.34%), both of whom needed a second operation. Three patients (2.01%) experienced a disc herniation involving another intervertebral space. CONCLUSION Our preliminary results suggest that the packing of intervertebral spaces with ORC at the end of microdiscectomy is a safe technique that may reduce the incidence of recurrent LDHs, although the true impact of this technique on long-term follow-up is still unclear. At the moment, it seems reasonable to assume that this technique should be used only under the auspices of large clinical investigations with prospective and randomized protocols.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA CHẤT DINH DƯỠNG TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁI ĐỔI DANH MỤC ĐIỀU TRỊ THOÁI ĐƯỜNG THƯỜNG XUYÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN Nghiên cứu hồi cứu
OBJECTIVE Carotid-cavernous fistulae (CCFs) are abnormal communications between the carotid artery and cavernous sinus that may present with rapid visual deterioration and extraocular paresis as a result of increasing intraocular pressure requiring emergent treatment to preserve vision. We present a technique of balloon-assisted ethanol embolization of the cavernous carotid artery supply to indirect CCFs providing immediate reduction in intraocular pressure with symptomatic improvement. METHODS We reviewed clinical and angiographic data and present a retrospective case series illustrating six patients who underwent endovascular embolization because of worsening visual acuity and extraocular motility disorder caused by CCFs. Cerebral angiography revealed significant blood supply from the cavernous carotid artery to these CCFs. We performed ethanol embolization of these branches with distal balloon protection. RESULTS Five of the six patients experienced immediate and sustained (mean follow-up, 21 mo) decreases in intraocular pressure, with significant symptom improvement. One patient experienced cavernous sinus thrombosis after conclusion of embolization, which caused a temporary worsening of symptoms that improved gradually over time. CONCLUSION Many surgical and endovascular options are available to treat indirect CCFs. Absolute ethanol is a liquid agent that causes immediate vessel sclerosis and occlusion, which makes it a dangerous but potent liquid embolic agent. With distal temporary balloon protection to prevent migration of ethanol, we achieved excellent clinical and angiographic results using absolute ethanol to embolize the cavernous carotid supply to indirect CCFs. This represents a safe and effective method of endovascular management of this complex vascular anomaly.
MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG ĐỘNG MẠCH-NỘI ĐỒNG ĐỘNG MẠCH CỦA ĐỘNG MẠCH-NỘI ĐỒNG LƯỚI ĐỘNG MẠCH CỦA ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CÓ TÍ
OBJECTIVE To describe a surgical technique for a minimally invasive transcortical transventricular amygdalohippocampectomy via the inferior temporal sulcus (ITS) using a stereotactic navigator. METHODS Seven patients with medically intractable mesial temporal lobe epilepsy underwent an amygdalohippocampectomy via the ITS. By use of a laser-guided navigation system, the epileptogenic foci of the mesial temporal lobe were resected through a small linear operative route that was made by a brain speculum inserted from the ITS to the anterolateral floor of the temporal horn in the lateral ventricle. RESULTS All patients completed at least a 1-year follow-up (range, 14-45 mo) after surgery and had improved neuropsychological parameters as a result of the operation. All patients became seizure-free after surgery. A Humphrey visual field perimeter detected no hemianopsia. CONCLUSION Combined with the stereotactic navigation system, the ITS approach provides the least invasive amygdalohippocampectomy that preserves optic radiation. This approach seems beneficial especially in patients in whom the epileptic lesions are limited to the anterior mesial temporal lobe.
MỤC TIÊU: Mô tả một số kỹ thuật phẫu thuật cắt hạch hạnh nhân xuyên não thất ít xâm lấn qua rãnh thái dương dưới bằng máy định vị lập thể.
Since the introduction of Guglielmi detachable coils more than a decade ago, the coiling technique for the treatment of intracranial aneurysms has been enhanced with technical and technological refinements. Both neurosurgeons and neuroradiologists have participated in this process. Stents and nondetachable balloons have been useful in the coiling of some wide-necked aneurysms. An increasing number of neurosurgeons are pursuing fellowship training in neuroendovascular techniques. Moreover, most neurosurgeons work closely with neurointerventionists. In this communication, technical preferences developed during our experience with intracranial aneurysm coiling are summarized.
Từ khi cuộn ống có thể tháo rời Guglielmi ra đời hơn một thập kỷ trước, kỹ thuật cuộn ống điều trị phình động mạch nội sọ đã được cải tiến với sự hoàn thiện về kỹ thuật và công nghệ. Cả bác sĩ phẫu thuật thần kinh và bác sĩ phẫu thuật thần kinh đều tham gia vào quá trình này. Stent và bóng bay không thể tháo rời đã được sử dụng trong cuộn ống một số phình động mạch cổ rộng. Ngày càng có nhiều bác sĩ phẫu thuật thần kinh theo học các khóa đào tạo sinh viên về kỹ thuật nội mạch thần kinh. Hơn nữa, hầu
OBJECTIVE To examine the reliability of using the optic strut as a landmark in computed tomographic (CT) angiography, to differentiate between intradural and extradural (cavernous sinus) aneurysms involving the paraclinoid segment of the internal carotid artery (ICA). METHODS Microanatomic dissections were performed with five cadaveric heads (10 sides), to establish the relationships of the optic strut to the cavernous sinus and the ICA. Results from these anatomic studies were compared with intraoperative and CT angiographic findings for four patients with nine intracranial aneurysms involving the paraclinoid segment of the ICA. RESULTS The inferior boundary of the optic strut accurately localized the point at which the ICA pierced the oculomotor membrane (proximal dural ring) and exited the cavernous sinus. The optic strut and its relationship to the ICA could be well observed on CT angiograms. During surgery, six of six aneurysms that arose distal to the optic strut were identified intradurally and were successfully clipped. Conversely, all aneurysms that arose proximal to the optic strut were observed to lie within the cavernous sinus. An aneurysm at the optic strut was within the clinoid segment or interdural, between the proximal and distal rings. CONCLUSION The optic strut, as identified with CT angiography, provided a reliable anatomic landmark for accurate discrimination between intradural and extradural (cavernous sinus) aneurysms.
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG TRANG THIẾT LẬP ĐỊNH LƯỢNG TRÊN MÔ HÌNH CẮT ĐỘNG MẠCH TRÊN MÔ HÌNH TRONG XÉT NGHIỆM CẮT ĐỘNG MẠCH THẢI MỎI Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 5 xác (10 mặt) nhằm xác định mối liên quan giữa TRAN
OBJECTIVE We sought to develop a neurosurgical procedure to access the pons with a drug delivery device for chronic therapy and collect preliminary data on the toxicity of direct infusions of carboplatin in primates. METHODS We made midline incisions on five cynomolgus monkeys, identified the inion, made a burr hole 2.5 cm below the inion, and inserted a catheter through the cerebellum into the roof of the pons. Pumps that infused saline for 90 days or carboplatin solutions for 30 to 35 days at 10 microl/d were placed subcutaneously in the low cervical/high thoracic region. Monkeys were assessed by computed tomography and magnetic resonance imaging, laboratory studies, daily neurological observation, postmortem examinations, and histopathology. RESULTS Monkeys infused with saline and 82 microg of carboplatin remained neurologically intact throughout the infusion periods. Serial imaging showed that the catheter tip was in the pons and revealed no evidence of hemorrhage, edema, or migration. Two monkeys infused with up to 850 microg of carboplatin showed hyperintense magnetic resonance imaging signals at Days 15 and 18 and neurological deficits at approximately Week 3. Platinum levels greater than 10 ng/mg tissue were detected over a distance of 1 cm in tissue slices. Histopathology demonstrated significant tissue necrosis around the tip of the catheter. CONCLUSION The pons of monkeys is safely accessed with a catheter for drug delivery by using a posterior midline approach. Clinical observations, radiographic imaging, and laboratory tests of animals infused with saline for 3 months or 0.26 mg/ml of carboplatin for 1 month were unremarkable. Neurotoxicity was seen with dose levels of 2.6 mg/ml of drug for 1 month. This procedure offers opportunities for examining the toxicity of brainstem antitumor therapy in primates.
MỤC TIÊU: Chúng tôi đã nghiên cứu phát triển quy trình phẫu thuật thần kinh để tiếp cận thần kinh đệm bằng một thiết bị truyền thuốc cho điều trị mãn tính và thu thập dữ liệu ban đầu về độc tính của truyền trực tiếp carboplatin ở động vật linh trưởng. PHƯƠNG PHÁP: Chúng tôi tiến hành các đường rạch giữa trên 5 con khỉ đột, xác định được thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể tích thể
In the concept of neurorestoration, cellular and structural elements that have been lost are replaced, and their function is restored. Central to this therapeutic strategy is the transplantation of neural progenitor cells such as clonogenically expanded stem cells. Stem cells make decisions regarding fate and patterning in response to external environmental signals. The therapeutic effectiveness of neural stem cells may be facilitated by the ability to manipulate these signals in a temporal and spatially appropriate fashion. Artificial deoxyribonucleic acid and artificial protein technology combines elements of protein engineering, molecular biology, and recombinant deoxyribonucleic acid technology to produce proteins with functional domains derived from naturally occurring proteins and represents a potentially powerful tool to modulate stem cell behavior. To this end, we have developed three artificial extracellular matrix proteins that incorporate the active domain of hJagged1 and hDelta1 into an elastin backbone. hJagged1 and hDelta1 are members of the DSL family of ligands to the Notch receptor, a signaling system that is very important in development and is the strongest known signal to instruct neural progenitor cells to choose glial fates over neuronal fates. The successful cloning of the artificial genes was confirmed by test digestions with appropriate restriction enzymes as well as direct deoxyribonucleic acid sequencing. In addition, we have demonstrated that all three artificial extracellular matrix proteins express at a high level in a prokaryotic host. This report describes the concept and progress in an entirely novel and previously unreported approach to modulate neural stem cell behavior. Its future application could include in vitro processing of stem cells before transplantation, supporting and programming the cells after transplantation, as well as the development of bioactive biomaterials.
