id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
618
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
11
513k
29710
https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A1%20duy%C3%AAn
Lỡ duyên
Than ôi nàng sắp lấy chồng Sắp mang pháo đỏ rượu hồng tiễn tôi Xe hoa sắp đón nàng rồi Mang nàng về với cuộc đời chồng con Riêng tôi sắp sửa đón buồn Để mang tim héo, để hồn hết mơ Nàng đi còn có bao giờ Ngoảnh trông lại kẻ se tơ lỡ làng? Pháo ơi, đừng nổ rộn ràng Đừng phô sắc thắm, đừng làm ta say Biết đâu chịu khổ thế này Thà rằng đừng sống những ngày yêu đương Bao giờ cho vơi cơn buồn Cho tan thương nhớ, cho hồn thảnh thơi? Bao giờ ráo lệ nàng ơi! Để tìm duyên mới cho tôi hết buồn. Thơ Việt Nam Lục bát
29711
https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%ADa%20%C4%91%C3%B2
Lửa đò
Suốt trời không một điểm sao Suốt trời mực ở nơi nào, loang ra. Lửa đò chong cái giăng hoa Mõ sông dục dục, canh gà te te. Chừ đây bên nớ bên tê Sương thu xuống, gió thu về bồng bênh Đàn ai chùng đứt dây tình Nổi lên một tiếng buồn tênh rồi chìm. Huế 1941 Thơ Việt Nam Lục bát
29712
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C3%A0u%20t%C3%ADm%20Hu%E1%BA%BF
Màu tím Huế
Thôi thế là em cách biệt rồi! Đường đi mỗi bước lại xa xôi Tim tím rừng chiều, tim tím núi Tim tím chiều hôm, tim tím mai Ban chiều tim tím nhớ mong nhau Đêm tối kìa em tím rất nhiều Anh cúi xuống hôn màu tím giấy Thư về em, tím nét thương đau Mai mốt rồi đây lầm cát bụi Anh lại đường xa trải kiếp người Tim tím rừng chiều, tim tím núi Chiều hôm nhiều tím thế em ơi! Thơ Việt Nam
29713
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BA%AFt%20nhung
Mắt nhung
Bao năm đi giữa kinh thành Bao năm lẻ bóng, lẻ hình, lẻ đôi. Cả kinh thành có những ai? Cả kinh thành có một người mắt nhung! Người ơi cứu vớt tôi cùng Dành đôi mắt đẹp cho lòng rất đơn Tôi còn mơ ước gì hơn! Hai tay người chắp phím đờn cho tôi Phải chăng tôi đã yêu rồi? Hồn xin qùi dưới mắt người từ đây Đêm qua buồn quá tôi say Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung! Sài Gòn, 1944 Thơ Việt Nam Lục bát
29714
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%99t%20chi%E1%BA%BFn%20c%C3%B4ng
Một chiến công
Lúa mới đỏ đuôi, đồng chửa gặt Đã nghe náo nức chuyện đông xuân Huyện đưa cán bộ về đôn đốc Đội nọ đoàn kia họp mấy lần Ngọn đèn thảo luận hoa trùm bấc Ý kiến xem chừng vẫn sáng thêm Sao cho một mẫu thu năm tấn Gặt gọn, cày mau, vụ gối liền Thâm canh cải tiến bàn sôi nổi Giống má, phân gio, tính kỹ càng Sản xuất cho hăng là thắng Mỹ Là xây miền Bắc, giúp miền Nam Phần đông trai trẻ ra tiền tuyến Công việc giờ đây gặp khó khăn Các cô các chị càng tranh luận Cầm thấm nhuần thêm nghĩa đảm đang Cuộc họp về sau đều nhất trí Bừng bừng khí thế bỗng dâng cao Tất cả xã viên thành chiến sĩ Quyết xông ra ruộng lập công đầu Tốp bảy tốp ba về các xóm Tiếng cười tiếng nói vẫn râm ran Tưởng đâu tổ đội đi làm sớm Gà khắp chòm thôn vội gáy vang Trong nắng hanh vàng một sớm mai Đồng làng chiến dịch mở đông vui Liềm quơ, sáng loáng như gươm sắc Chở lúa thuyền xe đuôi nối đuôi Trâu mộng sóng đôi vào trận địa Vững vàng như những đội xe tăng Các chị chỉ huy hô khẩu lệnh Lưỡi cày xén đất ngọt băng băng Dưới rặng điền thanh, bên ụ bắn Mấy cô trực chiến súng liền tay Cô Nhanh cô Nhẹn tay cày giỏi Lại cũng là tay xạ kích tài Rồi mạ lên xanh, lúa kín đồng Qua thời con gái, lúa phơi bông Bao công khuya sớm công mưa nắng Góp lại là đây: Một chiến công! Tháng 10-1965 Thơ Việt Nam
29715
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%99t%20tr%E1%BB%9Di%20quan%20t%C3%A1i
Một trời quan tái
Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa, Lá rừng thu đổ, nắng sông tà Chênh vênh quán rượu mờ sương khói Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà. Tôi đi mãi mãi vào sơn cước Em vuốt tua rèm cửa vọng lâu Lá úa kinh thành rơi ngập đất Lòng vàng hỏi vẫn nhớ thương nhau? Có những mâm cau phủ lụa điều Đi vào trong gió lạnh hiu hiu, Những xe hoa cưới, sao mà đẹp! Cửa kính huy hoàng vạt áo thêu. Em có buồn chăng? Tôi vẫn xa Chiều nay say nhắp chén quan hà Bao giờ cau được tươi màu lụa? Được đón em bằng xe kết hoa? Thân em là liễu, dạ em tơ, Mềm yếu bền chăng với đợi chờ? Chua xót lòng tôi mơ ước mãi Áo bào nguyệt bạch, ngựa kim ô! Tôi lạnh đầu sông, giá ngọn nguồn, Nhớ nhà thì ít, nhớ em luôn. Chênh chênh bóng ngả, sầu lau lách Chiều ngái hương rừng, lối nhạt son. Đã mấy năm rồi thương mến nhau Em còn thơ dại biết chi đâu! Đến nay ba bảy mai đương độ Ai đánh em bằng giá ngọc châu? Châu ngọc làm sao hái được nhiều Tôi là thi sĩ của thương yêu, Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng? Với những mâm cau phủ lụa điều? Chiều nay... thương nhớ nhất chiều nay Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy Tôi uống cả em và uống cả Một trời quan tái, mấy cho say! Lạng Sơn, 1940 Thơ Việt Nam
29716
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C3%B9a%20%C4%91%C3%B4ng%20%C4%91an%20%C3%A1o
Mùa đông đan áo
Đã quyết không... không... được một ngày Rồi yêu mất cả buổi chiều nay Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá! Không biết là mưa hay nắng đây? Lâu nay tôi thấy ở lòng tôi Như có tơ vương đến một người Người ấy, nhưng mà tôi chả nói Tôi đành ngậm miệng nữa mà thôi. Tôi quen ngậm miệng với tình xưa Tình đã sang sông đã tới bờ Tình đã trao tôi bao oán hận Và đem đi cả một thuyền mơ. Mơ có năm năm đã vội tàn, Có nàng đan mãi áo len đen. Có nàng áo đỏ đi qua đấy, Hương đượm ba ngày hương chưa tan. Mà hương đượm mãi ở hồn tôi, Tôi biết là tôi yêu mất rồi! Tôi biết từ đây tôi khổ lắm, Chiều nay gió lạnh đấy, nàng ơi! Tất cả mùa đông đan áo len Cho người cho tất cả người quen Còn tôi người lạ, tôi người lạ, Có cũng nên mà không cũng nên. Oán đã bao la, hận đã nhiều Cớ sao tôi vẫn chả thôi yêu? Tôi đi mãi mãi con đường ấy Qua lại hôm nay, sáng lại chiều. Thơ Việt Nam
29717
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C3%B9a%20xu%C3%A2n%20xanh
Mùa xuân xanh
Mùa xuân là cả một mùa xanh Giời ở trên cao, lá ở cành Lúa ở đồng tôi và lúa ở Đồng nàng và lúa ở đồng anh. Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh Tôi đợi người yêu đến tự tình Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy Bắt đầu là cái thắt lưng xanh. Thơ Việt Nam
29718
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C6%B0a
Mưa
Nhá tối, còn hơi rõ mặt người, Rào rào nghe rạng tiếng mưa rơi Bước chân ngang ngõ đi vồi vội Buồn có vào đây ở với tôi? Mưa thế mà to, chảy trước sân, Giọt tranh dài xuống những dòng ngân. Từng con bong bóng lanh chanh nổi Như mộng đời tôi vỡ vỡ dần. Tối mịt không còn trông thấy mưa Chỉ còn nghe thấy tiếng mưa thưa. Trong hơi chăn ấm như hơi nắng Ngủ chẳng về cho, ngủ giả vờ. Mộng tan tành quá, đời tan tác Hết cả thương em, cả nhớ nàng Mưa cứ dằng dai thì đến sáng Vườn cam lại rụng ít hoa cam. Sáng mai không có việc gì làm Có việc ra vườn nhặt cánh cam Rồi thắp hương lên làm Nguyệt Lão Se mùi thơm lại với mùi thơm. Thơ Việt Nam
29719
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C6%B0a%20xu%C3%A2n%20%28II%29
Mưa xuân (II)
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa Cây cam cây quít cành giao nối Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa. Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần Bươm bướm cứ bay không ướt cánh Người đi trẩy hội tóc phơi trần. Đường mát da chân lúa mát mình Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng Nghếch mõm nghe vang trống hội đình. Núi lên gọn nét đá tươi màu Xe lửa về Nam chạy chạy mau Một toán cò bay là mặt ruộng Thành hàng chữ nhất trắng phau phau. Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ Chiều xuân lưu luyến không đành hết Lơ lửng mù sương phảng phất mưa. 1958 Thơ Việt Nam
29720
https://vi.wikisource.org/wiki/Nam%20K%E1%BB%B3%20c%C5%A9ng%20gi%C3%B3%20c%C5%A9ng%20m%C6%B0a
Nam Kỳ cũng gió cũng mưa
Nam Kỳ cũng gió cũng mưa Đêm đêm đắp đổi cũng vừa chăn bông Mình đi trăm núi ngàn sông Ngờ đâu mang cả lạnh lùng sang Nam Những ai đón bạc, đưa vàng: Những ai đan áo ngự hàn ngày xưa Những ai mảnh quạt đề thơ Những ai? Ai đó? Bây giờ những ai? Thà rằng uổng một đời trai Chẳng ban áo gấm cũng mài trăng khuya Cuộc cờ lỡ pháo, lầm xe Quyết tâm phá bí ai dè vẫn thua Đến đây đường khóc cùng đồ Phải đâu Ba Thục hay bờ Ô Giang Đèn chong lụn cả canh tàn Ngoài sông ai đó quá giang gọi đò? Hỡi người đi gió về mưa Có xây dựng nổi cơ đồ gì không? Đã đành nhớ núi thương sông Nằm đây xa cách muôn trùng ải quan. Sài Gòn 1943 Thơ Việt Nam Lục bát
29721
https://vi.wikisource.org/wiki/N%C3%A0ng%20%C4%91i%20l%E1%BA%A5y%20ch%E1%BB%93ng
Nàng đi lấy chồng
Hôm nay ăn hỏi tưng bừng Ngày mai thì cưới, độ chừng ngày kia Nàng cùng chồng mới nàng về Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng Tôi về dạm vợ là xong Vợ người làng, vợ xóm Đông quê mùa Vợ tôi không đợi, không chờ Không nhan sắc lắm, không thơ mộng gì Lấy tôi bởi đã đến thì Lấy tôi không phải bởi vì yêu tôi Hôm nay tôi lấy vợ rồi Từ đây tôi sẽ là người bỏ đi Pháo ơi, mày nổ làm gì? Biến ra tất cả pháo xì cho tao! Thơ Việt Nam Lục bát
29722
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%C4%A9%20l%C3%A0m%20g%C3%AC%20n%E1%BB%AFa
Nghĩ làm gì nữa
Nhớ người nhớ cả vầng trăng Đêm đêm trời cứ xây bằng nước mưa Đầu bù quán trọ làm thơ Chàng Phan thuở trước, bây giờ chàng Phan... Nghĩ làm gì nữa nhân gian Một đêm mái tóc quá quan thay mầu... Thơ Việt Nam Lục bát
29723
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%C3%A0%20ga
Nhà ga
Cất lên theo kiểu nhà sàn Chung quanh quấn quýt đôi giàn ti gôn Tường vàng mái đỏ màu son Nhà ga lại chứa linh hồn nhà ga Loanh quanh vẫn cụ sếp già Thủy chung bốn chuyến tàu qua mỗi ngày Có ông ký trẻ về đây Vợ con chưa có suốt ngày ngâm thơ Cụ sếp có cô gái tơ Xuân xanh đã chín mà chưa lấy chồng Cụ sếp vẫn sống ung dung Để lau kính trắng ngồi trông bốn trời Xin rằng hoa cứ việc rơi Xin rằng tàu cứ ngược xuôi đúng giờ Để cho ông ký ngâm thơ Cụ lau kính trắng, cô mơ chồng hiền Lạy trời năm tháng bình yên Cụ sếp vẫn cứ ở nguyên ga này Tàu qua bốn tuyến mỗi ngày Sân ga vẫn cứ rụng đầy hoa tươi Thục nữ chưa kén được người Ông ký quân tử vẫn ngồi ngâm thơ... (Ga Kép 1940) Thơ Việt Nam Lục bát
29724
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%C3%A0%20t%C3%B4i
Nhà tôi
Nhà tôi có một vườn dâu, Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần. Hoa đỗ ván nở mùa xuân, Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm. Em tôi là gái mười lăm, Quét sân, chạy chợ, chăn tằm sớm trưa. Thầy tôi dạy học chữ nho, Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh. Có gì, tiếng cả nhà thanh, Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay. Còn tôi sống sót là may, Mẹ hiền mất sớm, trời đầy làm thơ. Con tằm được mấy tiền tơ, Chao ơi, mà ước mà mơ lấy nàng. Giàu sang kiếm chốn giàu sang, Vẫn tin tưởng chứ là nàng yêu tôi. Mấy khoa thi chót thầy ơi, Thầy không thi đỗ để rồi làm quan, Để rồi lắm bạc, nhiều vàng, Để cho con lấy được nàng, thầy ơi! Nàng về làm dâu nhà tôi, Vườn dâu có thẹn với đôi tay ngà. Ai thề như mới hôm qua, Lấy nhau không được chẳng thà chết đi. Nhưng thôi nói nữa làm gì, Thế gian chán vạn kẻ thề có sao? Nhà tôi không bán vườn dâu, Tháng hai giàn đỗ bắt đầu ra hoa. Sang năm tôi phải về nhà, Đợi xem vườn đỗ ra hoa có nhầm? 1940 Thơ Việt Nam Lục bát
29725
https://vi.wikisource.org/wiki/Nhi%E1%BB%81u
Nhiều
Thuyền trăng ai chở sang Đoài Đêm khuya mở rộng then cài cửa ra Trăng vào, bóng nữa là ba Với em ở trái tim ta là nhiều Thơ Việt Nam Lục bát
29726
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%9B%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20trong%20n%E1%BA%AFng
Nhớ người trong nắng
Hà Nội có hồ loạn tiếng ve, Nắng dâng làm lụt cả trưa hè, Năm xưa, một buổi đang mưa lụt Tôi tiễn chân người sang biệt ly. Từ buổi về đây, sầu lại sầu Người xa vời quá, ai thương đâu! Tôi đi ngửa mặt trên hè vắng Xem những cành cây nó cưới nhau. Nhớ nhung trắng xoá cả mây trời, Trắng xoá hồn tôi, ai nhớ tôi? Hoa cuối cùng xoan rồi rụng hết Lấy gì phảng phất được màu môi? Có một trai hiền, một gái xinh Ngang qua, chừng giữa chuyện ân tình Trai cười: "Bữa ấy mình toan giữ Mãi dấu môi son giữa má mình..." Cây bỗng thưa dần, bóng dãn ra Quanh tôi chỉ thấy nắng chan hoà, Hồn này lãng đãng trôi trong nắng Cho được trôi về bến Trữ La! Thơ Việt Nam
29727
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%A1%20nh%C3%A0ng
Nhỡ nhàng
Công tôi xe chỉ vót nan Phất diều mướn gió nơi nàng thả chơi Nỡ nào tắt gió nàng ơi! Cho diều tôi xuống, cho tôi nhỡ nhàng. Thơ Việt Nam Lục bát
29728
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%E1%BB%A7a%20ng%C3%A0y%20mai
Những người của ngày mai
Ở chòi hẹp nhưng hồn chìm vũ trụ Trái tim đau vì thương cả loài người Đã nhiều hôm họ không thấy bóng mặt trời Bởi làm việc liên miên và bí mật Này của riêng rút lại có bao nhiêu Chiếc khăn tắm, bộ áo quần trong nóp Hai năm rồi chưa xỏ chân vào guốc Ăn cơm thiu vì ẩm ướt mưa đêm Có những anh xưa bảy nổi ba chìm Thay tên họ xông pha ngoài hải ngoại Nhớ hận nước xăm xăm miền viễn tái Dắt toàn dân làm cách mạng mùa Thu Quê các anh ở miền Trung đá núi Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co Đêm trong xanh cao vút tiếng ai hò Trên bến vắng một dòng sông nổi bạc Quê các anh ở miền Nam bát ngát Trái dừa xiêm nước ngọt buổi trưa nồng Đôi ba cô con gái bán hàng bông Chèo yểu điệu một xuồng đầy vú sữa Theo đường kinh đi sâu vào biển lúa Quê các anh ở miền Bắc xa xôi Bước chân đi không biết mấy năm rồi Xa cha mẹ, anh em, xa tất cả Nương dâu xanh, chiếc cầu ao, mái rạ Cô gái làng gội tóc nước hương nhu Nhưng hình riêng chỉ là những tấm hình lu Họ là đất, họ vui lòng làm đất Để đắp xây nền độc lập lâu dài Họ là ai? Là người của ngày mai. Thơ Việt Nam
29729
https://vi.wikisource.org/wiki/Nu%C3%B4i%20b%C6%B0%E1%BB%9Bm
Nuôi bướm
Tặng Vương Ý Nhi Cả mùa xuân thắm đã trôi đi Giếng ngọc, hương sen muốn dậy thì Sực nhớ lời xưa tôi có hẹn Một bài thơ mới để dâng Nhi. Tôi đến thăm Nhi giữa nắng hồng Với bài thơ mới sắp làm xong Nỡ nào Nhi lại đi xa vắng Bình lạnh hoa tươi, tôi nhớ nhung. Thiếu một vần thôi đủ dở dang Tay ai giăng mắc hộ dây đàn? Đường sang xứ ấy nhiều hoa lắm Nhi bắt cho tôi chiếc bướm vàng. Tay áo giang hồ tôi sẽ nuôi Bướm vàng như thể đứa con côi Nơi nào xa vắng Nhi, tôi hỏi, Nó nói: "Cô Nhi đã bắt tôi". Mấy tiếng đơn sơ ấy đủ rồi, Đủ là thơ mới của lòng tôi, Có ai điên dại như tôi nhỉ? Nuôi bướm làm con để nhớ người! Thơ Việt Nam
29730
https://vi.wikisource.org/wiki/Oan%20nghi%E1%BB%87t
Oan nghiệt
Hôm nay bắt được thư Hà Nội Cho biết tin Dung đã đẻ rồi Giờ Sửu, tháng ngâu, ngày nguyệt tận Bao giờ tôi biết mặt con tôi? Nào xem thử đoán tên con gái Oanh, Yến, Đào, Trâm, Bích, Ngọc, Hồi? Tôi biết vô tình Dung lại muốn Con mình mang lấy nghiệp ăn chơi. Ngọc nữ trót sinh vào tục luỵ Đời con rồi khổ đấy con ơi! Mẹ con đeo đẳng nghề ca xướng Nuôi được con sao, giời hỡi giời! Mẹ con chỉ đợi hồng đôi má Chỉ đợi chiều xuân kia thắm tươi Hôn con một chiếc, hay là khóc Rồi gửi cho người thiên hạ nuôi. Mẹ con nịt vú cho tròn lại Chiều cái hoang đàng lũ khách chơi. Đời cha lưu lạc quê người mãi Kiếp mẹ đêm đêm bán khóc cười. Có mẹ, có cha mà đến nỗi Miệng đời mai mỉa gái mồ côi. Vài ba năm nữa, con khôn lớn Uốn lưỡi làm sao tiếng “mẹ ơi!” Đời em xuống dốc, tôi lên dốc Nào có vui gì, khổ cả đôi. Sương chiều, gió sớm, bao đơn chiếc Bướm lại, ong qua, mấy ngậm ngùi? Sắt son một chuyến trăng còn sáng Tâm sự đôi dòng nước chảy xuôi. Cỏ bồng trở lại kinh kỳ được Hoa đợi hay bay xứ khác rồi. Vô khối ngọc trong the thắm đấy Dung còn chung thuỷ nữa hay thôi? Rồi có một đêm, màn rủ thấp Ngã vào tay một khách làng chơi. Em có nghĩ rằng trong hắt hủi Con mình trằn trọc cánh tay ai? Em có nghĩ rằng trong quán trọ Đầu tôi lại gối cánh tay tôi? Cha mẹ đã không nuôi dạy được Con là phận gái, hạt mưa sa Chân bùn, tay lấm hay hài hán Hay lại Bình Khang, lại nguyệt hoa Cành đưa, lá đón theo đòi mẹ Phách ngọt, đàn hay tục xướng ca Cha lo ngại lắm là con gái Chẳng có bao giờ biết mặt cha Con mười sáu, bảy xuân đương độ Cha bốn, năm mươi chửa trót già. Cha buồn tiễn khách hơi thu quạnh Con thẹn che đàn nửa mặt hoa. Chàng chàng, thiếp thiếp, vui bằng được Bố bố, con con, chẳng nhận ra Một lứa lên giời chung lận đận Thương nhau, cha soạn khúc “Tỳ bà” Áo xanh mà ướt vì đêm ấy Tội nghiệp đời con, xấu hổ cha. “Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ Con thuyền buộc một mối tình nhà...” Giờ đây cha khóc mà thương nhớ Gửi vọng về con một chiếc hôn. Tiền, cha không đủ hoàn lương mẹ Còn lấy đâu mà nuôi nấng con? Thôi cha cầu chúc cho con gái Mắt chớ lưu cầu, môi chớ son Càng tài sắc lắm càng oan nghiệt “Bảy nổi ba chìm với nước non” Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ Nghèo lắm, con ơi! Bạc lắm con! Ở đây, cha khóc mà thương nhớ Đất Huế dầm mưa mấy tháng tròn... Huế 1941 Thơ Việt Nam
29731
https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%C3%AA%20t%C3%B4i
Quê tôi
Quê tôi có gió bốn mùa Có giăng giữa tháng, có chùa quanh năm. Chuông hôm, gió sớm, giăng rằm: Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi. Tôi về đây, đã lâu rồi, Nằm trong cô tịch nhớ người phồn hoa Tóc tơ, mình liễu da ngà, Một người càng nhớ, càng xa một người Ngày trông mây trắng bay hoài, Đêm mơ áo trắng bay dài năm canh Lòng vàng lạc cánh chim xanh, Lạc từ cái ý chung tình lạc đi. Chẳng điên chẳng dại là gì. Bổng dưng mà biệt mà ly mọi người. Chưa xa đã nhớ nhau rồi. Nữa là hơn một tháng giời xa nhau. Người đi nghỉ mát những đâu, Đồ Sơn, Tam Đảo, nhà lầu xe hơi: Ở đây, tôi chỉ đợi giời, Mưa vàng một trận là tôi lên đường. Sông ngang, núi trái bất thường, Buồng the chẳng xót dậm trường thì thôi. Mai ngày tôi bỏ quê tôi, Bỏ giăng, bỏ gió, chao ôi! bỏ chùa. Đem thân đi với giang hồ, Sân ga phẳng lặng, bến đò lênh đênh. Quê hương chẳng nhớ cũng đành, Cũng xin dâng cả chân tình cho ai. Năm năm mây trắng bay hoài, Hồn tôi áo trắng tang dài đêm đêm. Thơ Việt Nam Lục bát
29732
https://vi.wikisource.org/wiki/R%E1%BA%AFc%20b%C6%B0%E1%BB%9Bm%20l%C3%AAn%20hoa
Rắc bướm lên hoa
Ai đem rắc bướm lên hoa Rắc bèo xuống giếng, rắc ta vào nàng? Ai đem nhuộm lá cho vàng? Nhuộm đời cho bạc, cho nàng phụ ta? Thơ Việt Nam Lục bát
29733
https://vi.wikisource.org/wiki/R%C3%A9t
Rét
Buốt tê đầu lưỡi, giá tê tay Rét cóng môi non, lạnh nhíu mày Buồn đến lòng tôi rồi hạ trại Đốt đường sạn đạo ở luôn đây Chim hiền ướt cánh vắng thư sang Gà xóm cầm canh gáy trễ tràng Trời đất cứ như quân chiến bại Cây vườn rách rưới, gió lang thang Cố nhân xa lạnh mấy đường sông Con gái quanh quanh lấy sạch chồng Pháo cưới chẳng hôm nào chẳng nổ Tình xa lăng lắc dưới chăn bông... Hôm qua mưa phùn nay mưa phùn Giam hãm mình trong xóm tí hon Để nhớ những hôm vàng những nắng Đưa nàng trở lại Trữ La thôn Mưa phùn đầy cữ chửa cho thôi Gió bấc đêm nay buốt suốt trời Giường mộng con thoi còn chạy lẻ Hay là nàng đã dệt thoi đôi Đám cưới nào như đám cưới nàng Xa hoa đi ở tứ vi màn Đêm sao tối tựa trong phòng cưới Tiếng muỗi ran như tiếng pháo ran Vẫn bảo: ừ thôi quên nàng đi Quên nàng quên hết chuyện xưa kia Nhưng mùa đông ấy thê lương quá Tôi cưới mùa đông để làm gì?! 1940 Thơ Việt Nam
29734
https://vi.wikisource.org/wiki/Sao%20ch%E1%BA%B3ng%20v%E1%BB%81%20%C4%91%C3%A2y%3F
Sao chẳng về đây?
Lối đỏ như son tới xóm Dừa, Ngang cầu đã điểm hạt mưa thưa, (Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá) Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa? Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên, Đêm đêm quán trọ thức thi đèn. Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng. Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị Tôi đã về đây rất vội vàng. Ở đây vô số những trời xanh Và một con sông chảy rất lành, Và những tâm hồn nghe rất đẹp Từng chung sống dưới mái nhà tranh. Sao chẳng về đây múc nước sông Tưới cho những luống có hoa hồng? Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở Phô nhuỵ vàng hây với cánh nhung. Sao chẳng về đây bắt bướm vàng Nhốt vào tay áo, đợi xuân sang, Thả ra cho bướm xem hoa nở Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương? Sao chẳng về đây có bạn hiền, Có hương, có sắc, có thiên nhiên Sống vào giản dị, ra tươi sáng Tìm thấy cho lòng một cảnh tiên? Sao chẳng về đây lục tứ thơ Hỡi ơi, hồn biển rộng không bờ Chùm hoa sự nghiệp thơm muôn thuở Thiên hạ bao nhiêu kẻ đợi chờ? Sao chẳng về đây, nỡ lạc loài Giữa nơi thành thị gió mưa phai Chết dần từng nấc, rồi mai mốt Chết cả mùa xuân, chết cả đời? Xuân đã sang rồi em có hay Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy Kinh kỳ bụi quá, xuân không đến Sao chẳng về đây? Chẳng ở đây? Xóm Dừa, cuối 1944 Thơ Việt Nam
29735
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20Ki%C3%AAn%20Giang
Tặng Kiên Giang
Có những dòng sông chảy rất mau Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu Lá vàng hoa đỏ trôi không kịp Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau? Thơ Việt Nam
29736
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20me%20t%C3%B4i
Tết của me tôi
Tết đến me tôi vất vả nhiều, Me tôi lo liệu đủ trăm chiều. Sân gạch tường hoa, người quét lại Vẽ cung trừ quỷ, trồng cây nêu. Nuôi hai con lợn tự ngày xưa Me tôi đã tính "Tết thì vừa". Trữ gạo nếp thơm, mo gói bó Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ. Này là hăm tám tết rồi đây (Tháng thiếu cho nên hụt một ngày), Sắm sửa đồ lễ về việc tết, Me tôi đi buổi chợ hôm nay. Không như mọi bận, người mua quà Chỉ mua pháo chuột và tranh gà, Cho các em tôi, đứa mỗi chiếc Dán lên khắp cột, đốt inh nhà. Giết lợn, đồ sôi, lại giết gà Cỗ bàn xong cả từ hôm qua Suốt đêm giao thừa, mẹ tôi thức Lẩm nhẩm câu kinh Đức Chúa Ba. Me tôi gọi cả các em tôi Đến bên mà dặn: "Sáng ngày mai Các con phải dậy sao cho sớm Đầu năm, năm mới phải lanh trai. Mặc quần, mặc áo, lên trên nhà Thắp hương, thắp nến lễ ông bà Chớ có cãi nhau, chớ có quấy Đánh đổ, đánh vỡ như người ta..." Sáng mồng một, sớm tinh sương Me tôi cấm chúng tôi ra đường Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương. Thầy tôi lấy một tờ hoa tiên Bút lông dầm mực, viết lên trên, Trên những gì gì, tôi chẳng biết Giữa đề năm tháng, dưới đề tên. Me tôi thắt lại chiếc khăn sồi, Rón rén lên bàn thờ ông tôi Đôi mắt người trông thành kính quá Ngước xem hương cháy đến đâu rồi. Me tôi uống hết một cốc rượu Mặt người đỏ tía vì hơi men, Người rủ cô tôi đánh tam cúc Cười ầm tốt đỏ đè tốt đen. Tôi mặc một chiếc quần mới may Áo lương, khăn lượt, chân đi giày, Chô tôi sang lễ bên quê ngoại Người dặn con đừng uống rượu say. Xong ba ngày tết me tôi lại Đầu tắt, mặt tối, nuôi chồng con, Rồi một đôi khi người giã gạo, Chuyện trò kể lại tuổi chân son. Thơ Việt Nam