Trong khái niệm phục hồi chức năng thần kinh, các yếu tố cấu trúc và tế bào đã mất đi được thay thế, phục hồi chức năng. Trọng tâm của chiến lược điều trị này là cấy ghép tế bào tiền thân thần kinh như tế bào gốc mở rộng clonogenically. Tế bào gốc ra quyết định về số phận và tạo hình để đáp ứng với các tín hiệu môi trường bên ngoài. Hiệu quả điều trị của tế bào gốc thần kinh có thể được tạo điều kiện bằng khả năng điều khiển các tín hiệu này theo cách thích hợp về thời gian và không gian. Công nghệ axit deoxyribonucleic nhân tạo và protein nhân tạo kết hợp các yếu tố của kỹ thuật protein, sinh học phân tử và công nghệ axit deoxyribonucleic tái tổ hợp để tạo ra các protein với các miền chức năng có nguồn gốc từ các protein xuất hiện tự nhiên và là một công cụ tiềm năng, có sức mạnh để điều chỉnh hành vi của tế bào gốc. Để đạt được mục đích này, chúng tôi đã phát triển ba protein ma trận ngoại bào nhân tạo kết hợp miền hoạt động hJagged1 và hDelta1 thành một xương sống elastin. HJagged1 và hDelta1 là thành viên của họ các phối tử DSL với thụ thể Notch, một hệ thống tín hiệu rất quan trọng trong sự phát triển và là tín hiệu mạnh nhất được biết đến để hướng dẫn tế bào tiền thân thần kinh chọn định mệnh thần kinh thay vì định mệnh thần kinh. Việc nhân bản thành công các gen nhân tạo đã được xác nhận bằng các phép đào với các enzyme giới hạn thích hợp cũng như giải trình tự axit deoxyribonucleic trực tiếp. Ngoài ra, chúng tôi đã chứng minh rằng cả ba protein ma trận ngoại bào nhân tạo đều biểu hiện ở mức độ cao trên vật chủ nhân sơ. Báo cáo này mô tả khái niệm và tiến trình trong một phương pháp hoàn toàn mới và chưa từng được báo cáo trước đây để điều chỉnh hành vi của tế bào gốc thần kinh. Ứng dụng trong tương lai của nó có thể bao gồm xử lý in vitro tế bào gốc trước khi cấy ghép, hỗ trợ và lập trình các tế bào sau cấy ghép cũng như sự phát triển của vật liệu sinh học có hoạt tính sinh học.
OBJECTIVE Inspired by organ culture-induced changes in the vascular endothelin (ET) receptor population, we investigated whether such changes occur in cerebral arteries in a rat subarachnoid hemorrhage (SAH) model. METHODS SAH was induced with injection of 250 microl of blood into the prechiasmatic cistern. After 2 days, the middle cerebral artery, basilar artery, and posterior communicating artery were harvested. Pharmacological studies were performed in vitro, and levels of messenger ribonucleic acid (mRNA) were quantified in real-time reverse transcriptase-polymerase chain reaction assays. RESULTS In the middle cerebral artery and basilar artery from rats with induced SAH, enhanced biphasic responses to ET-1 were observed. The -log(50% effective concentration) value for the high-affinity phase was approximately 12, compared with approximately 8.5 for sham-operated animals. At a concentration of ET-1 of 10(-9) mmol/L (approximately equal to the physiological concentration of ET-1 in the plasma), submaximal contractions of 50 to 75% of the contraction obtained through stimulation with 60 mmol/L K(+) were now observed. Quantitative mRNA studies with the same arteries demonstrated significant increases in the number of copies of ET(B) receptor mRNA but not ET(A) receptor mRNA. Evidence of functional ET(B) receptors was provided in antagonist studies. The posterior communicating artery did not exhibit significant changes. CONCLUSION The altered receptor profile observed may represent the final stage in the series of events leading from SAH to actual spasm of the artery. The pharmacological data for the ET(B) receptor suggest complex interactions between normally present ET(A) receptors and up-regulated ET(B) receptors.
MỤC TIÊU: Lấy cảm hứng từ nuôi cấy các thay đổi của các thụ thể nội mô mạch máu (ET ), chúng tôi khảo sát sự thay đổi này có xảy ra ở các động mạch não trên mô hình xuất huyết dưới nhện ở chuột cống trắng hay không. Gây SAH bằng cách tiêm 250 microl máu vào bể trước sinh thiết. Sau 2 ngày, thu nhận được động mạch não giữa, động mạch nền và động mạch thông sau. Các nghiên cứu dược lý được thực hiện in vitro, định lượng nồng độ acid ribonucleic (mRN
EARLY REPORTS OF phantom limbs by Ambroise Paré and René Descartes were based on second- or third-hand descriptions provided by amputees. William Porterfield (ca. 1696-1771) was a prominent Scottish physician and was possibly the first man of medicine to write about his experiences after having a leg amputated. Porterfield was an authority on vision; he devised the first optometer and examined accommodation after cataract operations. Rather than using the phenomenon of a phantom limb to question the veracity of the senses (as Descartes had done), Porterfield integrated his phantom limb experiences into his general account of sensory function.
BÁO CÁO TRƯỚC VỀ CHÂN MÔ CỦA Ambroise Paré và René Descartes dựa trên những mô tả trực tiếp hoặc gián tiếp của những người cụt chân. William Porterfield (khoảng 1696-1771) là một bác sĩ người Scotland nổi tiếng và có thể là người đầu tiên viết về trải nghiệm của mình sau khi bị cắt cụt một chân. Porterfield là một chuyên gia về thị lực; ông đã phát minh ra kính quang kế đầu tiên và kiểm tra sự điều tiết sau phẫu thuật đục
OBJECTIVE AND IMPORTANCE The complex regional anatomic features surrounding the sella turcica make the differential diagnosis of intrasellar and parasellar lesions complicated. Sellar and parasellar schwannomas are rare. With the exclusion of parasellar schwannomas arising from cranial nerves within the cavernous sinus and extending into the sella, there have been only two reported cases of true intrasellar schwannomas. CLINICAL PRESENTATION We describe the clinical, radiological, and pathological features of two cases in which the histopathological diagnosis of schwannoma was confirmed with immunohistochemical analyses and/or electron microscopy. INTERVENTION The two cases were grossly resected via a transsphenoidal approach. Follow-up monitoring revealed no evidence of recurrence. CONCLUSION Schwannomas may atypically occur in the sellar region, in which they demonstrate the typical light microscopic, immunohistochemical, and ultrastructural features observed in the peripheral nervous system. New and existing hypotheses regarding the histopathogenesis of intrasellar and parasellar schwannomas are presented.
MỤC TIÊU VÀ YẾU TỐ CẦN THIẾT CỦA CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ TRỌNG LƯỢNG GÂY TÊN TRÊN MẶT ĐẤT LÂM SÀNG Các đặc điểm giải phẫu vùng phức tạp xung quanh hố bán nguyệt làm cho chẩn đoán phân biệt tổn thương nội mạc và bán cầu rất phức tạp. U bán cầu và bán cầu rất hiếm gặp. Với sự loại trừ u bán cầu phát
OBJECTIVE AND IMPORTANCE Experience with the management of juvenile nasopharyngeal angiofibroma (JNA) by gamma knife radiosurgery is limited. We report control of the disease in two patients with advanced-stage JNA treated with primary resection followed by gamma knife stereotactic radiosurgery of residual disease. CLINICAL PRESENTATION An 18-year-old man presented with chronic sinusitis, worsening headaches, diplopia, and left-sided facial numbness. A second patient, a 19-year-old man, presented with recurrent epistaxis and nasal congestion. Magnetic resonance imaging findings and endoscopic evaluation in each patient were consistent with advanced-stage JNA. INTERVENTION One patient underwent craniofacial resection with approximately 3.0 cm(3) of residual tumor in the region of the cavernous sinus. The other patient underwent preoperative embolization followed by a lateral rhinotomy for tumor resection with approximately 4.7 cm(3) of residual tumor in the right infratemporal fossa. In an attempt to limit radiation to surrounding normal brain, residual tumor in both patients was treated with gamma knife stereotactic radiosurgery. Control of disease was documented by magnetic resonance imaging more than 24 months after treatment. CONCLUSION Short-term control of late-stage JNA was achieved by use of a strategy of primary surgical resection followed by gamma knife radiosurgery of residual tumor in two patients. Establishing the effectiveness and safety of this strategy over conventional methods of managing advanced JNA will require future prospective studies.
MỤC TIÊU VÀ THỰC TRẠNG CỦA CHUYỂN MẠCH CHẨN ĐOÁN UNG THƯ VŨ KHÍ TRẺ EM BẰNG PHẪU THUẬT GAMMANG TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG T
OBJECTIVE AND IMPORTANCE We report a unique case of extended leptomeningeal hemangioblastomatosis in a patient presenting with clinical von Hippel-Lindau disease. CLINICAL PRESENTATION A 50-year-old male patient had a history of three surgical procedures for the removal of a cerebellar hemangioblastoma, initially considered to be a recurrence of a sporadic form at the same location. Seven years after the last operation, he developed chronic hydrocephalus. Despite a ventriculoperitoneal shunt procedure, he experienced progressive worsening of gait disturbances, associated with touch numbness of the lower limbs and Parinaud's syndrome. Magnetic resonance imaging of the brain and spine showed evidence of leptomeningeal contrast enhancement around the brainstem, spinal cord, and cauda equina and enlarged tortuous vessels around the mesencephalon. INTERVENTION A lumbar laminectomy allowed a leptomeningeal biopsy. Pathological examination revealed leptomeningeal spread of the hemangioblastoma. It is assumed that the tumor arose in the pia mater and that its direction of growth was purely extramedullary, invading all subarachnoid spaces. The patient had a poor outcome as a result of progressive tetraplegia and died 6 months after diagnosis as a result of respiratory failure. CONCLUSION To the best of our knowledge, the clinical course of our patient, consistent with a thick leptomeningeal spread of hemangioblastoma from the posterior fossa to the sacrum, is unique. Nevertheless, the short life expectancy of our patient is usual in von Hippel-Lindau disease. This case report illustrates the crucial challenge to develop a specific drug therapy related to angiogenesis in von Hippel-Lindau disease.
MỤC TIÊU VÀ TẦM QUAN Chúng tôi báo cáo một trường hợp đặc biệt về u nguyên bào mạch máu não kéo dài trên bệnh nhân mắc bệnh von Hippel-Lindau lâm sàng.
OBJECTIVE AND IMPORTANCE A variant type of the primitive trigeminal artery (PTA) is a rare anomalous vessel that originates from the internal carotid artery and directly supplies the territory of the anteroinferior cerebellar artery and/or the superior cerebellar artery. We report a case of trigeminal neuralgia associated with this PTA variant, and we discuss the characteristics of this vessel. CLINICAL PRESENTATION A 51-year-old woman presented with a 10-year history of left paroxysmal facial pain. Magnetic resonance angiography and cerebral angiography demonstrated that an aberrant vessel originating from the left internal carotid artery directly supplied the cerebellum, without a basilar artery anastomosis. INTERVENTION Surgical exploration was performed via a left retrosigmoid approach. A loop of the aberrant vessel, which entered the posterior fossa through the isolated dural foramen, was compressing the trigeminal nerve. This aberrant vessel was displaced medially from the nerve with a prosthesis, with care to avoid kinking and avulsion of the perforating arteries. The patient's neuralgia resolved postoperatively. CONCLUSION Although the PTA variant is frequently associated with intracranial aneurysms, it is extremely rare for the variant to lead to trigeminal neuralgia. During microvascular decompression surgery, surgeons should be careful to prevent injury of the perforating arteries arising from the PTA variant.
MỤC TIÊU VÀ TẦM QUAN Một biến thể của động mạch sinh ba nguyên thủy (ĐMTT) là một dạng bất thường hiếm gặp, có nguồn gốc từ ĐMC trong và cấp máu trực tiếp cho tiểu não trước và/hoặc tiểu não trên. Chúng tôi báo cáo một trường hợp đau dây thần kinh chia ba liên quan đến biến thể ĐMTT này, đồng thời thảo luận về đặc điểm của loại ĐMTT này.
OBJECTIVE AND IMPORTANCE Origination of the temporopolar artery (TPA) from the supraclinoid internal carotid artery (ICA) represents a rare anatomic variation, and the presence of aneurysms at this uncommon site has never before been reported. CLINICAL PRESENTATION Two patients presented with a sudden onset of headaches and meningism. Computed tomography demonstrated diffuse subarachnoid hemorrhage in both cases. Cerebral angiography revealed ruptured aneurysms originating at a TPA origin from the ICA. INTERVENTION The patients were surgically treated, and the aneurysms were successfully clipped. For technical reasons, the TPA was sacrificed in both cases. CONCLUSION These are the first reported cases of aneurysms originating at the TPA origin from the ICA. Awareness of the existence of this variation is necessary, particularly for the management of superior wall aneurysms of the ICA.
ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT ĐỘNG MẠCH CỦA ĐỘNG MẠCH TẢI TRỌNG TỪ ĐỘNG MẠCH TRÊN ĐỘNG MẠCH TẢI TRỌNG TRỌNG TỪ ĐỘNG MẠCH TRÊN MẠCH TRỌNG TRỌNG Hai bệnh nhân đau đầu và màng não khởi phát đột ngột. Chụp cắt lớp vi tính
OBJECTIVE AND IMPORTANCE We describe a case of brainstem cavernous angioma in which the neural tracts were evaluated before surgery by three-dimensional anisotropy contrast (3-DAC) magnetic resonance imaging. CLINICAL PRESENTATION A 64-year-old man presented with a cavernous angioma located intrinsically in the brainstem and manifesting as gait ataxia. 3-DAC imaging demonstrated that the lesion was located outside the left inferior cerebellar peduncle and inside the middle cerebellar peduncle. INTERVENTION The intact brain surface was incised, and the lesion was removed successfully on the basis of the preoperative 3-DAC images. The patient exhibited temporary exacerbation of his gait ataxia, but the symptom improved 3 months after surgery. Postoperative 3-DAC imaging demonstrated resection of the lesion and preservation of the left inferior and middle cerebellar peduncles. CONCLUSION 3-DAC imaging may provide essential information about the neural tracts for the planning of brainstem surgery.
MỤC TIÊU VÀ TÁC DỤNG CỦA CHẨN ĐOÁN UNG THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ THƯ TH
OBJECTIVE AND IMPORTANCE Anterior endoscopic treatment of a huge anterior sacral meningocele, a rare example of spinal dysraphism, is described. CLINICAL PRESENTATION A 43-year-old woman presented with severe headache and fever, increasing abdominal pain, and a several-year history of right lower-extremity radicular pain. She exhibited meningeal irritation signs and Currarino's triad. Lumbosacral myelograms and magnetic resonance imaging scans revealed a huge anterior sacral cyst connected with the spinal subarachnoid space. INTERVENTION A straight rigid endoscope was introduced into the meningocele through a small abdominal incision. The fistula between the meningocele and the spinal subarachnoid space was obliterated with multiple fat grafts harvested from the abdomen. CONCLUSION An anterior endoscopic procedure is an alternative for the treatment of a huge anterior sacral meningocele.
MỤC TIÊU VÀ TÁC DỤNG CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI CUỘC SỐNG CỦA SUY GIẢM MÔ MÔ TẢ LỚN TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚC TRƯỚ
We carried out a retrospective analysis of all emergency referrals to the neurosurgery department of the Wentworth Hospital from 1996 to 1999. The hospital provided a service to seven peripheral hospitals with computerized tomography (CT) scanners and 46 hospitals without, in the province of KwaZulu Natal. By the end of the study, six of the hospitals with CT scanners had facilities for teleradiology and the mean patient return rate had fallen to 17%. In comparison, almost half the patients seen from the hospitals with no CT scanners were returned to hospital after assessment at the Wentworth Hospital. We also carried out a prospective analysis of 100 consecutive teleradiology-assisted consultations from January to March 2000. Of the 57 patients (79%) who remained at their referral hospitals, 45 had a good outcome, while the other 12 (21%) patients had a poor outcome. The implementation of teleradiology-assisted consultation decreased the number of inappropriate inter-hospital transfers while maintaining appropriate patient care and improving outcome.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu tất cả các trường hợp chuyển viện cấp cứu đến khoa phẫu thuật thần kinh bệnh viện Wentworth từ năm 1996 đến năm 1999. Bệnh viện đã cung cấp dịch vụ cho 7 bệnh viện ngoại vi có máy chụp cắt lớp vi tính và 46 bệnh viện không có máy chụp cắt lớp vi tính tại tỉnh KwaZulu Natal. Đến cuối nghiên cứu, 6 bệnh viện có máy chụp cắt lớp vi tính đã có cơ sở vật chất cho việc chẩn đoán hình ảnh từ xa và tỷ lệ bệnh nhân trở về trung bình giảm xuống còn 17
We investigated the feasibility of telemonitoring services for patients with severe respiratory illness. In the first phase of the study, patients were observed and treated using face-to-face medical visits for 12 months. In the second phase of the study, the patients were monitored at home for 12 months, during which time determinations of arterial oxygen saturation and heart rate were performed twice a week, and the data were automatically transmitted to the hospital's processing centre via a normal telephone line. Thirty patients on long-term oxygen therapy were enrolled in the study; 23 completed the 12 months of home telemonitoring. The numbers of hospital admissions and of acute home exacerbations during the telemonitoring phase of the study decreased by 50% and 55%, respectively, in comparison with the first phase. Estimates of hospitalization costs for the patients during the second phase were approximately 17% lower than those for the first phase. Patients were satisfied with the quality of the personal telemonitoring process in 96% of cases. We believe that telemedicine can enable the provision of high-quality home care for patients with severe respiratory illness.