29737
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C3%A1ng%20ba
Tháng ba
I Mùa vải năm nay chừng đến muộn Chưa nghe tu hú giục xuân đi. Nóng lòng cây gạo lìa hoa đỏ Trổ búp tơ xanh đón gió hè. II Xếp lại chăn bông cùng áo dạ Mở toang bốn cửa cất then cài Nắng lên mất thú ngồi bên lửa Mùa hết hoa rồi, bạn với ai? Nam Định 3-1960 Thơ Việt Nam
29738
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20g%E1%BB%ADi%20Tr%E1%BA%A7n%20Huy%E1%BB%81n%20Tr%C3%A2n
Thơ gửi Trần Huyền Trân
Nhớ xưa hồi còn trẻ Thâm Tâm, Trân với mình không đào Viên kết nghĩa nhưng cũng thành tam anh Tiếng tăm thật là nổi nhưng cũng thật là nghèo gác Sơn nằm nhịn đói cùng đọc thư người yêu Hễ có tiền trong túi đời lại làm ông hoàng đập vỡ quán Lã Vọng đốt cháy lầu Mộng Hoàn Những lúc trốn hè phố trở về đầm Liên Hoa gió buốt chân Kỳ, Ký mưa run lều mẹ già Rồi mùa thu khởi nghĩa rồi Cách mạng vùng lên rồi chín năm kháng chiến rồi một trận Điện Biên... Rồi hoà bình lập lại tóc chúng mình còn xanh tưởng đời ta sẽ được đẹp như người trong tranh. Tất cả là ánh sáng Tất cả là hoa hồng cuộc đời cứ tiếp diễn không có màn cuối cùng. Những cái oan Thị Kính những cái dại Xuý Vân chỉ còn trên sân khấu mỗi khi chèo mở màn. Ta vẫn là nghệ sĩ ta vẫn là nhà thơ nghệ thuật vẫn chung thuỷ không chết yểu bao giờ. Sớm nay buổi đầu xuân gặp nhau bờ sông Vị đời chúng mình đẹp nhỉ tiếc không còn Thâm Tâm. (1963) Thơ Việt Nam
29739
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%C3%B4i
Thơ tôi
Buổi chiều uống rượu làm thơ Buổi trưa đi đốt lá khô trên đồi Lá khô là lá của trời Thơ tôi là để riêng tôi tặng nàng Lá khô sòng sọc màu vàng Thơ tôi bát ngát chỉ toàn màu xanh Thơ tôi gửi lại kinh thành Ở đây tôi đốt một mình lá khô. Thơ Việt Nam Lục bát
29740
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20xu%C3%A2n
Thơ xuân
Đây cả mùa xuân đã đến rồi Từng nhà mở cửa đón vui tươi. Từng cô em bé so màu áo Đôi má hồng lên, nhí nhảnh cười. Và tựa hoa tươi, cánh nở dần, Từng hàng thục nữ dậy thì xuân Đường hương thao thức lòng quân tử Vó ngựa quen rồi ngõ ái ân. Từng gã thư sinh biếng chải đầu Một mình mơ ước chuyện mai sau, Lên kinh thi đỗ làm quan trạng, Công chúa cài trâm thả tú cầu Có những ông già tóc bạc phơ Rượu đào đôi chén, bút đề thơ Những bà tóc bạc, hiền như Phật Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa. Pháo nổ đâu đây, khói ngợp trời Nhà nhà đoàn tụ dưới hoa tươi, Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy Một áng thơ đề nét chẳng phai. Thơ Việt Nam
29741
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20l%C3%A1%20v%C3%A0ng
Thư lá vàng
Ngồi trên bến gió chờ nàng Lá đưa thuyền lá vàng sang bến nào? Bờ sông thấp, nước sông cao Lá thuyền này đã trôi vào bến anh Vớt lên, thả xuống sao đành Anh gửi cho mình giữ lấy mình ơi! Nàng đẩy một chiếc lá rơi Không, không, không phải, giấy trời thư anh. Thơ Việt Nam Lục bát
29742
https://vi.wikisource.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20tr%E1%BB%91ng%20%C4%91%C3%AAm%20xu%C3%A2n
Tiếng trống đêm xuân
Chiều xuân, mưa bụi nghiêng nghiêng Mưa không ướt áo người xem hội làng. Khen ai nhuộm nhiễu Tam Giang Đánh dây xà tích cho nàng chơi xuân. Khen ai tròn áo tứ thân Mịn quần lĩnh tía, chùng khăn lụa sồi. Khen ai tóc thẳng đường ngôi, Ấm hơi trầu quế, thơm mùi hương nhu. Khen ai áo kép, quần hồ Hội làng mê mải sớm trưa đi về. Khen ai e ấp tình quê Bút hoa chưa thảo, gương thề còn nguyên. Những ai Từ Thức gặp tiên Những ai cô Tấm ấm duyên phượng hài. Hội làng nô nức gái trai Mong đêm quên sáng cho ngày dài xuân. Đường thôn, hoa bưởi trắng ngần Hoa xoan tím nhạt vân vân rụng đều. Làng quê dìu dịu sương chiều Tưởng đâu khói pháo hạ nêu hôm nào. Cỏ non sườn núi phơi màu Lúa đồng con gái rì rào lá tơ. Hội xuân gió loạn đuôi cờ Làng xa, đêm vắng, nhặt thưa trống chèo. Hội làng đèn đuốc như sao, Đêm chèo, tiếng trống giáo đầu nổi lên. Mặt hoa, quạt bướm che nghiêng Bước ra cô nữ làm duyên đưa tình. Cùng trong chiếc chiếu giữa đình Mà bao nhiêu cảnh, nhiêu tình bầy ra. Đương ngục thất hóa vườn hoa, Buồng the, trướng gấm hóa ra chiến trường. Lầu Ngưng Bích, điện Trang Vương Gốc đa rậm rạp, con đường cheo leo. Mười lăm năm của cô Kiều Xảy ra trong một buổi chiều mà thôi. Một đêm là cả cuộc đời, Ba tên áo nẹp là mười đạo binh. Quạt che là bức tường thành Một đi: muôn dặm trường đình tiễn nhau. Đưa ngang vạt áo: rơi châu, Giơ roi: lên ngựa, cúi đầu: chiêm bao. Thiếu chi thục nữ, anh hào Truyện hay, tích lạ tóm vào một chương. Người xem khi giận khi thương, Khi yêu, khi ghét, khi mừng, khi vui. Suy va muôn việc ở đời Rõ ràng như tấm gương soi, bóng lồng. Giận thằng bán rượu Lý Thông Tham mồi phú quý, cướp công bạn hiền. Giận vua Trang dạ đảo điên Giết người nho sĩ, ép duyên má đào. Ghét phường Lư Kỷ quyền cao Chẳng chăm việc nước, chỉ mưu hại người. Ghét con mụ Tú già đời Buôn người trinh tiết, kiếm lời mà ăn. Khinh đồ mặt nhọ Sở Khanh, Mảnh tiên Tích Việt chối quanh được nào Khinh tên bố vợ họ Hầu Hối hôn con gái, ra màu bạc đen. Thương nàng Thị Kính oan khiên Đã nương cửa Phật chưa yên tội đời. Thương Kiều tài sắc vẹn đôi, Chuộc cha, mười mấy năm trời gian truân. Hỷ Đồng khen ở có nhân, Giữa đường đổi áo, liều thân cứu thầy. Châu Long khen giữ lòng ngay, Xa chồng mà chẳng đơn sai cùng chồng. Mừng người thờ mẹ có công, Chàng đi sứ sự mười đông lại về. Mừng người lặn lội sơn khê, Thần thương, hổ cứu, vẹn bề thất gia. Vui sao xum họp một nhà, Điềm lành mai lại nở hoa hai lần. Vui sao một tiếng đàn thần, Giặc mười tám nước lui quân chịu hàng. Hội đông, đông chật đình làng, Đêm càng khuya khoắt, tình càng thiết tha. Thơ Việt Nam Lục bát
29743
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%89nh%20gi%E1%BA%A5c%20chi%C3%AAm%20bao
Tỉnh giấc chiêm bao
Chín năm đốt đuốc soi rừng Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân. Cửa xưa, mành trúc còn ngăn Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào. Làng xa, bản nhơ, đèo cao Gió bay tà áo, chiêm bao nửa chừng. Anh về luyến núi, thương rừng Nhớ em đêm sáng một vùng Thủ Đô. Bồi hồi chuyện cũ năm xưa Gặp nhau lần cuối... trang thư lệ nhoà. Thư rằng: thôi nhé đôi ta Tình sao không phụ mà ra phụ tình. Duyên nhau đã dựng Trường đình Mẹ em đã xé tan tành gối thêu... Trăng khuya sáng núi, gương đèo Anh đi, thư vẫn nằm đeo bên mình. Lửa sàn, nét chữ chênh vênh Nếp thư đến rách chưa lành vết thương Đằm đằm hoa sữa lên hương Chân anh đang bước giữa đường cái đây. Nẻo hồ, song cửa, lá bay Sáng chung bóng dáng, bao ngày yêu xưa. Trăm năm đã lỡ hẹn hò Cây đa bến cũ, con đò còn không? Tình cờ gặp giữa phố đông Em đi ríu rít, tay chồng, tay con. Nét cười âu yếm môi son Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai... Chín năm bão tối, mưa ngày Nước non để có hôm nay sáng trời. Em đi hạnh phúc hồng tươi Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao? Sắc hương muôn nẻo tuôn trào Tiếc mà chi, giấc chiêm bao một mình. Anh về viết lại thơ anh Để cho bến mát, cây xanh đôi bờ, Cho sông, cho nước, từ giờ Chẳng còn lỡ chuyến con đò sang ngang. Lứa đôi, những bức thư vàng Chẳng còn chữ chữ, hàng hàng, lệ rơi. Chim hồng, chim nhạn, em ơi! Trên nền gối cưới, đời đời yêu nhau. Thơ Việt Nam Lục bát
29744
https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%B4i%20c%C3%B2n%20nh%E1%BB%9B%20l%E1%BA%AFm
Tôi còn nhớ lắm
Tôi còn gì nữa là tôi! Thuyền quyên nàng vẫn là người thuyền quyên. Mùa xuân ấy nàng se duyên Có đình đổi kiệu, có đèn giăng hoa. Tóc tôi để bạc cho già Đời tôi để rụng cho là đời tôi. Còn nên nói nữa hay thôi Gặp nhau một chuyến đò rồi quên nhau. Tưởng rằng bền, ngỡ rằng lâu Lửa giầu sang đốt cháy cầu tơ duyên. Mong chi chắp lại cho liền? Chín mươi oan khổ đầy lên xứ lòng. Lều tranh tất cả than hồng Một trang gió lạnh, mấy dòng thơ mưa Hỏi rằng tôi đã quên chưa Tôi còn nhớ lắm và thưa: rất buồn! Thơ Việt Nam Lục bát
29745
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C3%A1ch%20m%C3%ACnh
Trách mình
Còn bao nhiêu việc chửa làm đây Quanh quẩn vào ra hết tối ngày Vừa tính chuyện cơm, toan chuyện nước Lại buồn khi đậu tiếc khi bay Có đâu thơ thẩn hoài như vậy Không lẽ loay hoay mãi thế này Mỗi sáng mỗi thêm tờ lịch rụng Giật mình nghĩ lại trách mình thay. Nam Định - Xuân 1960 Thơ Việt Nam
29746
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BA%A3i%20bao%20nhi%C3%AAu%20n%C3%BAi%20s%C3%B4ng%20r%E1%BB%93i
Trải bao nhiêu núi sông rồi
Tặng Hoàng Tấn Trải bao nhiêu núi sông rồi Đến đây lại vẫn hai người chúng ta! Con đò thì nhớ sông xa Con người bởi nhớ quê nhà bao nhiêu! Cùng thơ và lại cùng nghèo Thương nhau được mãi nên chiều được nhau. Rối lên ôi những mái đầu! Sáng lên vô hạn ôi màu mắt xanh! Ở đây cát bụi kinh thành Giàu sang một bước, công danh một giờ. Anh em mình một dòng thơ Lấy chi nói được lên bờ vinh quang? Giữ cho trọn tấm lòng vàng Võng đào tán tía nghênh ngang mặc đời Sử thi trang sách chói ngời Rằng: Lan chi có hai người tình thơ. Lan Chi Viên Sài Gòn 7-1943 Thơ Việt Nam Lục bát
29748
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BB%9F%20l%E1%BA%A1i%20H%C3%A0%20%C4%90%C3%B4ng
Trở lại Hà Đông
Ba năm... trở lại đất Hà Đông Người cũ: Cô Oanh, má vẫn hồng Tóc vẫn bỏ lơi, răng vẫn trắng Vẫn ngồi bên cửa liếc qua song 1942 Thơ Việt Nam
29749
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BB%9F%20v%E1%BB%81%20qu%C3%AA%20c%C5%A9
Trở về quê cũ
Đi đã mười năm mới trở về Tâm tình tràn ngập bước đường quê Nghe sao nao nức như hồi trẻ Níu áo theo cha buổi hội hè! Dãy núi Trang Nghiêm đứng chống trời Mười năm núi vẫn đợi chờ tôi Sườn cao rêu phủ xanh đồn giặc Tôi đã về đây: núi mỉm cười! Ruộng vỡ đường cày, ngõ trải rơm Phải đây Văn Miếu lối vào thôn? Đi lâu quên cả màu hoa đại Quên cả mùi hương gạo tám thơm! Ngõ xuống bờ ao chơi ú tim Nhà em hàng xóm biết đâu tìm? Biết đâu vườn táo cành sai quả Giếng đá trăng vàng đâu bóng em? Một cơn khói lửa mấy tơi bời Cảnh cũ làng xưa khác cả rồi Ngước mắt trông lên trời cũng lạ Nhà ai đây chứ phải nhà tôi! Hỏi tên nhận mặt nhớ ra rồi Mừng tủi bâng khuâng khóc lẫn cười Trẻ xóm mười năm giờ lớn bổng Mười năm mất mát biết bao người... Mẹ cha khuất núi mấy thu tròn Vườn táo cô mình đã bốn con Nhớ thuở hội xuân chèo dóng trống Xin mình giấy đỏ đánh môi son Nháo nhác đầu hồi chim sẻ kêu Mưa thưa trắng lạnh nửa ao bèo Sửa sai câu chuyện với trầu mặn... Giọng kể cô tôi nặng bóng chiều! . . . . . . . . . . . . . . . . . . Đất nước qua bao trận mất còn Vàng son vẫn vẹn giá vàng son Cô mừng trẻ lại năm mười tuổi, Chẳng uổng công mình, xương máu con. Xuân này vui tết lại vui quê Lại chuyện làm ăn, chuyện hội hè, Xanh biếc đầu xuân nương mạ sớm Dậu tầm xuân nở, bướm vàng hoe. Vào đám làng tôi mở trống chèo Bay cờ, lộng gió, đỏ đuôi nheo Lớp màn Thị Kính nuôi con mọn Tôi biết người xem lệ chảy nhiều... Hôm ấy tôi đi nắng ửng vàng Bời bời ngõ cũ tím hoa xoan: Xóm giềng tiễn biệt, cô đưa cháu Đến mãi đầu thôn cạnh giếng làng. Dãy núi Trang Nghiêm nhích lại gần Trời cao vời vợi một màu xuân Ta đi, chào núi, ta đi nhé! Phơi phới tình quê buổi xuất quân... Hà Nội 1957 Thơ Việt Nam
29750
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BB%9Di%20tr%E1%BB%9F%20gi%C3%B3
Trời trở gió
Lá tre rơi xuống đều đều Cổng làng buông xuống, mưa chiều đổ nhanh Sân mòn lớp lớp rêu xanh Le te đàn vịt chạy quanh cửa chuồng Mấy chiều vắng bặt hơi chuông Sư bà khuyên giáo thập phương chửa về Một mình nói, một mình nghe Ông đồ gấp lịch: “Ngày kia tiểu hàn” Cô Thơ gái đẹp nhất làng Nghe trời trở gió may quàng áo bông Lạnh rồi sắp sửa mùa đông Người ta sắp sửa lấy chồng hay chưa? Vội vàng chi mấy cô Thơ Áo bông tuy ấm nhưng chưa bằng chồng Tôi cầu trời mất mùa đông Cố nhân xa lắm, áo bông rách rồi. Thơ Việt Nam Lục bát
29751
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C6%B0a%20h%C3%A8%20%28II%29
Trưa hè (II)
Bên thềm chiếc võng nhẹ đưa Mẹ ru bé ngủ giữa trưa mùa hè Dịu dàng bé khép làn mi Hồ tây gió thoảng bay về hương sen. Thơm thơm giấc ngủ êm đềm Chúm đôi môi đỏ, bé tìm sữa tươi. Mẹ buông dây võng ra rồi, Ngây thơ bé vẫn nhoẻn cười trong mơ. Mẹ đi gấp lụa may cờ, Gửi lên "Vườn trẻ", kịp giờ liên hoan. Tôi từ xa cách Miền Nam Quê nhà lửa xém vườn cam bao lần. Cây rừng mây núi khôn ngăn, Trông về, con mắt đăm đam từng giờ Vợ tôi dăng võng gốc dừa, Đặt con tôi ngủ giữa trưa mùa hè. Dịu dàng con khép làn mi Tháp Mười gió thoảng bay về hương sen. Thơm thơm giấc ngủ êm đềm Chúm đôi môi đỏ con tìm sữa tươi. Trong mơ con bú chưa rồi, Lưỡi còn đưa đẩy, đôi môi còn thè... Giật mình, con bỗng thét lên Hai tay chới với, quơ tìm mẹ đâu! Quân thù bắt lính dồn xâu Đạn thù nghiến đứt mấy tao võng rồi! Lao trong lửa đạn bời bời, Vợ tôi ôm chặt con tôi vào lòng. Thương con lại nhớ lời chồng, Lấy thân làm bức thành đồng con. Hà Nội, 1956 Thơ Việt Nam Lục bát
29752
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20huy%E1%BB%87n
Trường huyện
Học trò trường huyện ngày năm ấy Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ Những buổi học về không có nón Đội đầu chung một lá sen tơ. Lá sen vương vấn hương sen ngát Ấp ủ hai ta chút nhuỵ hờ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc Theo về tận cửa mới tan mơ. Em đi phố huyện tiêu điều lắm Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi Mà đến hôm nay anh mới biết Tình ta như chuyện bướm xưa thôi. 1938 Thơ Việt Nam
29753
https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%BAi%20ba%20gang
Túi ba gang
(Viết theo chuyện cổ dân gian) Nhân nắng xuân đầm ấm Vườn xuân rộn tiếng chim Chị kể cho các em Nghe một câu chuyện cổ Các em tìm trong đó Những ý nghĩa sâu xa Có bổ ích cho ta Tuổi măng non tươi sáng Nào! Các em im lặng Ngồi sát lại cho vui! Ngày xưa có hai người Anh Kỷ, em là Ất Xảy khi cha mẹ mất Vội chẳng kịp trối trăng Chỉ dặn hai con rằng Cơ nghiệp cùng chung hưởng Kỷ cậy mình là trưởng Lại vốn tính tham lam Chẳng thương xót gì em Cả gia tài chiếm hết Nào tường hoa cây mít Nào ao cá, nhà lim. Chỉ chia cho người em Một mảnh vườn nhỏ bé Trơ trọi một cây khế Xa tít tận cuối làng Ất chẳng tính thiệt hơn Cứ vui lòng nhận lấy Hai vợ chồng trồng cấy Mùa rau tiếp mùa khoai Khi khế chín vàng cây Vợ chồng đem chợ bán Hôm ấy vừa tảng sáng Có một con Phượng Hoàng Từ đâu bay vào vườn Đậu cành, ăn mãi khế. Ất ra vườn thấy thế Cất tiếng bảo chim rằng: “- Nhà ta vốn nghèo nàn Chỉ trông vào cây khế Chim ơi! Mày ăn thế Là khốn vợ chồng ta!” Chim Phượng chừng nghe ra Cất tiếng kêu vội vã: “- Ăn một quả trả nén vàng may túi ba gang đem đi mà đựng!” Thế rồi cứ sáng sáng Chim Phượng lại bay về Ăn khế ngọt chán chê Lại kêu lên giục giã: “- Ăn một quả trả nén vàng may túi ba gang đem đi mà đựng!” Vợ chồng Ất bàn định Thử đi một chuyến xem Vợ liền lấy chỉ, kim Khâu cho chồng túi vải Y theo lời chim nói Đo túi đúng ba gang. Sáng sau, chim Phượng Hoàng Từ phương xa bay lại Ất liền mang túi vải Cưỡi lưng Phượng mà đi Qua sông biển ầm ì Phượng liền sà cánh đỗ Xuống một hòn đảo nhỏ Vô số là bạc vàng Ất chẳng có lòng tham Chỉ lượm vừa túi nhỏ Khi mặt trời đứng ngọ Đã giục chim bay về Nhờ được số vàng kia Hai vợ chồng sung sướng Mua trâu rồi tậu ruộng Giúp đỡ những người nghèo Cuộc sống thật phong lưu Hơn người anh gấp bội. Kỷ biết tin tức tối Liền hộc tốc sang chơi Ất kể rõ đầu đuôi Kỷ máu tham bỗng nổi Liền gạ em đánh đổi Lấy cơ nghiệp của mình. Vợ chồng ất hiền lành Nên chẳng hề suy tị Đổi ngay nhà cho Kỷ Không đòi hỏi gì thêm Kỷ dọn sang nhà em Ngày lại ngày ngóng đợi Quả nhiên chim lại tới Ăn khế chín trên cây Kỷ chạy ra nói ngay Chim cũng liền đáp lại: “- Ăn một quả trả nén vàng may túi ba gang đem đi mà đựng!” Kỷ lòng mừng hí hửng May luôn túi sáu gang Cốt đựng cho nhiều vàng Thoả lòng tham không đáy Sáng sau chim bay tới Kỷ vội cưỡi mà đi Qua sóng biển ầm ì Hạ xuống hòn đảo quý Kỷ tha hồ tự ý Nhét vàng đầy túi to Lòng tham vẫn chưa vừa Thấy vàng là cứ nhặt Túi áo nhồi đã chặt Lại giắt kín lưng quần Chim giục giã mấy lần Kỷ vẫn còn tiếc rẻ Kỷ mang nhiều vàng quá! Chim bay qua biển khơi Mỏi rã cánh, hụt hơi Liền hất tung Kỷ xuống Lòng biển sâu muôn trượng Mặt biển rộng mù khơi Đã dìm Kỷ chết tươi Với lòng tham không đáy Câu chuyện cổ như vậy Các em hẳn nhận ra: - Tham lam là xấu xa - Thực thà là đáng quý Các em đừng quên nhé Câu chuyện Túi Ba Gang. Nhân Nghĩa - Lý Nhân Cuối 1965 Thơ Việt Nam
29754
https://vi.wikisource.org/wiki/Tuy%E1%BB%87t%20t%C3%A1c
Tuyệt tác
Cánh chim rời phương Nam Xây tổ cành phía Bắc Sông núi còn đôi miền Nhân duyên đà thống nhất!... Đây đó dù muôn dặm Trong ngoài đều một lòng Son sắt ngày thêm thắm Mừng riêng mà vui chung Gái đầu lòng xin đặt Tên cháu là Hiền Lương Trai đầu lòng xin đặt Tên cháu là Trường Sơn! ... Kề vai nhau đấu tranh Cho đến ngày thắng lợi Chị về thăm quê anh Cháu về thăm quê nội! ... Tình nghĩa càng vuông tròn Bắc Nam càng khắng khít Cung đàn càng véo von Lời văn càng thắm thiết! ... Hạnh phúc vang lời thơ Ái ân lừng điệu nhạc Biển chung thuỷ tràn bờ Tình yêu thành tuyệt tác! 19.1.1958 Thơ Việt Nam
29755
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%AB%20%C4%91%C3%B3%20v%E1%BB%81%20%C4%91%C3%A2y
Từ đó về đây
Từ về đây sống rất nghèo Bạn bè chỉ có gió trăng theo Những xin đừng đến Hãy để thềm ta xanh sắc rêu Rạch Giá, 1947 Thơ Việt Nam
29756
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%A0i%20n%C3%A9t%20Hu%E1%BA%BF
Vài nét Huế
1. Cầu cong như chiếc lược ngà, Sông dài, mái tóc cung nga buông hờ. Đôi bờ, đôi cánh tay vua Cung nga úp mặt làm thơ thất tình. 2. Ở đây áo tím riêng màu Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân. Loanh quanh xóm vắng, đường gần Ấy ai làm dáng phi tần với ai! Con sông không rộng mà dài Con đò không chở những người chính chuyên. 3. Ở đây có nước sông Hương Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao Bồng bồng sáu nhịp cầu cao Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh Thâm u một dải hoàng thành Đình suông con én không đành bay đi. 1941 Thơ Việt Nam Lục bát
29757
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%A0i%20n%C3%A9t%20r%E1%BB%ABng
Vài nét rừng
Xanh Xanh cây, xanh cỏ, xanh đồi Xanh rừng, xanh núi, da trời cũng xanh. Áo chàm cô Mán thanh thanh Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư. Vì ai? Cỏ đồi, ai nhuộm mà xanh? Áo em, ai nhuộm mà anh thấy chàm? Da trời, ai nhuộm mà lam? Tình ta, ai nhuộm, ai làm cho phai? Giữa đường Đường rừng, sỏi đỏ như son, Xe hàng một cỗ theo con ngựa gầy. Nhà em Nhà em cách bốn quả đồi Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng. Nhà em xa cách quá chừng Em van anh đấy, anh đừng yêu em. Phú Thọ, 1938 Thơ Việt Nam Lục bát
29758
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%AC%20ai
Vì ai
Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh? Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm? Da trời ai nhuộm mà lam? Tình ta ai nhuộm, làm cho phai? Thơ Việt Nam Lục bát
29759
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%AC%20em
Vì em
Vì em là một bài thơ Vì em là một giấc mơ khôn cùng Tôi xin ôm lấy vào lòng Tôi xin giữ lấy trọn vòng thời gian Tôi xin sung sướng vô vàn Để ca ngợi, để mơ màng em luôn Tôi xin dành một chiếc hôn Đặt lên tất cả tâm hồn thơ ngây Tôi xin dâng cả bàn tay Nhẩn nhơ ràng buộc chuỗi ngày lơ thơ Tôi xin kính cẩn vọng thờ Thắp hương cầu nguyện bên bờ sông yêu Nhưng đau lòng biết bao nhiêu! Người tôi yêu chỉ biết yêu như người Chỉ cho tôi những nụ cười Chỉ cho được những lời ái ân Bắt tôi dan díu luỵ trần Bắt tôi chiều chuộng tấm thân nõn nà Bắt tôi sống giữa phồn hoa Giữa nơi cát bụi nhưng mà than ôi! Ngẩn ngơ đứng giữa chợ đời Tôi tìm đâu thấy mảnh trời thần tiên Tôi tìm đâu thấy Đào Nguyên Hỡi chàng Lưu, chúng ta điên mất rồi Còn lo ân ái với đời Còn toan ân ái với người trần gian Giấc mơ đến thế là tan Bài thơ đến thế là tàn bài thơ Tôi xin em chớ đợi chờ Tôi còn theo đuổi giấc mơ khôn cùng. Thơ Việt Nam Lục bát
29760
https://vi.wikisource.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20c%E1%BB%A5%20Ti%C3%AAn%20%C4%90i%E1%BB%81n
Vịnh cụ Tiên Điền
(Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều) Cảo thơm lần giở trước đèn Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa Trăm năm trong cõi người ta Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau Khen tài nhả ngọc phun châu Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình. Mấy lời đinh ninh Rằng tài nên trọng mà tình nên thương Khen rằng giá đáng Thịnh Đường Thì giải nhất, chi nhường cho ai Gẫm âu người ấy, báu này Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào. Nặng vì chút nghĩa xưa sau Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay Thương vui bởi tại lòng này Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời Lòng thơ lai láng bồi hồi Tưởng người nên lại thấy người về đây... Thơ Việt Nam Lục bát
29761
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%81%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29
Vô đề (Nguyễn Bính)
Từ buổi thu sang, sầu lá rụng, Liễu gầy thôi buộc ngựa vương tôn. Chao ôi, duyên nợ là duyên nợ, Ai sắt son gì với sắt son. Thuở trước giai nhân buồn phận mỏng, Kiếp này thiếu phụ oán giời xa, Đôi tay Tô Thị đầy chua xót, Gối bọc, chăn lồng oán nguyệt hoa. Thơ Việt Nam
29762
https://vi.wikisource.org/wiki/Vu%20quy
Vu quy
Tháng chạp cho cải hoa vàng Cho cam da đỏ, cho nàng vu quy Nàng về mãi xứ bên kia Cam thôi màu đỏ, bướm chê hoa vàng Sáng nay sương suống đầy làng Tưởng như khói pháo đưa nàng năm xưa Nàng về kẻ đón người đưa Tôi chờ gì nữa mà chưa giang hồ? Sông Thương cách mấy lần đò Chợ Hoàng họp mãi bao giờ cho tan! Thơ Việt Nam Lục bát
29763
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C5%A9ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
Vũng nước
Hồn tôi như vũng nước đầy; Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi. Nắng đưa vũng nước lên giời, Làm mây lơ lửng để rồi làm mưa. Vũng khô năm đợi mười chờ, Mưa sang xứ khác, ai ngờ hồn tôi. Thơ Việt Nam Lục bát
29764
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20xu%C3%A2n
Vườn xuân