Nghiên cứu tính khả thi của dịch vụ theo dõi bệnh nhân mắc bệnh hô hấp nặng. Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân được theo dõi và điều trị tại nhà trong 12 tháng. Trong giai đoạn 2, bệnh nhân được theo dõi tại nhà trong 12 tháng, trong thời gian đó việc xác định độ bão hòa oxy động mạch và nhịp tim được thực hiện hai lần một tuần và dữ liệu được tự động truyền đến trung tâm xử lý bệnh viện qua đường điện thoại. 30 bệnh nhân điều trị oxy dài hạn được đưa vào nghiên cứu; 23 bệnh nhân hoàn thành 12 tháng theo dõi tại nhà. Số ca nhập viện và số đợt cấp tại nhà trong giai đoạn theo dõi của nghiên cứu giảm tương ứng 50% và 55% so với giai đoạn 1. Chi phí điều trị cho bệnh nhân trong giai đoạn 2 thấp hơn khoảng 17% so với giai đoạn 1. 96% bệnh nhân hài lòng với chất lượng của quy trình theo dõi cá nhân. Chúng tôi tin rằng y tế từ xa có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc tại nhà chất lượng cao cho bệnh nhân mắc bệnh hô hấp nặng.
We examined the use of ISDN video-phones by health professionals and two types of home care clients: those receiving palliative care and those receiving antenatal care. In the palliative care group, there were four female clients and 15 health professionals; these clients on average had the video-phones at home for six weeks and made 12.5 calls per week. The antenatal care group consisted of six female clients and eight female registered nurses; these clients on average also had the video-phones at home for six weeks and made 12.5 calls per week. Exit interviews were conducted with three clients and eight staff in the palliative care group, and with six clients and three staff in the antenatal care group. Palliative care clients and their families commented that the visual feature of the phone enhanced the care that they received. In the antenatal group, the video-phone was used mainly for booking appointments and arranging home visits. In general, the technology was well received by clients and care providers.
Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra việc sử dụng điện thoại video ISDN của các chuyên gia y tế và hai loại khách hàng chăm sóc tại nhà: những người được chăm sóc giảm nhẹ và những người được chăm sóc tiền sản. Trong nhóm chăm sóc giảm nhẹ, có 4 khách hàng nữ và 15 chuyên gia y tế; những khách hàng này trung bình có điện thoại video tại nhà trong 6 tuần và thực hiện 12,5 cuộc gọi mỗi tuần. Nhóm chăm sóc tiền sản gồm 6 khách hàng nữ và 8 điều dưỡng nữ có đăng ký; những khách hàng này trung bình cũng có điện thoại
We have developed a network-reactive robotic telemicroscopy system that uses high-speed image processing and quality of service (QoS) feedback to maximize performance. In tests, four magnifications (4x, 10x, 40x, 60x) of a section stained with haematoxylin and eosin were used. Up to 25 clients, distributed across two Internet domains, accessed the server. When given control of the microscope, any of the clients could direct the microscope to change focus and objectives within 3 s and move the stage to any x-y position within 1 s. Transmission rates of 50-200 kbit/s were achieved for video (320 x 240 pixels at 24 bit/pixel). Performance varied according to the complexity of the images being transmitted. The 25 simultaneous users were supported without affecting the operation of the server and the system overhead was relatively small. The server's message-processing time and the network transmission delay amounted to 83 ms. The compression ratio of five previously stored video-sequences ranged from 336:1 to 1213:1. The underlying model for this system could serve a wide range of telemedicine and distance-learning applications.
Chúng tôi đã phát triển hệ thống kính hiển vi từ xa bằng robot phản ứng mạng sử dụng tốc độ xử lý hình ảnh cao và phản hồi chất lượng dịch vụ (QoS) để tối đa hóa hiệu suất. Trong các thử nghiệm, chúng tôi sử dụng bốn độ phóng đại (4x, 10x, 40x, 60x) của một phần nhuộm màu haematoxylin và eosin. Có tối đa 25 khách hàng, phân bố trên hai miền Internet, truy cập vào máy chủ. Khi được kiểm soát kính hiển vi, bất kỳ khách hàng nào cũng có
We developed a tele-education programme in child mental health for rural allied health workers. The programme was delivered in two parts, each consisting of six sessions. Videoconferencing at 384 kbit/s was used. Satisfactory retention rates were maintained throughout. Participants consistently reported increases in knowledge and skills as a result of attending the programme. The project resulted in a high rate of reported changes to practice. An unanticipated outcome was the value placed on the opportunities for local networking provided by the project for participants. Videoconferencing can deliver effective professional development to allied health workers in child mental health.
Chúng tôi xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe tâm thần trẻ em từ xa cho cán bộ y tế phụ trách y tế thôn bản. Chương trình được chia làm hai phần, mỗi phần gồm 6 buổi. Sử dụng hội nghị truyền hình với tốc độ 384 kbit/s. Tỷ lệ lưu giữ đạt yêu cầu được duy trì trong suốt quá trình. Người tham gia báo cáo sự gia tăng về kiến thức và kỹ năng do tham gia chương trình. Dự án cho thấy tỷ lệ thay đổi thực hành cao. Kết quả không lường trước được là giá trị đặt lên cơ hội kết nối mạng tại địa phương
The Magdalene Islands are an archipelago located in the middle of the Gulf of St Lawrence, more than 1000 km away from supra-regional medical referral centres. We have implemented and evaluated a telemedicine network for the local hospital on the Magdalene Islands. During a 13-month study period, 118 transmissions were made. Orthopaedics and radiology were the medical specialties that used telemedicine most frequently. Store-and-forward imaging was the technique used most often because of the large number of transmissions in orthopaedics and radiology. Various medical specialties and psychosocial services used videoconferencing, while realtime imaging (ultrasound) was used in gynaecology and obstetrics. A combination of videoconferencing and imaging was used for otolaryngology. A total of 101 individual patients benefited from a teleconsultation during the study period. Eight emergency transfers were avoided and 15 patients who would have required elective transfer were managed locally by telemedicine. For health-care providers, telemedicine seemed to be an acceptable way of delivering specialized services. Nevertheless, demonstration projects in telemedicine are quite different to 'real life' telemedicine utilization. Deployment of telemedicine in the health-care system as a whole will require a more structured approach.
Quần đảo Magdalene là một quần đảo nằm giữa vịnh St Lawrence, cách trung tâm chuyển tuyến của khu vực hơn 1.000 km. Chúng tôi đã triển khai và đánh giá mạng lưới y tế từ xa cho bệnh viện địa phương trên quần đảo Magdalene. Trong thời gian nghiên cứu 13 tháng, 118 ca truyền bệnh đã được thực hiện. Chỉnh hình và X quang là hai chuyên khoa sử dụng y tế từ xa thường xuyên nhất. Chụp ảnh lưu trữ và chuyển tiếp là kỹ thuật được sử dụng thường xuyên nhất do số lượng truyền bệnh lớn trong chỉnh hình và X quang.
We used set-top videoconferencing equipment connected by ISDN at 384 kbit/s for six educational seminars held between the University of Udine (the local site) and the National Cancer Institute in Aviano (the remote site), 60 km away. User satisfaction was evaluated by questionnaire. The median length of seminars was 58 min (range 48-61 min), followed by a 20 min (15-26 min) discussion. Eighty-two users answered the questionnaire (a 43% response rate): 56 in Udine (a median of 11 per seminar) and 26 in Aviano (a median of 5 per seminar). Answers to the questions were similar at the two sites. Videoconferencing did not affect the users' experience of attending the seminars, as both interest and clarity were similar at the local and remote site. The results suggested that videoconferencing is a viable method for delivering seminars in oncopathology, where image quality is important.
Chúng tôi sử dụng thiết bị hội nghị truyền hình có kết nối ISDN với tốc độ 384 kbit/s cho 6 hội thảo giáo dục được tổ chức giữa Đại học Udine (địa phương) và Viện Ung thư Quốc gia ở Aviano (vùng xa) cách đó 60 km. Sự hài lòng của người dùng được đánh giá bằng bộ câu hỏi. Thời gian trung bình của các hội thảo là 58 phút (khoảng 48-61 phút) tiếp theo là 20 phút (15-26 phút ). 82 người dùng trả lời bộ câu hỏi
A distance continuing medical education programme was established at the Katholieke Universiteit Leuven in Belgium using multipoint videoconferencing via ISDN lines at 384 kbit/s. The sessions, held in the evening, comprised oral presentations followed by interactive questions and answers, and concluded with a multi-site panel discussion. At all sites the session could be followed on two screens. The speaker/moderator or a questioner at a peripheral site, for example, was shown on the first screen and digital images were projected on the second screen. A multi-site voting system was provided. In weekly sessions between five rotating sites, a multipoint videoconference dealing with a different medical topic was presented and treated in a multidisciplinary way. During the three years of the project, 20 different peripheral sites were visited or revisited. On a five-point scale (with higher scores representing more positive evaluations), the average score for the quality of the image was 3.72 (SEM 0.01) and for sound 3.87 (SEM 0.01) (n = 3743). The mean rating of the voting system was 3.76 (SEM 0.02) (n = 3119). For sound, image quality and the voting system, respectively, 73%, 65% and 70% of all participants gave ratings of 'very good' or 'good'. The older participants gave slightly more positive ratings than the younger ones. Videoconferencing appears to be a suitable alternative to face-to-face seminars.