Có những ngày đi rất vội vàng Vườn tôi đầy cả gió xuân sang Hai ba con bướm giang hồ đó Đã trở về đây giũ phấn vàng Hoa có bao nhiêu nở hết rồi Như đoàn cung nữ hé môi tươi Và trong từng cánh, trong từng cánh Những hạt mưa hiền lấm tấm rơi... Xác pháo nơi nơi đã đỏ ngòn Nơi nơi cành nảy búp xanh non Mấy cô em bé đường kiêu ngạo Môi mới lần đầu biết vị son Có một cô chim mới cưới chồng Vì tình dan díu tự mùa đông Sớm nay hai vợ chồng son ấy Đã mớm cho nhau những tiếng lòng Xuân đến tình tôi nao nức quá Như người giai tế tối tân hôn Và say sưa quá cho nên đã Đánh đổ trời xuân xuống suối hồn Thơ Việt Nam
29765
https://vi.wikisource.org/wiki/Xu%C3%A2n%20m%E1%BB%9Bi%20g%E1%BB%ADi%20b%E1%BA%A1n%20c%C5%A9
Xuân mới gửi bạn cũ
Gửi Hoàng Chư mấy năm lại gặp nhau Mừng hai mái tóc vẫn xanh màu Sắc son đẹp mãi thề sông núi Mưa gió xa rồi hận biển dâu Đã một đường đi cùng bến đậu Còn nhiều nghĩa nặng với tình sâu Tình sâu nghĩa nặng trời xuân thắm Năm sáu lời thơ tả hết đâu! 1960 Thơ Việt Nam
29766
https://vi.wikisource.org/wiki/Xu%C3%A2n%20nh%E1%BB%9B
Xuân nhớ
Rộn rã xuân về giữa thủ đô Hồn đơn gác lẻ đón giao thừa Nhà ai hàng xóm khoe mầu cúc Vườn cũ mai vàng biết nở chưa ? Câu thơ đứt giữa lòng trang giấy Mắt rượu mờ trông mái tóc thề Đất Bắc phải đâu là đất khách Sao lòng mãi nặng mối tình quê ? Ngày muộn, mẹ già hong tóc trắng Khác nào mây núi đỉnh Trường Sơn Mẹ ơi giữ lấy vườn mai nhé Cho trải vàng xuân đẹp bước con. Thơ Việt Nam
29767
https://vi.wikisource.org/wiki/Xu%C3%A2n%20th%C6%B0%C6%A1ng%20nh%E1%BB%9B
Xuân thương nhớ
Chàng ở nơi đâu thiếp ở nhà Cây đào năm ngoái lại ra hoa Chân trời rượu uống môi chàng ướt Của sổ mưa bay chữ thiếp nhoà Mải nhớ trầm hương thưa ngọn khói Càng thương vòng ngọc lỏng tay ngà Tin chàng chẳng đến, tin xuân đến Có mộng đêm nay cũng chỉ là... Thơ Việt Nam Thất ngôn bát cú
29768
https://vi.wikisource.org/wiki/Xu%C3%A2n%20v%E1%BA%ABn%20tha%20h%C6%B0%C6%A1ng
Xuân vẫn tha hương
Gửi chị Trúc Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió; Xuân này em chị vẫn tha hương, Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ, Son sắt say hoài rượu bốn phương. Em đi non nước xa khơi quá! Mỗi độ xuân về bao nhớ thương; Mỗi độ xuân về em lại thấy, Buồn như tên lính ở biên cương. Thời chưa gặp đỏ, nằm xuông mãi; Xuông cả ân tình rượu cũng xuông. Trước mặt bút nghiên, sầu tịch mịch, Quanh mình chăn chiếu rộn tang thương. Một thân quán trọ sầu phong toả. Đốt ngọn đèn lên, bóng rợn tường. Đêm ba mươi Tết quê người cũng, Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương. Chị ạ, em không người nước Sở, Nhớ nhà đâu mượn địch Trương Lương. Đất khách tình dâng hoà mắt lệ, Ôi nhà! Ôi chị! Ôi quê hương! Từ em lưu lạc ngoài muôn dặm, Một đoạn đường đi một đoạn trường. Cửa quan chẳng mở, đầu Viên bạc; Tri kỷ không ai, mắt Tịch cuồng. Thôn dã từng quen mùi đạm bạc, Thị thành thêm chán miếng cao lương. Vụng tính bỏ rơi đi hạnh phúc, Xảy ra đánh vỡ mất thiên đường. Trăm ván cờ cao, trăm ván bại, Nước người thêm thẹn tiếng mang chuông. Trò đời cúi mặt xem thiên hạ, Thực đáng cười thay, thực đáng thương! Trọc phú ti toe bàn thế sự; Đĩ già tấp tểnh nói văn chương. Đã coi đồng bạc như non Thái, Lại học đòi theo thói Mạnh Thường. Lẳng lơ đi võng, đi tàn cả; Gái chính chuyên kia đứng vệ đường. Đất đổi hoa màu, nhà đổi chủ, Trâu quên mục tử, ngựa quên chuồng. Thay đen đổi trắng bao canh bạc; Vẽ nhọ, đen râu mấy lớp tuồng. Trói vo hồn lại ba đồng bạc, Bán rẻ đời đi nửa đấu lương. Chao ôi! Giả dối, ôi mai mỉa! Sống phồn hoa một lũ . Chị ơi, tất cả là vô nghĩa, Chả nhiễu điều nào phủ giá gương. Tay trắng bạn bè đều tránh mặt; Sa cơ thân thích cũng khinh thường. Sông lạnh thấy đâu người gọi gió; Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm. Áo xanh bạc nửa màu sương gió, Xót kẻ ăn nằm trong gió sương. Đầy vơi tâm sự cùng ai tỏ, Mộng lạnh đêm xưa, chiếu lạnh giường. Quê nhà gối chiếc, thôi rồi kẻ, Chia nửa vầng trăng với dặm trường. Son phấn hững hờ niềm sắt đá, Sông hồ vò võ nỗi yên cương. Chị ạ, duyên em mà chẳng đẹp, Chỉ vì không đọc chuyện Tây Sương. Người yêu buổi ấy lên xe cưới, Cũng khóc cho tròn ý nhớ thương. Khấp như sử nữ vu quy nhật. Lệ có thành sông, chuyện cũng thường. Trò đời chẳng hẹn nhau lần gặp; Đập nát cho rồi nửa mảnh gương. Duyên mới đẹp lòng người sử nữ; Đầu sông ai nhớ cuối sông Tương. Tàn lạnh lòng em từ buổi ấy, Vơi tình thôi hết cả tơ vương. Chị ở quê chồng, xuân có đẹp? Con đò bến cũ có thê lương? Nêu cao, pháo nổ, trầm thơm ngát. Hoa bưởi, hoa cam rụng ngập vườn. Mưa xuân rắc bụi quanh làng mạc, Gái lịch, trai thanh chật phố phường. Lá lộc hồ tơ, tay ngọc hái, Sông hồ vò võ nỗi yên cương. Nhưng dù Tết đẹp hay xuân đẹp, Chắc chị chưa hề nguôi nhớ thương. Người đi buổi ấy tàn hoa phượng, Cõi Thục xa xôi mấy dặm trường. Phong ba từ nổi trong đời chị, Tóc rối xuân xanh, má nhạt hường. Qua đò mấy độ sầu sông nước, Dệt mộng bao lần tủi phấn hương. Tháng hẹn chờ rơi cơn lá úa, Đêm Tần đợi khuyết cái trăng xuông Chỉ tổ tài cao, trời đất ghét, Một thân oan khổ có trăm đường Cuối thu mưa nát lòng dâu bể, Ngày muộn, chuông đau chuyện đá vàng. Em thường cầu nguyện thường van vái, Một sớm thanh bình mặt đại dương. Bao giờ em được về quê cũ, Dâng chị bài thơ xuân cố hương. Thơ Việt Nam
29771
https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%B4%20d%C3%A2u
Cô dâu
Trong buồng mẹ một cô dâu Tôi nhác trông cô mắt đỏ ngầu Ngoài nhà hai họ đang vui vẻ Cô còn nũng nịu: Chả đi đâu Chả đi rồi cũng thấy cô đi Nhị hỷ cô im chẳng khóc gì Thế rồi từ ấy trừ khi Tết Chẳng thấy cô về chơi mấy khi Xuân sau cô bế đứa con trai Gặp tôi, tôi hỏi chuyện xưa chơi Thôi thôi cô chả đi đâu nhỉ Phải gió anh này khéo nhớ dai! 1936 Thơ Việt Nam
29772
https://vi.wikisource.org/wiki/D%C3%B9%20r%E1%BA%B1ng...
Dù rằng...
Dù rằng một chữ cũng thơ Dù rằng một thoáng cũng thừa xót xa Dù rằng một cánh cũng hoa Dù rằng một nửa cũng là trái tim Dù không nói, dù lặng im, Dù sao anh cũng thương đêm nhớ ngày. 1941 Thơ Việt Nam Lục bát
29773
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20r%E1%BB%ABng%20chi%E1%BB%81u
Đường rừng chiều
Lữ hành bắt gặp quán cơm, Bầy ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng. Đèo cao cho suối ngập ngừng, Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều. Trăng non như một cánh diều Trẻ con phất dối thả liều lên mây. Chim nào kêu mỏi ngàn cây Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe. Đồi sim dan díu nương chè Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai... Thái Nguyên 1938 Thơ Việt Nam Lục bát
29774
https://vi.wikisource.org/wiki/Ga%20%C4%91%C6%A1n%20ga%20k%C3%A9p
Ga đơn ga kép
Ở đây chiều xuống rất mau Bình minh lên sớm, tôi sầu bơ vơ Rượu say từ sáng đến giờ Nhớ người, tôi nhớ mãi từ hôm lên Mỗi tuần chợ họp đôi phiên Mấy cô gái Thổ làm duyên phố phường Quýt Bo ăn ngọt hơn đường Gái tân làng Sậm má hường nhởn nhơ Từng đoàn thợ gặt giang hồ Kéo từ đâu lại giữa mùa lúa thơm Nặng nề những chuyến xe rơm Lăn vào trong xóm hoàng hôn xa mờ Có anh trai Thổ bơ phờ Lỡ đường năn nỉ trọ nhờ quán đêm Tối rồi phố đã lên đèn Suơng buông màn xuống bình yên vô cùng Ga Kép 1940 Thơ Việt Nam Lục bát
29775
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%9B%20%28II%29
Nhớ (II)
Tặng Nhân Cư Hỡi những đường tàu, hỡi những ga Nằm phơi nắng xế với trăng tà Có thương đôi lứa tình nhân ấy Họ bảo anh đi đường có hoa. Tàu qua để lại ga đơn chiếc Đường sắt nằm chờ những chuyến qua Có người lưu lạc bên đường sắt Mỗi chuyến tàu đi lại nhớ nhà. Kép 1940 Thơ Việt Nam
29776
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%9B%20Oanh
Nhớ Oanh
Nhớ Oanh tôi nhớ cô Oanh Xa xôi cách trở hỏi tình thắm phai Đường xa dài quá là dài Gieo cầu đêm ấy, tiên người không cho Oanh xưa, Oanh vẫn học trò Bây giờ bà giáo hay là bà tham? Thân tôi như cái thân tầm Ăn dâu nhả kén lại làm kén tơ Thân tôi cô biết cho chưa? Làm anh giáo xác, nằm co xó rừng Bạn bè là Mán là Mường. Là sim, đồi sỏi, là đường cong queo Là chim, núi, lá, gió, đèo Là cây sim đứng đìu hiu giữa nguồn Đường rừng tôi ở tuy buồn Đường xa tôi ở thì hồn tôi đau Oanh ơi! Thà chẳng gặp nhau Văn chương đừng tặng thì đâu nỗi này. 1939 Thơ Việt Nam Lục bát
29777
https://vi.wikisource.org/wiki/Oanh
Oanh
Cô em đang độ tuổi xuân tươi. Mái tóc đen kia buông quá dài Mỗi sáng cô ngồi bên cửa sổ Mỉm cười vì chửa biết yêu ai... Nhưng có hay đâu tới một chàng Một chàng thi sĩ ưa mơ màng Nghèo khổ ở trên gian gác vắng Duy giầu được một tấm yêu đương Vì miệng cười kia hoá ngẩn ngơ Yêu cô đem cả tấm lòng thơ Vì cô ca ngợi nhưng mơ mộng Chỉ là mơ mộng, chỉ là mơ. Rồi như sông Nhuệ lạnh lùng trôi Cô lạnh lùng đi chẳng trả lời Những tiếng lòng chàng tha thiết gọi Ở trên gác vắng, lạnh lùng ơi! 1936 Thơ Việt Nam
29778
https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%E1%BB%91%20ch%E1%BB%A3%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20r%E1%BB%ABng
Phố chợ đường rừng
Đồi lau gió lạnh phất cờ Tán bàng đã rụng đôi tờ huyết thư Sương buông, chiều xuống lững lờ Thịt rừng nướng ngậy, rượu vò bốc men Điếm canh tuần tráng thay phiên Bước đi chập choạng nâu chen lẫn chàm Cháy rừng đỏ một phường nam Phố im lặng, phố điêu tàn, phố đen Giường tre le lói ánh đèn Đôi ba mặt lạ chia tiền nhỏ to Đôi ba người bạn giang hồ Tóc bồng cỏ dại bình thơ nhớ nhà Chập chờn bóng quỷ hình ma Khoanh tay chủ quán nhìn ra đường mòn Kéo quanh vó ngựa khua dồn Lâu lâu tiếng nhạc nghe còn lao xao Lối về những mấy đèo cao Rượu say thấy mất còn dao đi rừng. Kép 1940 Thơ Việt Nam Lục bát
29781
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%B3%20b%C3%A0%20truy%E1%BB%87n
Tỳ bà truyện
Ngẫm xem từ trước đến giờ, Việc đời biến thực như cờ thất tinh. Kim năng ngữ, kiếm dục minh, Ngán cho thế sự nhân tình bấy nhiêu. Ngày xưa ở quận Trần - Lưu, Có nhà họ Thái ra chiều hiếm hoi. Vợ chồng tuổi ngoại sáu mươi, Khói hương duy được một người con trai. Gọi tên là Thái Bá Giai, Vẫn cho khuya sớm dùi mài sử kinh. Nếp nhà vốn sẵn thông minh, Giai còn nhỏ đã nức danh thần đồng Văn chương lừng lẫy khắp vùng, Đọc trơn bẩy bước, thuộc lòng năm xe, Thầy đồ gặp bạn thường khoe: “Nó rồi ông Cống, ông Nghè nay mai Tài hoa nó đã hơn người, Công danh nó hẳn gấp mười lũ ta. Hậu sinh khả uý lắm mà, Ta như quạ tuổi, nó là phượng non” Đời tươi như những khuyên son Thái ông hy vọng cho con nên người, Trước là tỏ mặt với đời, Sau là vui hưởng phúc trời cũng hay Thái bà canh cửi luôn tay, Cơm ăn hôm sớm áo may lạnh nồng. Đàn bà làm tướng bên trong, Khuyên con Từ Mẫu, thờ chồng Mạnh Quang Đã tần tảo, lại tao khang Dưỡng sinh nghĩa cả đá vàng duyên cao Ngày ngày nắng xế bờ ao Mưa khuya vườn chuối ra vào tóc sương. Thái sinh mỗi buổi tan trường, Thường về qua xóm Hiền lương cạnh làng, Nhà ai vách trúc rèm lan, Thường nghe văng vẳng tiếng đàn bay ra Tiếng đâu thắm ngọc tươi hoa, Tiếng đâu nắng xế, trăng tà, mưa khuya. Tiếng đâu chắp nối chia lìa, Ngựa lên ải quạnh, chim về rừng xa, Tiếng đâu, ôi! Tiếng tỳ bà, Dừng chân Chung Tử để mà vấn vương, Thẫn thờ sớm nắng chiều sương Đàn ai trêu khách qua đường mãi đây. Đàn không là rượu mà say, Đàn không cay đắng mà cay đắng lòng. Nhà ai? Quạnh vắng vô cùng, Thắm gieo hiên biếng vàng phong ngõ lười Tiếng oanh nhại tiếng ai cười, Bóng dương bắt chước bóng người phất phơ Một mình năm ngẩn mười ngơ, Thái sinh ngâm mấy vần thơ cảm hoài Đêm đêm trong tiếng học bài, Dường như có lẫn một vài tiếng tơ. Mặt đường thêm nhặt lá ngô, Bãi xe nằm cát đò đưa lạnh chèo. Khắp trời