Một chương trình đào tạo y khoa liên tục từ xa được thành lập tại Đại học Katholieke Leuven ở Bỉ bằng cách sử dụng hội nghị truyền hình đa điểm qua đường dây ISDN với tốc độ 384 kbit/s. Các buổi hội nghị được tổ chức vào buổi tối, bao gồm thuyết trình bằng miệng, sau đó là các câu hỏi và câu trả lời tương tác, và kết thúc bằng một cuộc thảo luận đa điểm. Ở tất cả các trang web, buổi hội thảo có thể được theo dõi trên hai màn hình. Ví dụ, loa/người sửa đổi hoặc người
A distance continuing medical education programme was established at the Katholieke Universiteit Leuven using multipoint videoconferencing via ISDN lines at 384 kbit/s. During each of the first three academic years of the project, two or three periods of eight or nine sessions each were organized (a total of 74 sessions). A questionnaire was given to all participants to determine the profile of the users and the efficiency of the project. Sixty-five per cent of the participants were male. The proportion of female participants was higher at the central location than at the peripheral sites. The mean age of the participants was 37.7 years (SEM 0.3). Male participants were older than female ones. At the central location, the mean age was lower than at the peripheral locations. Nearly 90% of the participants at the peripheral sites said that they saved time by attending a videoconference session. The average time saving per participant at the peripheral locations increased from 99 min in the first year to 145 min in the third year of the project. The time saving was closely related to the distance between the peripheral location and the central location. The global cost per participant at the peripheral locations was 43.7 Euros per hour of broadcasting and the indirect estimated cost-saving was 64 Euros per hour. More than 85% of the participants at the peripheral sites stated that they would no longer travel to Leuven (the central location) for these sessions if they were to be organized in a traditional, face-to-face manner, mostly because of the time required, particularly in road travel.
Một chương trình đào tạo y khoa liên tục từ xa được thành lập tại Đại học Katholieke Leuven sử dụng hội nghị truyền hình đa điểm qua đường dây ISDN với tốc độ 384 kbit/s. Trong ba năm đầu tiên của dự án, mỗi dự án tổ chức hai hoặc ba giai đoạn, mỗi giai đoạn 8 hoặc 9 buổi (tổng cộng 74 buổi ). Người tham gia được phát một bảng câu hỏi để xác định thông tin cá nhân và hiệu quả của dự án. 65% người tham gia là nam giới. Tỷ lệ nữ giới ở khu vực trung tâm cao hơn so với khu vực ngoại vi. Tuổi trung bình của người tham gia là 37,7 tuổi (SEM 0,3 ). Nam giới lớn tuổi hơn nữ giới. Ở khu vực trung tâm, tuổi trung bình thấp hơn so với khu vực ngoại vi. Gần 90% người tham gia hội nghị truyền hình nói rằng họ tiết kiệm thời gian bằng cách tham gia hội nghị truyền hình. Thời gian tiết kiệm trung bình ở khu vực ngoại vi tăng từ 99 phút trong năm đầu tiên lên 145 phút trong năm thứ ba của dự án. Thời gian tiết kiệm liên quan chặt chẽ đến khoảng cách giữa khu vực ngoại vi và khu vực trung tâm. Chi phí toàn cầu cho mỗi người tham gia tại khu vực ngoại vi là 43,7 euro/giờ và tiết kiệm gián tiếp là 64 euro/giờ. Hơn 85% người tham gia khu vực ngoại vi nói rằng họ sẽ không còn đi đến Leuven (khu vực trung tâm) để tham gia nếu họ được tổ chức trực tiếp theo kiểu truyền thống, chủ yếu là do thời gian cần thiết, đặc biệt là khi đi lại bằng đường bộ.
In a pilot project, telemedicine was used to conduct retinal examinations of diabetic patients in the Alta municipality of Norway. All health-care workers who were involved in the project were interviewed. The ophthalmologists found that the grading of the level of retinopathy was quicker with digital images than with slit-lamp examinations. Fifty patients with type II diabetes were invited to attend a telemedicine check-up and 42 did so. Patients were asked to complete a questionnaire after the telemedicine examination and we received 32 replies (a 76% response rate), of which 12 were from men and 20 from women. The patients expressed a high degree of satisfaction with the telemedicine examination. The results of the evaluation also clearly showed that trust between health personnel was of major importance in engendering positive attitudes. Confidence is the basis of good collaboration between the various professions in the health-care sector, between health-care levels and between patients and treatment providers - in terms not only of individuals' confidence but also of routines, procedures and the system as a whole.
Trong một dự án thí điểm, khám sức khỏe từ xa cho bệnh nhân đái tháo đường tại thành phố Alta, Na Uy. Tất cả nhân viên y tế tham gia dự án được phỏng vấn. Các bác sỹ chuyên khoa mắt nhận thấy việc phân độ bệnh lý võng mạc bằng hình ảnh số nhanh hơn so với khám bằng đèn khe. 50 bệnh nhân đái tháo đường týp II được mời khám sức khỏe từ xa và 42 bệnh nhân đã làm như vậy. Các bệnh nhân được yêu cầu trả lời bộ câu hỏi sau khám sức khỏe từ xa và chúng tôi nhận được 32 câu trả lời (
Ophthalmological image archiving and distribution can be automated using a picture archiving and communication system (PACS). A fundus PACS has been in clinical use since February 2000 at the ophthalmology clinic of Tampere University Hospital. It consists of a digital fundus camera, an imaging workstation, from which new patients can be added to the archive, 10 viewing stations and an image archive server. In glaucoma imaging, the fundus images taken from a patient are transferred from the imaging workstation to the image archive server and are then immediately available from the physician's viewing workstation; the transfer time of an average image, of 350 kbit, is 0.0035 s, even though the archive is located 5 km away. After 18 months of operation there were over 16,000 images archived; these took 5.3 GByte of a total storage capacity of 41.9 GByte. The network and archive server achieved 99% reliability in use. Digital imaging makes it possible to shift ophthalmology clinics towards more patient-oriented treatment procedures.
Lưu trữ và phân phối hình ảnh nhãn khoa có thể được tự động hóa bằng hệ thống lưu trữ và truyền tải hình ảnh (PACS ). GWM (Gyorum sensing) PACS được ứng dụng trong lâm sàng từ tháng 2/2000 tại phòng khám nhãn khoa Bệnh viện Đại học Tampere. Nó bao gồm một camera GWM, một máy trạm để thêm bệnh nhân mới vào kho lưu trữ, 10 trạm quan sát và một máy chủ lưu trữ hình ảnh. Trong chụp CLVT glôcôm, hình ảnh GWM được
Five adolescents with diabetes participated in an intensive outpatient treatment programme designed to improve adherence to their regimen and improve metabolic control. Families reported blood sugar levels, injections and food intake daily by telephone. After four weeks they were offered a video-phone. Nine subjects were recruited but four of them dropped out. Of the remaining five, one subject used a video-phone and one subject reported blood sugar results by email. Most of the children improved their metabolic control and all five subjects showed reduced HbA(1c) levels during the three months of the study. The use of telehealth facilitated the treatment of adolescents with poor glycaemic control.
Năm trẻ vị thành niên đái tháo đường tham gia chương trình điều trị ngoại trú chuyên sâu nhằm cải thiện sự tuân thủ phác đồ và cải thiện kiểm soát chuyển hóa. Gia đình báo cáo nồng độ đường huyết, tiêm và ăn hàng ngày qua điện thoại. Sau bốn tuần, họ được cung cấp điện thoại video. Chín đối tượng được tuyển chọn nhưng bốn trong số họ bỏ học. Trong số năm đối tượng còn lại, một đối tượng được sử dụng điện thoại video và một đối tượng báo cáo kết quả đường huyết qua email. Hầu hết trẻ em đều cải thiện kiểm soát chuyển hóa và cả năm đối tượng đều
Eosinophil-derived neurotoxin (EDN) is released after activation and stimulation of eosinophils in allergic disease, which is a T(H)2-predominant condition. We previously reported that Graves' thyrotoxicosis develops or relapses after an attack of allergic rhinitis. In this study, to confirm the relation between Graves' disease and the allergic condition, we determined the serum level of EDN in 30 untreated patients with Graves' disease, 50 patients with Hashimoto's thyroiditis, and 39 normal controls. Compared to the serum level in normal subjects (30.1 +/- 15.6 ng/mL), EDN was increased in untreated patients with Graves' disease (52.4 +/- 27.6 ng/mL), but not in patients with Hashimoto's thyroiditis (thyrotoxic, 30.9 +/- 13.4 ng/mL; euthyroid, 30.0 +/- 11.9 ng/mL; hypothyroid, 23.4 +/- 10.2 ng/mL). A significant correlation was observed between the EDN level and the serum activity of thyrotropin (TSH) receptor antibody (r = 0.541, p < 0.0001). These data suggest that the allergic condition is closely related to Graves' disease and that a T(H)2-type immune response is crucial in the pathogenesis of Graves' disease.
Độc tố thần kinh bạch cầu ái toan (EDN) được giải phóng sau khi kích hoạt và kích thích bạch cầu ái toan trong bệnh dị ứng, bệnh có tỷ lệ cao nhất là T (H) 2. Trước đây, bệnh Basedow có biểu hiện nhiễm độc giáp hoặc tái phát sau một đợt tấn công viêm mũi dị ứng. Trong nghiên cứu này, để khẳng định mối liên quan giữa bệnh Basedow và bệnh dị ứng, chúng tôi đã xác định nồng độ EDN huyết thanh ở 30 bệnh nhân bệnh Basedow chưa được điều trị, 50 bệnh nhân viêm tuyến giáp Hashimoto
The sodium iodide symporter (NIS) mediates iodide uptake in thyroid cells and enables the effective radioiodide treatment of thyroid cancers. There is much interest in facilitating radioiodide therapy in other cancers by NIS gene transfer. This study showed that exogenous NIS expression decreased MATLyLu rat prostatic adenocarcinoma cell growth. Tumor growth and metastatic progression were significantly delayed in syngeneic rats injected with mixed or clonal populations of MATLyLu-NIS cells compared to rats with control tumors. MATLyLu-NIS tumors in nude mice had a lower, albeit not statistically significant, growth rate than control tumors. The Ki-67 labeling index in NIS-positive areas was lower than in NIS-negative areas of rat tumors derived from a mixed population of MATLyLu-NIS cells. Growth of clonal populations of MATLyLu-NIS cells was delayed in vitro. These results demonstrate that NIS expression inhibits MATLyLu cell growth, thereby providing an additional potential benefit of NIS-mediated gene therapy for cancer.
Chất điều hòa hấp thu iodide natri trong tế bào tuyến giáp (NIS) có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào tuyến giáp và cho phép điều trị hiệu quả bằng radioiodide trong ung thư tuyến giáp. Nghiên cứu này cho thấy biểu hiện NIS ngoại sinh làm giảm sự phát triển tế bào ung thư biểu mô tuyến tiền liệt MATLyLu ở chuột cống trắng. Sự phát triển và tiến triển di căn của khối u bị chậm lại đáng kể ở chuột được tiêm tế bào MATLyLu-NIS hỗn hợp hoặc vô tính so với chuột
Transcription factors TTF-1 and Pax-8 control the expression of thyroid-specific genes crucial for thyroid function. It has been postulated that they may play a role in thyrotropin (TSH)-mediated augmentation of gene expression observed in some thyroid diseases including Grave's hyperthyroidism. Recently, we and others described the expression of two genes participating in thyroid hormone metabolism type I and type II deiodinase (D1 and D2, respectively) that are upregulated by TSH, although the mechanisms responsible for this effect are likely to be different. The aim of this study was to investigate whether there is a correlation between TTF-1 and Pax-8 mRNA levels and type I or type II 5' deiodinases expression in Graves' disease. D1 activity and mRNA level, as well as D2 activity and mRNA level, were significantly increased in Graves' disease in comparison to control tissues. D1, but not D2, activity correlated with its mRNA level in Graves' disease and toxic multinodular goitre. The TTF-1 mRNA level was not different between Graves' disease and control thyroids and no correlation between TTF-1 mRNA level and either D1 or D2 mRNA levels were found. The Pax-8 mRNA level was significantly increased in Graves' disease in comparison to control tissues and correlated with D2, but not D1, mRNA levels among all investigated groups of tissues. Our data suggest that transcription factor Pax-8 could be involved in the upregulation of D2 expression in the thyroid of Graves' patients.
Yếu tố phiên mã TTF-1 và Pax-8 kiểm soát sự biểu hiện của các gen đặc hiệu tuyến giáp có vai trò quan trọng đối với chức năng tuyến giáp. Các yếu tố này được cho là có vai trò trong việc tăng cường biểu hiện gen qua trung gian thyrotropin (TSH) ở một số bệnh lý tuyến giáp trong đó có cường giáp của Grave. Gần đây, chúng tôi và cộng sự đã mô tả sự biểu hiện của hai gen tham gia vào quá trình chuyển hóa hormone tuyến giáp loại I và loại II deiodinase (D1 và D2) được điều hòa bởi TSH, mặc dù cơ chế gây ra hiệu ứng này có thể khác nhau. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu mối tương quan giữa mức độ TTF-1 và Pax-8 mRNA và sự biểu hiện của deiodinase loại I và loại II 5 ở bệnh nhân Graves. Hoạt độ D1 và mRNA cũng như hoạt độ D2 và mRNA tăng lên đáng kể ở bệnh nhân Graves so với mô đối chứng. Hoạt độ D1, nhưng không phải D2, tương quan với mức độ mRNA của nó ở bệnh nhân Graves và bướu cổ đa bào độc hại. Mức độ TTF-1 mRNA không khác biệt giữa bệnh Graves và tuyến giáp đối chứng và không có mối tương quan giữa mức độ TTF-1 mRNA với mức độ D1 hoặc D2 mRNA ở tất cả các nhóm mô được nghiên cứu. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy yếu tố phiên mã Pax-8 có thể liên quan đến sự điều hòa biểu hiện D2 ở bệnh nhân Graves.
Thyrotropin (TSH) regulates a number of genes in thyrocytes, leading to iodide uptake, de novo synthesis and release of thyroid hormones, and cell proliferation, accompanied by increased blood flow. At higher doses of iodide, however, the TSH-induced increases in thyroid hormone release and blood flow are downregulated, and high iodide intake occasionally worsens autoimmune thyroiditis. To elucidate the genes involved in such effects, we cultured human thyrocytes and examined genes modulated by TSH and iodide, using a cDNA microarray study, which can analyze 2400 genes in each run. When thyroid follicles were cultured with TSH for 2 days, more than 100 genes were upregulated. These genes included those for enzymes involved in carbohydrate and lipid metabolism, adenylate and guanylate cyclases, and enzyme involved in cell proliferation. When thyroid follicles were cultured with high iodide concentrations (10(-5) M) for 24 hours, more than 100 genes were upregulated. Interesting genes were interleukin-8, IFP53, 90-kd heat shock protein, osteopontin, and intercellular adhesion molecule-1. These results were confirmed by reverse transcription-polymerase chain reaction (RT-PCR) followed by Southern blot hybridization. In summary, TSH upregulated a number of genes regulating thyroid functions. It is intriguing that thyroid follicles cultured with a high iodide concentration (10(-5) M) increased the expression levels of genes capable of modulating lymphocyte functions, even though immunocompetent cells were extensively removed by the present experimental culture conditions. Although we have analyzed only approximately 6%-8% of all human genes, the cDNA microarray study is a powerful tool to elucidate the effects of TSH and iodide on thyroid function.
Thyrotropin (TSH) điều hòa một số gen trong tế bào giáp, dẫn đến sự hấp thu iodide, tổng hợp lại và giải phóng hormone tuyến giáp, tăng sinh tế bào, kèm theo tăng lưu lượng máu. Tuy nhiên, ở liều cao hơn, TSH làm tăng giải phóng hormone tuyến giáp và lưu lượng máu bị giảm, và lượng iodide cao đôi khi làm trầm trọng thêm bệnh viêm tuyến giáp tự miễn dịch. Để làm sáng tỏ các gen liên quan đến tác động này, chúng tôi nuôi cấy tế bào giáp người và kiểm tra các gen điều hòa bởi TSH và iodide, sử dụng một nghiên cứu cDNA microarray có thể phân tích 2400 gen mỗi lần chạy. Khi nuôi cấy tế bào giáp với TSH trong 2 ngày, hơn 100 gen được điều hòa tăng cường. Các gen này bao gồm các gen liên quan đến chuyển hóa carbohydrate và lipid, các cyclase adenylate và guanylate và các enzyme liên quan đến tăng sinh tế bào. Khi nuôi cấy tế bào giáp với nồng độ iodide cao (10 (- 5) M) trong 24 giờ, hơn 100 gen được điều hòa tăng cường. Các gen thú vị là interleukin-8, IFP53, protein sốc nhiệt 90-kd, osteopontin và phân tử liên kết tế bào-1. Các kết quả này được xác nhận bằng phản ứng sao chép ngược chuỗi polymerase (RT-PCR) và lai Southern blot. Tóm lại, TSH điều hòa tăng cường một số gen điều hòa chức năng tuyến giáp. Thật thú vị khi tế bào tuyến giáp nuôi cấy với nồng độ iodide cao (10 (- 5) M) làm tăng mức độ biểu hiện của các gen có khả năng điều hòa chức năng tế bào lympho, mặc dù các tế bào suy giảm miễn dịch đã bị loại bỏ rộng rãi trong điều kiện nuôi cấy thực nghiệm hiện nay. Mặc dù chúng tôi mới chỉ phân tích khoảng 6% - 8% gen ở người, nhưng nghiên cứu cDNA microarray là một công cụ hữu hiệu để làm sáng tỏ tác động của TSH và iodide lên chức năng tuyến giáp.
Previously, we demonstrated stimulation of epidermal proliferation and hair growth in triiodothyronine (T(3)) treated mice. To distinguish skin effects of directly applied T(3) from those of systemic hyperthyroidism, we treated CD-1 mice with either intraperitoneally (IP) or topically administered T(3). Relative to controls, mice receiving T(3) IP had 10% thinner epidermis (p < 0.01) and 48% fewer hairs (p < 0.001). By contrast, mice receiving T(3) topically had 78% thicker epidermis (p < 0.01) and 160% more hairs (p < 0.01). To gain insight into factors responsible for the diverging effects, we contrasted T(3) effect on proliferation of isolated keratinocyte cultures versus keratinocytes cocultured with dermal fibroblasts. For keratinocytes grown in the absence of fibroblasts, T(3) stimulated proliferation in a dose-dependent, biphasic pattern with the peak at 0.5 nM T(3) (84 +/- 30%, p < 0.05). Paradoxically, T(3) inhibited proliferation of keratinocytes cocultured with fibroblasts, the nadir at 0.1 nM T(3) (34% +/- 4%, p < 0.001). These studies are the first describing divergent effects of IP and topically administered thyroid hormone. The data suggest that while T(3) stimulated keratinocyte proliferation, T(3) also stimulated proliferation inhibitory factor(s) from skin fibroblasts. Insight into the interplay among the competing factors will be important in understanding thyroid hormone regulation of skin physiology.