gió lộng vi veo, Sương mai dưới núi, sương chiều bên sông. Thái sinh thắc mắc bên lòng, Chờ mong nhưng biết chờ mong những gì? Mơ màng như ở, như đi, Như vương kén lại, như lìa tổ ra, Như gần thôi lại như xa, Xót trăng đầu tháng, thương hoa cuối mùa. Bỗng không ai đợi mà chờ, Ai tin mà tưởng, ai ngờ mà oan? Chiều thu thơ thẩn bóng vàng, Có ai xuôi bước cho chàng đi qua. Nhà ai bặt tiếng tỳ bà, Trong vườn thấp thoáng bóng hoa: Bóng nguời, Bóng người? không, bóng hoa tươi, Bóng hoa? không, cả bóng người bóng hoa. Liễu điều thua vẻ thướt tha, Đây là đâu? Phải đây là Đào Nguyên? Cõi trần mà có người tiên, Nõn nà như huệ, dịu hiền như lan. Thái sinh dừng bước bên đàng. Hồn say đắm quá tình càng đắm say. Đàn âu kia hẳn tay này, Sớm chiều trong gió bay đầy tiếng tơ. Ngàn thu sóng vỗ vào bờ, Ngàn thu tài tử vẫn chờ giai nhân. Trong vườn người đẹp bâng khuâng, Nhè cành vin thắm, tay ngần ngại tay, Gió chiều thổi cánh hoa bay, Gió chiều nhắn gửi với ngày thu sơ? Thốt như linh cảm bấy giờ, Giai nhân đưa mắt qua bờ dậu thưa. Giật mình: “Ô! Lạ lùng chưa? Người nào đứng đó ngẩn ngơ nhìn mình? Người nào có vẻ thư sinh Mà đường đột thế ra tình bướm ong?” Quay đi người đẹp lạnh lùng, Gót son nhẹ bước vào trong buồng điều. Hoa thu rơi rụng thêm nhiều, Gió chiều heo hắt, nắng chiều héo hon. Thái sinh như kẻ mất hồn, Nắng tô mãi bóng ưu buồn dài ra. Ngẩn ngơ quên trở lại nhà, Bỗng đâu một tiếng cười xoà bên tai. “Anh này đứng đợi chờ ai? Hay là định đứng học bài ở đây?” Thái sinh đỏ tía mặt mày, Ngoảnh đầu nhìn lại mới hay bạn mình. “Đi đâu về đó? Lưu sinh!” Lưu cười một tiếng hữu tình mà thưa: “Huynh ơi! Đệ thật không ngờ Từ bao mặt trắng vương mơ má hồng!” Hai người so bước thong dong, Thái rằng: “Xin thú nỗi lòng cùng anh Từ ngày quen mái nhà tranh, Tiếng tơ người đẹp vô tình bay ra. Ý lòng nghe vướng tình hoa, Nhớ nhung không biết có là tương tư? Đêm trường rối cả cơn mơ. Rút con chỉ thắm thả thơ lá điều Mỹ nhân vũ mộ vân triêu, Biết đâu hàn sĩ sớm chiều lại qua. Vừa rồi tỏ mặt Hằng Nga, Mây vương tóc liễu son pha má đào Mi dài, mắt sáng như sao, Huynh ơi! Đệ ngỡ lạc vào thiên thai Song giai nhân chẳng đoái hoài, Hững hờ nàng rảo gót hài vào trong. Cửa ngoài thắm rụng vàng phong, Biết sao mà ngỏ nỗi lòng bấy lâu? Từ nay sách ủ đèn sầu, Một thân lẵng đẵng qua cầu nhớ thương.” Lưu sinh nghe nói tỏ tường: “Anh xông vào chốn tình trường làm chi? Đã mang một tiếng nam nhi, Trông lên còn lắm bước đi còn nhiều, Hay gì ong bướm ghẹo trêu, Có như Kim Trọng, Thuý Kiều ngày xưa Trâm thề quạt ước đong đưa, Mười lăm năm lận se tơ không thành Ví chăng cấu kết với tình, Sao anh không liệu về trình song thân Hai nhà tính chuyện hôn nhân Để cho chỉ Tấn, tơ Tần xe chung Nên ra nên vợ nên chồng, Áo xanh rực rỡ má hồng đảm đang Sáng trăng, trải chiếu hai hàng Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ. Can gì thương nhớ bâng quơ, Đắng cay cho gặp hững hờ mà chơi.” Thái sinh nghe chửa dứt lời, Vội vàng bái tạ rằng: “Tôi không ngờ Mấy lời anh dậy vừa giờ, Thực như bó đuốc soi bờ ao khuya. Làm cho tôi tỉnh giấc mê, Làm cho tôi thấy đường đi phải đường Mực đen đèn sáng tỏ tường, Một lời anh đáng làm gương muôn đời.” Chữ rằng: “Chọn bạn mà chơi.” Bóng tà đã tắt hai người chia tay Độ trời mỏi cánh chim bay. Đò đưa chuyến cuối tiễn ngày sang đêm. Nhà lan ngõ trúc êm đềm Đôi song đựng nguyệt bốn thềm đông hoa Giai nhân trong ngọc trắng ngà, Vốn dòng họ Triệu, tên là Ngũ nương, Từ lâu ngõ kín cao tường, Hai thân, nửa mái tóc sương, chầu trời Tủi mình là gái mồ côi Ngã ba đường cái đầy lời bướm ong. Vậy nên khoá chặt khuê phòng, Đem thân liễu yếu vun trồng hoa tươi. Lụa đào chưa lọt tay ai, Mùa hoa bán cất cho người mua buôn. Bụi hồng chăng ở chân son, Xuân xanh tuổi mới trăng tròn gương nga. Anh mai, chị cúc, em trà, Đầy vườn hồng hạnh, một nhà chi lan. Phụ thân truyền lại ngón đàn, Cho con từ buổi từ quan trở về. Lời trung vua chẳng thèm nghe. Cái thanh cao ép một bề thì thôi. Về nhà dạy trẻ đàn chơi Vinh hoa với đám mây trôi khác gì? Hạc vàng đôi chiếc bay đi Nghìn thu trần thế có về nữa đâu. Bỗng nhiên trời thảm đất sầu, Khăn tang hai dải trên đầu Ngũ Nương. Cửa nhà này chút lửa hương, Bốn dây tơ héo, một vườn hoa tươi. Ngũ Nương chẳng chút biếng lười, Hoa đầy sớm sớm, đàn vơi chiều chiều. Gái tơ yên phận nhà nghèo, Nghĩ chi lá thắm, chỉ điều vẩn vơ. Nào hay vì mấy đường tơ, Xui nên chắp nối giấc mơ một người. Có không, duyên nợ bởi trời, Thái sinh ngay buổi được lời bạn khuyên Vội về trình với thông huyên Xin cho mình được kết duyên cùng người Rằng con đã lớn khôn rồi, Chăm nghiên bút để biếng lười thần hôn Công cha nghĩa mẹ tày non, Một con lỗi đạo làm con sao đành? Xin cho được kết duyên lành Để cho bên hiếu, bên tình vẹn đôi. Hai thân nghe nói mỉm cười Rồi ra ta sẽ mượn người dò la, Ví bằng là gái nết na, Nhà nghèo thì chọn dâu da nhà nghèo. Để yên cha mẹ liệu chiều, Con còn trẻ, cố mà theo học hành. Chớ đam mê vào một chữ tình, Mà hư mà phụ công trình mẹ cha. Hết mùa lá rụng thu qua Vườn mai bừng nở năm ba cánh gầy Khắp trời vẫn một màu mây Gió trôi heo hút mưa bay lạnh lùng, Ai mà gối chiếc đêm đông, Người ta lấy vợ lấy chồng ngổn ngang Vấn danh nạp thái huy hoàng Trong thôn đón rể, ngoài làng đưa dâu, Liền liền như gió mưa mau, Trai lành gái tốt đua nhau đá vàng Mặt sông băng giá chưa tan, Thái sinh đã cưới được nàng Ngũ Nương, Động phòng tỏ sáp thêm hương, Mắt xanh tài tử, má hường giai nhân. Duyên tế ngộ, nghĩa châu trần Giữa mùa đông có mùa xuân chen vào. Chuyền tay hợp cẩn rượu đào Trong thiên hạ dám men nào đọ say, Lung linh cuối mắt, đầu mày, Có tay trắng ngọc chờ tay trắng ngà. Nồng nàn e ấp thiết tha, Nửa như bạn mới, nửa là người xưa. Sinh rằng: “Từ buổi vương tơ, Lương duyên nào có ai ngờ đêm nay. Kiếp xưa tu hẳn đã dày, Mới xui chim phượng về cây ngô đồng. Giờ đây nên vợ nên chồng, Trăm năm thật đã thoả lòng khát khao.” Ngũ Nương e ấp cúi đầu, Mặt hoa da phấn ửng màu chu sa. “Dám thưa thân phận đàn bà, Mười hai bến nước có là lênh đênh Được rày hương lửa ba sinh, Se duyên quân tử gửi tình tri âm. Trước là phụng dưỡng song thân, Sau là sửa túi nâng khăn hầu chàng, Mong sao trọn nghĩa đá vàng, Lấy chồng thì gánh giang sơn nhà chồng. Thiếp tôi vụng dại má hồng, Dám xin quân tử lấy lòng mà thương.” Sinh rằng: “Hoa đuốc phòng hương” Em ơi! Nói chuyện đường trường ấy chi? Chén này em hãy cạn đi, Bóng dương xin hướng hoa quỳ đêm nay.” Thưa rằng: “Giai lão từ đây, Phải chi tình nghĩa một ngày hay sao. Vì chàng thương đến má đào, Xin cho giãi tỏ thấp cao đôi lời. Khuyên chàng đừng lấy làm chơi. Chăm bên tình ái, bỏ lười văn chương. Vẻ gì một chút phấn hương, Gắng đi cho hết con đường năm xe. Nửa mai gió lạnh hoa hoè Lấy đâu vốn liếng trảy về kinh đô? Tài trai sự nghiệp là to, Có coi đâu nặng chuyến đò thê nhi! Đã lòng vàng chữ vu quy. Phấn son thiếp dám tiếc gì phấn son?” Sinh rằng: “Biển cạn non mòn, Những lời em nói xin chôn vào lòng, Trăm năm kết một giải đồng, Đắm say duyên mới mặn nồng tình xuân. Ngẫm xem lời nói tân nhân, Kính yêu giờ lại bội phần kính yêu. Mùi trinh bạch, nét yêu kiều, Thái sinh chẳng dám ra chiều lả lơi. Ngũ nương nàng nhẹ chén mời, Phô răng thạch lựu, hé môi anh đào. Tóc mây cánh phượng bồng cao, Còn giai nhân đến thế nào nữa không?” Sinh rằng: “Non nước hằng mong, Cho nghe đôi tiếng tơ đồng được chăng?” “Đã lời dạy đến xin vâng, Chỉ e tài mọn phu quân chê cười.” Bồ đào tửu, dạ quang bôi, Tiếng Tỳ bà chẳng giục người lên yên Một đàn năm ngón tay tiên, Một đàn chim mộng triền miên bay về Đàn như tỉnh, đàn như mê, Đàn se vời vợi, đàn về đăm đăm, Tri âm đàn gọi tri âm, Đàn ngời ánh ngọc, đàn ngâm giọng vàng. Phải đây là lúc hợp hoan? Một bàn tay bốn dây đàn nở hoa. Ngổn ngang nhưng vẫn khoan hoà. Người nghe lẳng lặng để mà đắm say. Khôn ngăn ý đẹp tràn đầy. Thái sinh nắm lấy bàn tay đương đàn: “Như em tài sắc song toàn: Anh thề sẽ đúc nhà vàng đón em.” Ngẩn ngơ bốn mắt trao nhìn, Đôi môi hé nụ cười duyên não nùng! Bên ngoài mưa gió mùa đông Lò hương đã nguội sáp hồng thì vơi Màn the đôi cánh buông rồi, Chăn hương gối phấn một trời phấn hương Mắt ngà men rượu yêu đương. Thái sinh dần rõ Ngũ nương nõn nà. Tóc nhung viền suốt thân ngà, Nhuỵ hồng e ấp tinh hoa đầu mùa. Rùng mình như nếm mơ chua, Cái tái tê muốn vỡ bờ hợp hoan. Nồng sôi ý phượng tình loan, Hỡi ơi! Bó thắt đôi làn cánh tay Thèm mà nín, khát mà say, Xốn xang nhựa mạnh tuôn đầy búp tơ. Mày cao đôi má chín nhừ, Tân nhân ứa lệ, hoen mờ mắt xanh. Thoắt mà đêm đã tàn canh, Sáng bong bóng cá, qua mành mưa bay. Nhành hoa tươi ngại ánh ngày, Tiếng gà ướt rướt, giọng đầy nước mưa. Chàng đọc sách, thiếp xe tơ, Đêm đêm trăng sáng, làm thơ đầu giường. Nhà thanh đắp đổi bữa thường, Quản chi sớm nắng, chiều sương phai nhoà, Tròn nội trợ, vẹn tề gia. Ra đường vội vội, về nhà chăm chăm. Trồng dâu để đợi chăn tằm, Dậy từ tối đất, đêm nằm lặn sao. Ông bà gương sáng thềm cao. Đứng ngồi phụng dưỡng, ra vào thần hôn Cùng chồng duyên sắt tình son, Vợ hiền dâu thảo tiếng đồn gần xa. Tháng ngày đầm ấm bay qua, Sánh đôi loan phượng đã tà hai trăng. Tháng giêng vừa tiết đầu xuân, Xanh un lá mạ, trắng ngần hoa cam, Mưa xuân rắc bụi quanh làng, Bà già sắm sửa hành trang đi chùa. Ông già vào núi đề thơ, Trai tơ đình đám, gái tơ hội hè. Trường An nẩy quế đan trì Nhà vua xuống chiếu mở kỳ ân khoa Truyền rằng sĩ tử gần xa, Thu đèn sách lại để mà tiến kinh. Thi hương, thi hội, thi đình, Thơm danh kim bảng, thoả tình vũ môn. Một ngày nghe tỏ chiếu son, Thái ông vội vã giục con đăng trình. Ngậm ngùi một nỗi Thái sinh, Thanh niên ai chẳng nặng tình thê nhi? Má đào không thuốc mà mê, Lửa hương hai tháng bỏ đi sao đành, Ngũ nương hay rõ sự tình, Nửa đêm vấn lại tóc xanh khuyên chồng. Làm trai chí ở tang bồng, Đền ơn cha mẹ phụ công học hành. Bây giờ gặp bước khoa danh, Trời cho cơ hội đầu xanh bảng vàng. Nhờ chồng thiếp cũng vẻ vang, Võng anh đi trước, võng nàng theo sau Cớ chi đắm mận, say đào, Trượng phu giam mãi thân vào buồng hương. Hãy xin kíp kíp lên đường, Tài chàng ắt hẳn không nhường một ai Ví như chàng chẳng chịu lời, Tội này thiếp gánh trọn đời sao xong. Thái sinh ý chẳng đẹp lòng, Đưa tay gỡ rối lại vòng tóc xanh. Ngũ nương châu lệ hai hàng, Vai non thổn thức, ướt tràn cánh tay: “Ngũ nương ơi! Rõ đắng cay! Thuốc bùa chi để chồng mày say mê? Để chồng quấn quít buồng khuê, Để cho thiên hạ, kẻ chê, kẻ cười. Tàn đi nhan sắc cho rồi, Vướng chân chồng, sống ở đời làm chi? Mai ngày thiên hạ vinh quy, Biển cờ rợp ngõ, ngựa xe đầy đường. Ông Nghè toàn những người dưng Học trò Đức Khổng còn đương ngủ ngày. Tưởng rằng cá nước rồng mây, Ngờ dâu thiếp đến nỗi này hỡi ơi!” Thái sinh nghe bấy nhiêu lời, Mười phần mới cả quyết cả mười phần đi: “Thôi đừng than khóc làm chi, Rồi xem anh cũng vinh quy như người, Ngặt vì đường sá xa xôi, Tiền lưng bị gạo cậy ai bây giờ? Nhà ta thanh bạch từ xưa Rách lành đắp đổi, muối dưa lần hồi Lấy đâu nén bạc tiền rời Vậy nên anh mới chịu ngồi bó tay.” Ngũ nương nhỏ nhẹ thưa ngay: “Ý anh đã quyết, việc này em lo.” Của riêng còn mảnh vườn hoa. Xin đem mại đoạn ắt là phải xong Xin anh đừng lấy làm lòng, Của chung: của vợ, của chồng, của ai? Mong sao chàng được thành tài Cha mẹ em hẳn ngậm cười cõi tiên.” Thái sinh cảm nghĩa vợ hiền. Cầm tay