Trước đây, chúng tôi đã chứng minh tác dụng kích thích tăng sinh biểu bì và tăng trưởng lông ở chuột nhắt trắng được điều trị bằng triiodothyronine (T (3 ). Để phân biệt tác dụng của T (3) trên da với tác dụng của cường giáp toàn thân, chúng tôi đã điều trị chuột CD-1 bằng cách tiêm phúc mạc (IP) hoặc tiêm T (3) tại chỗ. So với chuột chứng, chuột được tiêm T (3) IP có biểu bì mỏng hơn 10% ( p < 0,01) và ít lông hơn 48% ( p < 0,001 ). Ngược lại, chuột được tiêm T (3) tại chỗ có biểu bì dày hơn 78% ( p < 0,01) và nhiều lông hơn 160% ( p < 0,01 ). Để hiểu rõ hơn về các yếu tố gây ra tác dụng phân kỳ, chúng tôi đã so sánh tác dụng của T (3) trên tăng sinh tế bào sừng tách biệt với tế bào sừng được nuôi cấy với nguyên bào sợi da. Đối với tế bào sừng phát triển trong trường hợp không có nguyên bào sợi, T (3) kích thích tăng sinh theo kiểu hai pha, phụ thuộc liều lượng với đỉnh đạt 0,5 nM T (3) ( 84 +/- 30% p < 0,05 ). Nghịch lý là T (3) ức chế sự tăng sinh của tế bào sừng được nuôi cấy với nguyên bào sợi, nhân tế bào ở 0,1 nM T (3) ( 34% +/- 4% p < 0,001 ). Đây là nghiên cứu đầu tiên mô tả tác dụng phân kỳ của IP và tiêm hormone tuyến giáp. Các dữ liệu cho thấy T (3) kích thích tăng sinh tế bào keratinocyte, T (3) cũng kích thích yếu tố ức chế tăng sinh từ nguyên bào sợi da. Hiểu được sự tương tác giữa các yếu tố cạnh tranh sẽ rất quan trọng trong việc hiểu được sự điều hòa hormone tuyến giáp trong sinh lý da.
Peptides originally described in other tissues have been located in the anterior pituitary gland. Detection of their encoding mRNAs and specific receptors, together with demonstration of peptide local action led to the postulation of the existence of a paracrine/autocrine regulation of pituitary function. Direct evidence for the role of endogenous peptides has come from studies aiming to block their action through immunoneutralization or pharmacologic blockade. Here we review evidence of pituitary produced peptides as potential candidates as local regulators of thyrotropin secretion. Few studies have approached the subject and most data are not conclusive. Until now, the most consistent data relate to neuromedin B, a bombesin-like peptide. The combined observation of high peptide concentration in rat thyrotrophs, the ability of the exogenous peptide to inhibit thyrotropin (TSH) release in physiologic doses plus the effect of the specific neuromedin B antiserum to increase basal TSH release from isolated pituitaries suggest that neuromedin B acts as a constitutive autocrine TSH-release inhibitor. Neuromedin B is upregulated by thyroid hormones and downregulated by thyrotropin-releasing hormone (TRH) that is consistent with proposed role of local factors, namely to partially mediate or modulate the effects of hormones on pituitary function. However, future studies will certainly confirm other candidates as local regulators of TSH secretion, as well as their relevance at physiologic and pathologic conditions.
Các peptide mô tả ban đầu được tìm thấy ở các mô khác nằm ở tuyến yên trước. Phát hiện các mRNA mã hóa và các thụ thể đặc hiệu của chúng cùng với việc chứng minh tác dụng cục bộ peptide đã dẫn đến việc công nhận sự tồn tại của một điều hòa paracrine/tự tiết của chức năng tuyến yên. Bằng chứng trực tiếp về vai trò của các peptide nội sinh đã đến từ các nghiên cứu nhằm ngăn chặn hoạt động của chúng thông qua trung hòa miễn dịch hoặc phong tỏa dược lý. Ở đây chúng tôi xem xét bằng chứng tuyến yên tạo ra các peptide có khả năng là các chất điều hòa tiết thyrotropin cục bộ. Rất ít nghiên cứu đã tiếp cận được đối tượng và hầu hết các dữ liệu đều không có tính kết luận. Cho đến nay, các dữ liệu nhất quán nhất liên quan đến neuromedin B, một peptide giống như bombesin. Việc quan sát kết hợp nồng độ peptide cao ở tế bào thyrotrophs chuột, khả năng ức chế giải phóng thyrotropin (TSH) ở liều sinh lý cộng với tác dụng của kháng huyết thanh neuromedin B đặc hiệu làm tăng giải phóng TSH cơ bản từ các tuyến yên bị cô lập cho thấy neuromedin B hoạt động như một chất ức chế giải phóng TSH tự tiết cấu thành. Neuromedin B được điều hòa bởi các hormone tuyến giáp và điều hòa giảm bởi hormone giải phóng thyrotropin (TRH) phù hợp với vai trò đề xuất của các yếu tố cục bộ, cụ thể là làm trung gian hoặc điều chỉnh tác động của các hormone lên chức năng tuyến yên. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong tương lai chắc chắn sẽ xác nhận các ứng cử viên khác có thể là các chất điều hòa tiết TSH cục bộ cũng như sự liên quan của chúng với các tình trạng sinh lý và bệnh lý.
Panoramic ultrasound is a technical modification of conventional ultrasound that produces images with a large anatomic field of view. Images obtained with this technique display both lobes of the thyroid gland on a single image, and provide an accurate imaging representation of a variety of thyroid disorders. This report describes the use of panoramic ultrasound and presents examples of panoramic ultrasound of the thyroid.
Siêu âm toàn cảnh là một kỹ thuật sửa đổi của siêu âm thông thường cho hình ảnh với phạm vi quan sát giải phẫu rộng. Hình ảnh thu được bằng kỹ thuật này cho thấy cả hai thùy tuyến giáp trên một hình ảnh duy nhất, và cho hình ảnh mô tả chính xác nhiều rối loạn tuyến giáp. Bài báo này mô tả việc sử dụng siêu âm toàn cảnh và đưa ra một số ví dụ về siêu âm toàn cảnh tuyến giáp.
Knowledge of anatomic variability of the superior (STA), inferior (ITA), and lowest accessory (IMA) thyroid arteries may be helpful in certain clinical conditions. However, details of this variability have not been thoroughly described. Specifically, whether the presence and site of origin of STA, ITA, and IMA are influenced by the anthropological group, to what extent their origin is symmetric or asymmetric, and the role played by this variability in visualizing each thyroid artery by nonselective thyroid angiography is not known. To clarify this we conducted a meta-analytical study on Caucasian and Asian subjects, the latter including only Japanese and Koreans. In Caucasians and Asians the presence of superior vessels compared to inferior vessels was more frequent and the probability of symmetric or asymmetric arterial origin for STA were equivalent. However, better recognition of inferior rather than superior vessels was achieved by nonselective angiography in Caucasians. Finally, different frequencies of presence and site of origin for each artery were identified in Caucasians compared to Asians. Our results suggest that the higher frequency of IMA in Asians than in Caucasians should result in a search for an IMA-dependent feeding artery of inferior parathyroid adenomas, primarily the mediastinal ones, especially in Asians both by imaging and transcatheter ablative approaches. In addition, we have found that a small percentage of Caucasian subjects lack an STA on the left side. Therefore, anatomic arterial compatibility should be carefully evaluated in the preoperative stage of laryngeal transplantation maintaining in situ the donor's thyroid by terminal anastomoses between donor and recipient STAs. Finally, the lack of any individual thyroid artery in either Caucasians or Asians might influence the distribution of autonomic supply that runs with thyroid vessels to the thyroid parenchyma. This appears functionally relevant in cases of traumatic or surgical lesions of the cervical sympathetic chain involving thyroid nerves. In fact, a restricted local autonomic control of thyroid activity might be related to individual rami of thyroid nerves.