chàng mới thốt nên một lời: “Chứng minh có đất có trời, Cho anh đỗ để đền bồi công em. Chuyến này đầu bảng khôi nguyên Giàu sang bõ lúc nghèo hèn có nhau.” Thưa rằng: “Nghĩa trọng tình sâu, Vợ chồng ai dám mong đâu đền bồi. Mai kia thật có như lời, Phúc nhà và cũng phúc trời cho anh. Đền ơn đội đức sinh thành Mười năm đèn sách công trình biết bao, Phấn vua tô đến má đào Thơm lây được có phần nào mà may.” Vừng hồng vừa rạng ngày mai Ngũ nương trình lại với hai ông bà Xin cho mình được về nhà, Để lo liệu bán vườn hoa cho chồng. Ông bà nghe nói mủi lòng, Rằng: “Con hiếu thảo thật không ai bì. Đầu xanh nào nghiệp duyên gì Ai xui con lấy làm chi chồng nghèo?” Thưa rằng: “Cha mẹ quá yêu, Lòng con sợ hãi bao nhiêu cho vừa. Lẻ loi chút phận trẻ thơ Trăm thương ngàn mến cũng nhờ mẹ cha. Vả chăng của cũng của nhà Ra gì một mảnh vườn hoa lối tàn. Con về vườn tược thành hoang, Có, không chăm được, sao bằng bán đi Thêm vào lộ phí một ly. Cho chồng con kịp khoa thi mai ngày.” Ông rằng: “Thực có là may Ý con hợp với lòng thầy đang lo.” Thưa rằng: “Thầy mẹ ưng cho Con xin về gấp để thu xếp dần.” Bà rằng: “Phúc đức vô ngần, Dâu tôi thực đã mười phần đảm đang. Thôi con tuỳ tiện mà làm, Sao cho ổn thoả mọi đàng thì thôi. Mẹ cha giờ đã già rồi Lòng con hiếu thảo ắt trời đền công.” Ba ngày thu xếp vừa xong, Ngũ nương sắm sửa cho chồng đi thi. Tiểu đồng một đứa thuê đi, Áo tơ đủ bộ ngựa kỳ một đôi Bút nghiên lều chiếu hẳn hoi Bạc thoi chẳng thiếu tiền rời có dư Quá quan xin đủ giấy tờ Chọn ngày tháng tốt đợi giờ lên yên. Nàng còn sửa lễ gia tiên Cầu cho chàng được bình yên dọc đường. Lại làm một lễ tứ phương Cầu cho chàng được vào trường hanh thông. Cho chàng tên chiếm bảng rồng, Xem hoa trẩy ngựa, thoả lòng nam nhi. Đến giờ lên ngựa phân ly Cả nhà tiễn Thái sinh đi bàn hoàn. Ông nhà khuyên nhủ bảo ban, Đưa con ba bốn dặm đàng mới lui. Thái sinh lòng trẻ bồi hồi Cầm tay vợ chẳng nỡ lời mà than: “Từ đây cách trở quan san, Còn đâu người ngọc trăng vàng đêm đêm. Buồn đơn, bóng chiếc mình em, Mẹ cha tóc bạc càng thêm chạnh lòng.” Ngũ nương chua xót não nùng Gượng lau nước mắt cho chồng yên tâm, “Thưa rằng vàng đá một thân, Em xin thề có quỷ thần hai vai Thần hôn chẳng dám đơn sai, Buồng trong há để dặm ngoài băn khoăn. Thiếp tôi rau tảo rau tần, Màn the chẳng để gió xuân lọt vào Chàng đi dặm ngút đèo cao, Thân ngàn vàng phải giữ sao cho toàn. Mong chàng hai chữ bình an, Chúc chàng hai chữ bảng vàng đầu danh. Cha già mẹ yếu vợ lành Chàng ơi chóng chóng khoa danh mà về. Xin đừng ong bướm si mê, Kẻo mà bóng liễu bên đê nó dài Kinh đô cát bụi mù trời, Người đi chớ để lạc loài vó câu.” Nhìn nhau rồi lại nhìn nhau, Gió bay tà áo loạn màu thiên thanh. Khôn ngăn vó ngựa lâm hành Dù muôn tơ liễu buông mành lê thê. Người đi không bỏ người về, Thương ơi! Gỗ đá biệt ly cũng buồn. Nữa là hai vợ chồng son, Mới hai tháng chẵn chung giường hợp toan, Bỗng mà rẽ phượng chia loan, Buồng sâu vò võ dặm ngàn lẻ loi. Rừng thưa bóng ngựa khuất rồi, Từ nay hẳn có hai người nhớ nhau. Tớ thầy rong ruổi vó câu, Hai bên dặm khách một màu xuân tươi. Núi xa nổi bật da trời, Sông gần uốn khúc nằm phơi lụa vàng. Gieo thoi cánh én bên ngàn, Nương dâu thấp thoáng đôi nàng gái tơ. Đoản trường đình dựng mau thưa Liễu nghiêng cành yến như chờ tay vin. Hoa rơi nước chảy theo miền, Buồn chăng hỡi kẻ ngang thuyền với hoa. Ngày đi đêm nghỉ dần dà. Sương mai lác đác nắng tà chênh vênh. Ngậm ngùi lòng kẻ thư sinh, Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ tình gối chăn. Vắt ngang mây trắng non Tần, Ngẩn ngơ đầu ngựa mây lần ải quan, Cỏ bồng như tóc chàng Phan (ý nói vất vả) Canh khuya quán trọ trăng vàng lẻ loi. Đâu còn lược kép gương đôi, Đâu còn canh cánh tay người vợ ngoan? Và đâu còn nữa tiếng đàn, Vì đâu con phượng con hoàng xa nhau? Sáu mươi ngày đã bao lâu. Sáu mươi ngày đã vơi đâu ái tình? Vì đâu cho bóng lạc hình, Cái khoa danh khéo cợt mình lắm thay, Thiều quang chầm chậm vơi đầy, Ngày thâu như tháng, ngày chày như năm, Tiếng đàn để vắng tri âm, Buồng hương để lạnh chiếu nằm cho ai, Áo hoa chẳng nở sân Lai, Cửa thưa đậm bóng hai người tóc sương. Một lòng chín nhớ mười thương, Cầu cao đón gió dặm trường mưa theo, Vợ son con một nhà nghèo, Ra đi ai chẳng ít nhiều xót xa. Mai rồi trẩy ngựa xem hoa, Lộc vua lộc nước ấy là duyên may. Bằng không tên chiếm bảng ngoài. Uổng công học vấn thẹn đời bút nghiên. Mười năm tốn sách hao đèn, Mỉa mai chúng bạn ưu phiền vợ con. Nghĩ càng bối rối lòng đơn, Một thầy một tớ lối sờn tịch liêu. Này đây quán chợ về chiều, Trai nghiêng giành khói thành xiêu bóng cờ. Này đây bến đợi sông chờ, Lao đao trong gió mấy bờ hoa lau. Này đây truông dậm đèo cao, O o vượn khóc rảo rào chim bay, Này đây quán nước làng mây, Ông già hái thuốc rượu say quên về. Này đây tửu điếm bên đê, Đôi con ngựa ốm dong xe chở hàng Này đây rải rác xóm làng, Tiếng nhanh dệt lụa, giọng vàng ru con. Này đây phường phố bán buôn, Cát bu vó ngựa, bụi dồn bánh xe. Hết thành thị đến thôn quê, Cứ cho đầu ngựa quay về Tràng An Tớ thầy vò võ chinh an, Kể chi những nỗi gian nan dọc đường. Thương tình nàng Triệu Ngũ nương, Giận không phá được cánh rừng trước kia. Cánh rừng đã mọc phân ly, Cánh rừng che mất người đi của nàng, Gió xuân như gió khô hàn, Chao ôi! Lá liễu cũng vàng tiết thu. Gió bay đầu tóc rối bù, Nắng phai bóng đá vọng phu nhạt dần, Quay về vẫn dạ banag khuâng, Quay về hồn vẫn theo gần dặm xa, Phòng hương đêm ấy trăng tà. Nàng còn thao thức để mà nhớ nhung. Rõ ràng chăn vải gối bông, Màn the chiếu cói nhưng chồng đã xa, Nhuỵ hồng khắc khoải lòng hoa, Bỗng dưng hai cánh tay ngà lẻ loi, Mộng về bươm bướm bay đôi, Mộng đi bươm bướm bay rồi còn đâu? Há xui chàng mịch phong hầu, Tài trai ai thoát khỏi cầu công danh. Nhớ thương cho mấy cũng đành, Nặng vai khoa giáp nhẹ tình phu thê, Cơm gạo hẩm, củi phên che, Chuyện xưa còn đó riêng gì mình ta? Phương chi còn có mẹ cha, Con chưa danh phận, lòng già khó nguôi. Giờ đây đã vắng chàng rồi, Dám chăm thương nhớ để lười thần hôn. Một mình chiều sớm ban hôm, Ra tay gánh vác giang sơn nhà chồng. Khi ấp lạnh, khi quạt nồng, Một thân hiếu thảo, vui lòng hai thân. Thắt lưng buộc bụng chuyên cần, Trưa còn trèo núi, sáng ăn cơm đèn. Hạt mưa bao quản phận hèn, Lòng son chẳng bận khen chê miệng đời. Lời oanh nhẹ nét xuân tươi, Rách lành xiêm áo ngọt bùi cơm canh Chong đèn dệt lụa cho nhanh, Một con thoi suốt ba canh đi về. Kể từ một biệt trên đê, Bốn bên hàng xóm thôi nghe tiếng đàn. Tri âm đã vắng tai chàng Nhện giăng dây đứt bụi hàn phím long. Gái trinh chỉ biết một chồng, Vắng chàng trang điểm phấn hồng với ai? Điểm trang cho lắm cũng hoài, Tổ cho ong bướm ngõ ngoài vo ve. Liễu bồ rập nhớ thương che, Cỏ thơm đã rụng hoa lê trắng ngần. Hỡi ơi! Kẻ Việt người Tần, Trông ra chỉ thấy mấy lần non xanh, Về chiều mây trắng bay nhanh, Chuông chùa triêu mộ, trống thành thu không. Từ đâu giam cấm nỗi lòng, Đêm nay cho thiếp nhớ chồng một phen Lâm râm rễ cỏ sâu thềm, Bóng trăng xanh biếc hoa đèn đỏ tươi. Nhớ xưa này ghế chàng ngồi, Chàng về bút thỏ, thiếp mài nghiên trăng. Rồng bay, phượng múa nào bằng. Tiếng ngâm cao điệu mạch văn xuôi dòng. Tay gầy khép mở cánh song, Lược thôi hai suối gương lồng một tranh. Cung đàn tiếng trọc tiếng thanh, Dây vần dây vũ, điệu bình điệu cao. Đêm nay lại nhớ đêm nào Chồng tôi xa vắng gió vào chi đây? Đêm nào để đến đêm nay Nằm vơi trăng xế nhớ đầy gối nghiêng. Nét xuân còn để y nguyên Buồng xuân còn thoảng hương nguyền thanh tân Gái xuân đem lại mùa xuân, Nõn như hai cánh tay trần thì thôi. Đêm nay mộng cả hai người Ngổn ngang hình ngọc lả lơi ý vàng Đêm giờ tình thiếp ngổn ngang, Cửa thiên thai ngỏ nhưng chàng đã xa. Tương tư cho hết canh gà, Nằm gan lại sợ việc nhà ai coi, Rào thương lấp nhớ cho rồi, Cha giả mẹ yếu dám rời đạo con. Nhớ chi xuân hết hay còn Ngày hao gió tỉa đêm mòn mưa pha. Thái sinh rong ruổi đường xa, Vời trông trước mắt đã là Tràng An, Tưng bừng phố dọc đường ngang, Cung son rực rỡ điện vàng nguy nga Chật đường sĩ tử gần xa, Mưa xuân đã héo hoa trà mới tươi. Tớ thầy tìm chốn nghỉ ngơi Sáng sau chải chuốt ra chơi phố phường Kinh đô gái đẹp dị thường, Hoa thua màu thắm liễu nhường vẻ thanh Vàng đeo ngọc giắt đầy mình, Lụa điều sắc sáng, gấm xanh da trời. Khi không cũng đắm được người, Mắt đưa gươm bén miệng cười dao tâu. Thái sinh dạo gót hồi lâu, Không ai cắt cứa mà đau đớn lòng. Phồn hoa trăm tía ngàn hồng, Phút giây quên kẻ phòng không đợi chờ. Guồng đời rối rít vòng tơ, Nước men tráng lệ phai mờ thuỷ chung, Thi hương thi hội vừa xong, Thái sinh thực đã thoả lòng nam nhi. Tên treo đầu bảng hai kỳ, Tiếng tăm nổi dậy bốn bề đất kinh. Tuần sau nhập điện thi đình, Tài cao học rộng phúc lành duyên may. Đầy thêm chữ tốt văn hay, Chín lần lên chấm năm mây xuống bài. Truyền loa kéo bảng cửa ngoài Trạng nguyên là Thái Bá Giai ấp Trần. Bỗng mà rực rỡ phong vân, Thái sinh còn ngỡ mình nằm chiêm bao. Vua ban dạ yến lầu cao, Mũ hoa giải tía áo bào đai xanh Tràng An mưa thuận gió lành Vua cho chạy ngựa cấm thành xem hoa. Ngẫm mình rạng vẻ tân khoa, Cao vời lộc nước sáng loà ơn vua Khi xưa áo vải anh đồ, Ngựa hoa áo gấm bây giờ quan sang. Trong triều khuyết chức Nghị lang Vua liền chiếu xuống lúc chàng lai kinh, Thang mây đều bước công danh, Mải vui thành thị nhẹ tình gia hương. Đua đòi kiểu cách quan trường, Chọn nơi luồn cúi tìm đường giao du. Mâm đào lý, chén tạc thù, Đăng sơn buổi sớm dạ du canh trường Bén mùi liễu ngõ hoa tường Hà Mô lăng hạ, Tầm Dương giang đầu. Chưa sang giàu đã sang giàu Tuyệt nhiên quan trạng hết sầu hết thương. Nhớ gì hai mái tóc sương, Tao khang một chút phấn hương quê mùa. Những ai ngày tưởng đêm mơ, Lên lầu đợi cửa đợi chờ những ai? Lòng người chóng đã đơn sai, Má tơ ứa lệ, cửa sài bóng nghiêng. Trăng già sao khéo vô duyên Chân con nhạn lẻ buộc thêm chỉ điều Có quan thừa tướng họ Ngưu, Quyền cao chức trọng đầu triều vẻ vang, Thái sư bậc nhất vẻ vang, Hiếm hoi duy được một nàng gái tơ. Đặt tên là Ngọc tiểu thơ Ngọc còn đợi giá mối chờ tường đông Thái sư lòng vẫn nhủ lòng, Phi tài Thám, Bảng đừng hòng se duyên. Khoa này lại có Trạng nguyên, Thái sư chắc dạ: “Rể hiền là đây” Truyền cho sắm sửa chọn ngày, Nem công chả phượng đặt bày yến diên. Thiếp sang mời Thái Trạng nguyên, Thiếp vừa nhận được, Trạng liền đi ngay. Thâm nghiêm cổng chắc tường dày, Vươn thân trúc thẳng, vươn mày liễu cong. Lầu đãi nguyệt, gác nghênh phong Đá mờ rêu nước hồ trong mây đào Hạc vàng cất tiếng xôn xao, Bâng khuâng Trạng ngỡ lạc vào Thiên Thai Tháí sư đón cửa khách ngoài, Cùng nhau nhẹ bước lên đài chu sa. Xuân tàn rồi, hết mùa hoa Chín mươi chín thống cẩm trà còn tươi. Thái sư nhìn khách cả cười Bấy lâu mời tỏ mặt người văn nhân, Gọi là đôi chén tẩy trần Muốn cùng quan Trạng kết thân lâu dài. Sinh rằng: “Ngài dạy quá lời, Dám đâu đũa mốc mà chòi mâm son Người tiến chức, kẻ quyền môn, Bao dung cho được vuông tròn là may” Rằng: “Sao Trạng nhún mình thay, Bây giờ chức nhỏ mai ngày quan cao, Ơn vua có hẹp ai nào, Đôi ta một trước một sau đó mà, Ngày nay quan Trạng tân khoa Đừng nên câu chấp mới là tình thân” Nghe lời Thừa tướng ân cần Thái sinh lòng mới mười phần ung dung Bóng dương đã tắt lửa hồng. Đài son này bóng chiều phong bốn bề, Chuông chùa ràn rạn xa nghe, Đinh nghinh tân