Kiến thức về biến đổi giải phẫu của các động mạch tuyến giáp trên (ĐMTƯ ), dưới (ĐMTƯ) và phụ thấp nhất (ĐMTƯ) có thể hữu ích trong một số điều kiện lâm sàng nhất định. Tuy nhiên, các biến đổi này chưa được mô tả đầy đủ. Cụ thể, liệu sự hiện diện và vị trí xuất xứ của ĐMTƯ, ĐMTƯ và IMA có ảnh hưởng bởi nhóm nhân chủng học hay không, nguồn gốc của chúng đối xứng hay bất đối xứng, và vai trò của biến đổi này trong việc hình dung từng động mạch tuyến giáp bằng các hình ảnh không chọn lọc của mạch máu tuyến giáp. Để làm rõ hơn điều này, chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu phân tích tổng hợp trên đối tượng người da trắng và người châu Á, nhóm người này chỉ bao gồm người Nhật Bản và người Hàn Quốc. Ở người da trắng và người châu Á, sự hiện diện của các mạch trên so với các mạch dưới thường xuyên hơn và xác suất của nguồn gốc ĐMTƯ đối xứng hay bất đối xứng là tương đương. Tuy nhiên, ở người da trắng, việc nhận biết tốt hơn các mạch dưới hơn là các mạch trên đã được thực hiện bằng các hình ảnh không chọn lọc của mạch máu. Cuối cùng, tần số xuất hiện và vị trí xuất xứ khác nhau của từng động mạch đã được xác định ở người da trắng so với người châu Á. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng tần suất xuất hiện ĐMTƯ cao hơn ở người da trắng sẽ dẫn đến việc tìm kiếm một nguồn cấp máu phụ thuộc vào ĐMTƯ của u tuyến cận giáp dưới, chủ yếu là u trung thất, đặc biệt là ở người châu Á bằng cả hình ảnh và phương pháp cắt bỏ qua catheter. Ngoài ra, chúng tôi đã phát hiện một tỷ lệ nhỏ đối tượng người da trắng thiếu ĐMTƯ ở phía bên trái. Do đó, cần đánh giá kỹ lưỡng sự tương thích của các ĐMTƯ trong giai đoạn trước phẫu thuật ghép thanh quản để duy trì sự tồn tại của ĐMTƯ ở người da trắng và người châu Á bằng các phương pháp nối ĐMTƯ cuối cùng giữa người cho và người nhận. Cuối cùng, sự thiếu hụt bất kỳ ĐMTƯ riêng lẻ nào ở người da trắng và người châu Á có thể ảnh hưởng đến sự phân bố nguồn cấp máu tự
The growth and differentiation of the central nervous system are closely related to the presence of iodine and thyroid hormones. It has been hypothesized that neurobehavioral disabilities of childhood, such as attention deficit hyperactivity disorder (ADHD), learning disorders, and autism can be attributed to fetal thyroidal endocrine disruption in utero. To determine whether there is an association between neonatal thyroid status and a subsequent diagnosis of a neurobehavioral disability, neonatal thyroxine (T(4)) levels have been used as the indicator of the presence of intrauterine thyroidal dysfunction. Neonatal T(4) levels were obtained from the neonatal hypothyroidism screening program. All cases were diagnosed at medical school diagnostic clinics, the diagnostic categories being ADHD, autism spectrum disorder, behavioral disorder, cognitive disorder, developmental delay, emotional disorder, learning disability, and speech/language disorder. Conditional logistic regression analysis was performed for each clinical condition. Odds ratios for the conditions ranged from 0.92 to 1.13 with p values ranging between 0.19 and 0.84. No significant differences were detected between neonatal T(4) values of the cases and the controls for any of the neurobehavioral conditions. All neonatal T(4) values were within normal ranges. The data provide no evidence to suggest that intrauterine thyroid status as reflected by the neonatal T(4) values had an impact on the neurologic disorders diagnosed in childhood.
Sự tăng trưởng và biệt hóa của hệ thần kinh trung ương có liên quan chặt chẽ với sự hiện diện của iốt và hormone tuyến giáp. Người ta đưa ra giả thuyết rằng các khuyết tật về hành vi thần kinh ở trẻ như rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), rối loạn học tập và tự kỷ có thể là do sự rối loạn nội tiết tuyến giáp của thai nhi trong tử cung. Để xác định mối liên quan giữa tình trạng tuyến giáp sơ sinh và một chẩn đoán sau đó về một khuyết tật hành vi thần kinh, nồng độ thyroxine (T (4) ) sơ sinh được sử dụng như một chỉ số cho sự hiện diện của rối loạn chức năng tuyến giáp trong tử cung. Mức T (4) sơ sinh được xác định từ chương trình sàng lọc suy giáp sơ sinh. Tất cả các trường hợp được chẩn đoán tại phòng chẩn đoán trường y, các loại chẩn đoán là ADHD, rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn hành vi, rối loạn nhận thức, chậm phát triển, rối loạn cảm xúc, rối loạn học tập và rối loạn ngôn ngữ/nói. Phân tích hồi quy logistic có điều kiện được thực hiện đối với từng tình trạng lâm sàng. Tỷ lệ mắc bệnh của các tình trạng từ 0,92 đến 1,13 với p dao động từ 0,19 đến 0,84. Không có sự khác biệt giữa các giá trị T (4) sơ sinh của các trường hợp và các giá trị T (4) đối với bất kỳ tình trạng hành vi thần kinh nào. Tất cả các giá trị T (4) sơ sinh đều nằm trong giới hạn bình thường. Các số liệu không cung cấp bằng chứng cho thấy tình trạng tuyến giáp trong tử cung phản ánh bởi các giá trị T (4) sơ sinh có ảnh hưởng đến các rối loạn thần kinh được chẩn đoán ở trẻ.
To determine if introduction of iodized salt induces thyroid autoimmunity in goitrous children, we conducted a prospective trial in iodine-deficient Moroccan schoolchildren (n = 323). Local salt was iodized at 25 microg iodine per gram of salt and distributed to households. Before introduction of iodized salt and at 10, 20, 40, and 52 weeks, we measured antithyroid peroxidase antibodies (TPO-Ab), antithyroglobulin antibodies (Tg-Ab), urinary iodine (UI), and thyroid hormones, and examined the thyroid using ultrasound. At baseline, median UI was 17 microg/L and the prevalence of goiter and hypothyroidism was 72% and 18%, respectively. Provision of iodized salt maintained median UI at 150-200 microg/L for the year (p < 0.0001). There was a significant increase in mean total thyroxine (T(4)) and a significant reduction in the prevalence of hypothyroidism (p < 0.001). There was a transient increase in the prevalence of detectable antibodies after introduction of iodized salt (p < 0.0001) with levels returning to baseline at 1 year. Only congruent with 1% of children had elevated TPO-Ab and none had elevated Tg-Ab over the course of the study, and no child with elevated TPO-Ab had abnormal thyrotropin (TSH) or T(4) concentrations. None developed clinical or ultrasonographic evidence of thyroid autoimmune disease and/or iodine-induced hypothyroidism or hyperthyroidism. Rapid introduction of iodized salt does not provoke significant thyroid autoimmunity in severely iodine-deficient children followed for 1 year.
Để xác định sự tự miễn dịch của muối iốt ở trẻ Bướu cổ, chúng tôi tiến hành thử nghiệm trên đối tượng trẻ học đường Ma-rốc thiếu iốt (n = 323 ). Tại các thời điểm 10,20,40 và 52 tuần, chúng tôi tiến hành đo kháng thể kháng peroxidase của TPO (Ab ), kháng thể kháng globulin (Tg-Ab ), I-ốt niệu (UI) và các hormone tuyến giáp, sau đó tiến hành siêu âm tuyến giáp. UI trung vị lúc ban đầu là 17 microg/L, tỷ lệ bướu cổ là 72% và 18 %. Việc cung cấp muối iốt duy trì UI trung vị ở mức 150-200 microg/L trong năm (p < 0,0001 ). Tổng thyroxine (T (4) tăng có ý nghĩa thống kê và tỷ lệ suy giáp giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,001 ). Chỉ có 1% trẻ có TPO-Ab tăng và không có trẻ nào có Tg-Ab tăng trong quá trình sử dụng muối iốt. Không có bằng chứng về lâm sàng hoặc siêu âm tuyến giáp ở trẻ bị suy giáp hoặc cường giáp do iốt. Việc sử dụng muối iốt nhanh chóng không gây tự miễn dịch tuyến giáp ở trẻ Bướu cổ nặng và kéo dài 1 năm.
Amiodarone-induced thyrotoxicosis (AIT) is a complex therapeutic challenge. Two major forms have been described: type I and type II. Methimazole (MMI) and potassium perchlorate (KCLO(4)) is the treatment of choice for the former, whereas corticosteroids are used for the latter. However, mixed forms appear frequently and it is not easy to prescribe corticosteroids because of side effects. The present study investigated the validity of a stepwise therapeutic approach to AIT. Twenty patients with AIT were given 30-50 mg/d of MMI and 1000 mg/d of KCLO(4) initially for a month. Euthyroidism or a significant decrease in serum thyroid hormone levels could be achieved in 12 of the patients (7 with type I, 5 type II). Prednisolone, 40-48 mg/d was added for the 8 nonresponding patients (7 type I, 1 type II) and euthyroidism was achieved in all. The prednisolone dose was decreased when free thyroxine (T(4)) levels normalized, and MMI was titrated, maintaining euthyroidism until urinary iodine excretion normalized. Mixed forms of AIT may prevail in iodine-deficient areas. Initial classification of the patients may cause unnecessary corticosteroid use in a substantial number of patients with AIT. A stepwise approach is feasible; however, when the patient is gravely ill, MMI, KCLO(4), and prednisolone could be prescribed simultaneously.
Nhiễm độc giáp do amiodarone (AIT) là một thách thức điều trị phức tạp. Hai dạng chính đã được mô tả: type I và type II. Methimazole (MMI) và kali perclorat (KCLO (4) ) là lựa chọn điều trị cho dạng I và II, trong khi corticosteroids cho dạng II. Tuy nhiên, các dạng hỗn hợp thường xuất hiện và kê đơn corticosteroid không dễ dàng do tác dụng phụ. Nghiên cứu này đã khảo sát tính hiệu quả của phương pháp điều trị từng bước