chủ khách về song song, Trong ngoài sáp tỏ đèn chong, Cột cao kết lá mai vồng treo hoa Mâm son đũa ngọc chén ngà, Dinh quan Thừa tướng quả là thần tiên, Kẻ hầu, đầy tớ, uy nghiêm, Sính ca nhã nhạc nổi lên từng hồi. Chia ngôi khách chủ cùng ngồi Rượu dâng mùi quế trầm khơi màu huyền, Bắt vào câu chuyện hàn huyên, Văn chương khách nói, uy quyền chủ khoe. Người nghiên bút, kẻ ngựa xe, Mọi lời mọi đẹp, mọi bề mọi hay. Ba tuần so rượu nửa say, Thái sư ý mới giãi bày chuyện riêng: “Từ ngày nội tướng quy tiên Thực không biết chữ tục huyền ra sao, Trời cho một gái má đào Tiện đây để gọi ra chào Trạng Nguyên.” Thị tỳ cúi dạ lời truyền, Thoắt thôi đã thấy thuyền quyên bước vào, Nghiêng đầu nàng mỉm miệng chào, Thái sinh đáp lễ lòng xao xuyến lòng, Người đâu phấn ngát son nồng, Lụa tơ uyển chuyển xuyến vòng lung linh. Chao ôi! Đôi mắt đa tình, Cái môi mọng mọng, cái mình thon thon. Rượu nồng, dê béo, gái non, Trạng quên hết cả, Trạng còn nhớ chi. Xem tình khứ nhãn lai my Thái sư biết đích Trạng si mất rồi. Truyền con rót chén rượu mời: Chúc người chức trọng, chúc người quan cao. Tay tiên rót chén rượu đào, Đổ đi thì tiếc uống vào thì say. Phòng hoa đã trổ gót hài, Tiệc hoa đã có một người bạc đen. Chủ rằng: “Đây chút thuyền quyên, Ý ta muốn để kết duyên cùng người, Trai tài gái sắc vừa đôi, Nên chăng Trạng ngỏ một lời cho hay.” Thái sinh lòng dạ ngất ngây, Phần mê son phấn, phần say sang giàu. Phần lo Thừa tướng quyền cao. Từ hôn rồi biết thế nào mai đây. Hay hèn người nắm trong tay, Dày ra khôn nhẽ mà bay đường nào? Vả chăng một bước sang giàu, Dễ xin mà được, dễ cầu mà xong, Thế là cha mẹ hết mong, Thế là tình nghĩa vợ chồng ra tro. Thái sinh làm bộ thẹn thò, “Thưa rằng lòng trẻ dám ngờ duyên may. Lượng trên hạ cố thân này? Tình sâu nghĩa nặng ơn dày xiết bao. Hồ tù được tắm trăng cao. Ba sinh biết trả thế nào cho xong!” Thái sư thấy Trạng bằng lòng, Mừng thầm công việc đã xong mười phần. Chọn ngày làm lễ thành thân, Để cho hai đứa thanh xuân động phòng. Chín cây bạch lạp toả hồng, Trầm hương chín chiếc lư đồng khói xanh. Hoa tươi chín chiếc ngân bình Khép xong lục trúc buông mành lưu ly. Hầu trong chín ả nữ tỳ, Chín nghiêng đặt lược, chín quỳ dâng gương. Lệnh truyền đệm trải màn buông, Xong rồi chín ả tìm đường lui đi. Ngọc nương môi mọng yên chi, Áo xiêm tuần tự biệt ly thân ngà. Cổ tay nõn tháo vòng ra, Rút trâm tóc xổ màu da thêm hồng. Đường cong, ôi! những dường cong. Đến đong đưa, đến não nùng, đến hay, Cao cao thôi lại dày dày, Trắng trong màu tuyết tròn đầy gương nga. Thái sinh rộn rực tình hoa, Ối con bướm dại lân la nhuỵ đào. Hoa xuân đêm mới nghẹn ngào, Người đen bạc lại đắm vào phấn son. Cành tơ nõn, búp xuân tròn, Mày cong nét liễu, môi thon hình thuyền. Khó khăn cũng thể lên tiên, Xót xa cũng thể thuyền quyên gặp chồng, Lụa đào xé lẻ như không. Cái son mất mát cái hồng ngổn ngang. Chúa xuân sao nỡ vội vàng, Tình xuân gắn chặt cánh màn lan tiêu. Chán chường gối lệch chăn xiêu, Tay non rời rã, nét kiều châu chan. Sáp chong vẫn tỏ hồng nhan, Trầm hương vẫn tỏ từng làn khói xanh. Ngọc nương thỏ thẻ lời oanh, Trong câu e ấp có tình lả lơi. Rằng: “Xin hỏi thật một lời, Lọt trong hai cánh tay người đã ai? Khỏi sao trăng gió tình trai, Thiếu chi thiên hạ hoa nhài áo xanh.” Nghe câu hỏi bất thình lình, Thái sinh chợt nhớ đến tình tao khang. Đêm nào mềm đá chảy vàng, Đêm nào thánh thót cung đàn đuốc hoa, Đêm nào ấp ngọc ôm ngà, Đêm nào như thế, thế mà đêm nay Xa nhau nào đã bao ngày, Đã phai mờ đã đổi thay không ngờ. Khi xưa gánh nặng ai chờ. Qua cầu ai đợi bây giờ quên nhau. Áo ai may chửa nhạt màu, Liễu ai bẻ tặng qua cầu còn tươi. Đã quên sao đã phụ rồi, Cánh tay người ấy cho người đêm nay Nhưng thôi giờ đến nước này, Nhớ chi câu chuyện những ngày đã qua. Im đi sự cửa sự nhà, Liệu lời bướm nói cho hoa vừa lòng. “Học trò Đổng Tử, Ôn Công Hết đầu câu chuyện vợ chồng ra sao Mà toan ướm mận thử đào Lưu lang thực quả chưa vào thiên thai Ngọc chưa giũa, đá chưa mài, Nàng ơi! Trai vẫn là trai nguyên lành.” Nàng rằng: “Đừng nói dối quanh. Chắc là chàng đã gửi tình cùng ai. Cứ lòng thiếp đoán không sai, Cố hương hẳn đã có người tử sinh.” Tân lang có tật giật mình, Vội vàng bưng kín miệng bình cho yên “Lòng trời tác hợp cho nên, Xe tơ chóng vánh kết duyên lâu dài, Song song gái sắc trai tài, Ngờ nhau chi thế cho hoài đêm xuân. Chưa hề quen một giai nhân, Chưa hề chăn gối tay trần của ai.” Đêm xuân ai bảo là dài, Đã lùn bóng sáp, đã phai hương trầm Má hồng là đá nam châm, Tu mi là sắt để nằm cạnh nhau. Bình cam lộ, ánh lưu cầu, Trộn chung hai suối, một màu mây xanh. Não người những nét đồng trinh Thân tơ lả tả, lửa tình xiêu xiêu, Dâng lên như nước thuỷ triều, Hoa nuông ý bướm, bướm chiều tình hoa. Sáp không ai nói nữa mà Động phòng bỗng chốc chan hoà bóng đêm, Tiếng xô chăn gối êm đềm Nhỏ to hơi ngắn, giọng mềm lả lơi. Vợ chồng như đũa có đôi. Hai con người ấy không rời nhau ra, Ban ngày uống rượu xem hoa, Đêm đêm chong sáp để mà gối chăn. Thái sư kén được văn nhân Bắt chàng ở rể cho gần cha con. Nuông chiều hai vợ chồng son, Thái sinh thực đã vuông tròn giàu sang. Đi lên ngọc, dẫm lên vàng, Mặc toàn gấm vóc, ăn toàn cao lương. Xé trăm vuông lụa khi buồn. Đóng mười cỗ ngựa chật đường khi đi. Quả tươi mong vãi biến thuỳ Soi gương nước giếng, vẽ my tay chàng. Thái sinh từ được giàu sang, Đã quên mây núi Thái Hàng vẫn bay Đã quên người vợ thơ ngây Một thân tấm cám từ ngày hàn vi, Quên rồi chứ nhớ làm chi, Người ta quan Trạng thiếu gì giai nhân, Thiếu gì ngọc chuốt vàng dâng Nơi quyền quý, cái vân phong thiếu gì. Quên rồi chứ nhớ làm chi, Người ta quan Trạng thiết gì cố nhân! Gái quê nghèo khó ngu đần, Gái quê sửa túi nâng khăn vụng về. Chẳng thương thì mấy chẳng chê, Tham vàng bỏ ngãi ra gì ai ơi! Đổi thay chớp mắt tình đời, Rượu làm đỏ mặt vàng xui đen lòng. Thời gian đi nhẹ như không, Mà tàn nhạt hết sắc hồng màu xanh. Tháng ngày lần lữa bay nhanh, Lòng ai đã bạc hết tình chồng con. Có như nước chảy đá mòn, Chỉ còn vui đấy chẳng còn thương đây. Vầng trăng khi khuyết khi đầy, Lòng người cứ mỗi một ngày một vơi. Quên cho đến hết thì thôi, Nhưng người xa ấy là người đã xa. Nào cha mẹ, nào cửa nhà, Người thục nữ tiếng tỳ bà trôi xuôi. Nói lời rồi lại ăn lời, Người như cóc chẳng bôi vôi chẳng về Bạc đen đã vẹn mọi bề Thương gì mùa hạ tiếc gì mùa xuân. Ngọc nương hỏi đến song thân, Thản nhiên Sinh đáp: “Từ trần đã lâu” Chao ôi! Chữ hiếu là đâu, Bạc ra cửa miệng tội cao bằng trời. Người mà đến thế thì thôi
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi Đã qua đường ấy quen xe, Đã qua bên ấy nhớ gì đến sông. Ngũ nương vẫn nhớ thương chồng. Thờ hai thân vẫn một lòng dâu con. Hỡi ơi! Đôi mắt đã mòn, Nhớ ai bằng gái còn son nhớ chồng? Rộn ràng buổi chợ đang đông Cỏ huyên chẳng có hoa hồng cứ bay Xuân thu đắp đổi từng ngày, Kể từ xa cách đã đầy nửa năm. Tin chồng vẫn bặt hơi tăm, Ngày trông nhạn vắng đêm nằm bướm bay. Buồn lòng lại sợ cho ai, Biết đâu may rủi đường dài ra sao. Tràng An ở mãi nơi nào, Để cho cha mẹ ra vào băn khoăn. Để cho thơ dại một thân, Trăng non liễu yếu thêm phần đắng cay. Tiếc không có cánh mà bay, Tìm chàng góc bể chân mây cùng là. Ra đi? Thân gái đường xa, Sớm hôm cha mẹ cửa nhà cậy ai? Đành thôi nay lại chờ mai, Đành thôi thở ngắn than dài đêm thâu. Hay là chàng đã quên nhau, Bỏ nơi áo vải mà cầu cao sang, Lẽ đâu chàng nỡ phũ phàng, Cha mẹ còn đó, nước làng còn đây. Dù cho bỏ một thân này, Bỏ quê hương, bỏ mẹ thầy hay sao! Nhưng mà học rộng tài cao, Nghĩ như người ấy lẽ nào bạc đen. Mười năm theo đạo thánh hiền, Một ngày dễ đã dám quên cương thường. Hay là tai nạn dọc đường, Tớ thầy lưu lạc về phương trời nào. Hay là vực thẳm đèo cao Hay nơi trường ốc làm sao mất rồi? Hay là chàng đã... nhưng thôi. Lạy trời phù hộ chồng tôi tốt lành. Chàng ơi! Có thấu cho tình, Trăm nghìn lo nghĩ một mình thân em. Bóng trăng thu rải đầy thềm Bởi lo cha mẹ nên thêm nhớ chàng. Tường xiêu treo mãi thân đàn, Bốn dây thương nhớ một bàn tay hoa, Chờ mong như suốt đêm qua, Chàng ơi! Một tháng là ba mươi ngày, Lần lần lá rụng rồi đây Tơ đàn rã rượi, cho tay lỗi đàn. Tiếng đâu rào rạt rộn ràng, Ngựa ai, ai cưỡi qua ngàn lá khô? Tiếng đâu xao động bờ xô, Xe ai, ai đẩy ngang bờ dâu xanh. Buồng hương bóng bóng hình hình Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa, Người về chỉ những người ta, Gió mơ hồ, gót đường xa quên về, Nay rồi mai lại ngày kia, Nhớ mong chờ đợi đến khi... hỡi chàng? Suốt trời nắng đổ chang chang, Nắng khô sông rộng, nắng vàng rừng thưa, Trời làm mấy tháng không mưa, Bao nhiêu đồng đất nẻ khô như sành, Mùa màng mất sạch sành sanh, Dân gian lo sợ mà đành bó tay, Người sang Bắc, kẻ về Tây, Vợ con phiêu bạt, tớ thầy biệt ly, Bỏ nhà bỏ cửa kéo đi, Đò ngang vắng khách, chợ thì hết đông. Túng vô độ, đói vô cùng Người ta đã biết cơm sung, cháo dền. Ngũ nương mới thực lo phiền, Nhà nghèo lại gặp truân chuyên thế này, Bao nhiêu của cải riêng tây, Nàng đem bán rẻ từng ngày ăn đong, Gắng cho cha mẹ yên lòng Đường xa vẫn chẳng thấy chồng về cho. Thất thường bữa đói bữa no, Hôm nay đã vậy lại lo mai ngày. Nàng thì vóc liễu thêm gầy, Mẹ cha lại mấy bữa rày không cơm, Tảo tần thương một thân đơn, Ngọn rau lá cỏ qua cơn đói lòng. Thiên tai cơ cận khắp vùng, Trời cao thăm thẳm, đầy đồng nắng hoa. Triều đình xót nỗi dân quê, Lấy lương Hà Nội chở về Hà Đông. Huyện quan thông sức khắp vùng, Đúng ngày ai nấy phải cùng lên nha. Ít nhiều chi nữa cũng là, Cái tin phát chẩn đồn xa đồn gần. Nghe tin có phát chẩn bần, Ngũ nương chẳng quản đường gần hay xa. Canh năm vừa rạng tiếng gà, Lẻ loi thân gái bước ra ngại ngùng. Trên trời sao hãy còn đông, Cỏ mòn một lối đồng không bốn bề. Cơ hàn lạnh tái lạnh tê, Sương thu xuống gió thu về bông bênh Rừng gần cây mất màu xanh, Đỉnh non trông thấy, trông thành nghe xa, Nửa ngày vừa tới huyện nha, Đông như kiến những người ta ngạt ngào. Một tuồng rách rưới như nhau, Một tuồng mặt võ, mình sầu hom hem Bà bồng cháu, chị dắt em, Con thơ lạc mẹ, người chen với người Tiếng than tiếng khóc bời bời, Ngồi trên có đến ông trời cũng đau, Đến giờ nổi hiệu trống chầu Người ta cứ giẫm lên nhau mà vào! Ngọn roi vun vút mưa rào, Tiếng van lạy tiếng kêu gào điếc tai. Ngũ nương vóc liễu mình mai, Đổi hai mắt lệ lấy vài đấu lương. Chàng đi hoa nở đầy đường, Cơ hàn biết thiếp đoạn trường này không. Về thôi xay, giã, giần, sàng, Vội vàng vo gạo, vội vàng thổi cơm, Ngọt ngào lưng thảo lưng thơm, Mẹ cha chắc dạ là con vui lòng, Con mà nhịn đói cũng xong, Mẹ cha nhịn đói lòng không sao đành. Dối rằng đã có phần mình, Bao nhiêu cơm gạo riêng dành hai thân, Còn mình nấu cám mà ăn, Miễn sao sống được qua lần thì thôi, Cám không phải của ngọt bùi, Người không là lợn nuốt trôi sao đành, Khi xưa bác mẹ hiền lành Mà nay cay đắng riêng mình mới oan. Thương thân thêm nỗi nhớ chàng, Lòng đau chín khúc, lệ tràn đôi mi. Người đi bằn bặt không về, Dãi dầu đôi đức, ê chề một thân, Nghẹn ngào vừa khóc vừa ăn. Ông bà nhẹ bước lại gần mới hay, “Trời ơi! Sao đến nỗi này! Cám kia ai bắt tội này! Con ơi! Chồng con nó bỏ con rồi, Mẹ cha làm khổ một đời con đây Trai ơi mày phụ vợ mày, Mày đi mất mặt không quay đầu về, Quên tình phụ tử, phu thê, Vô nhân bạc nghĩa chết đi cho rồi. Con đi vui thú quê người, Để dâu gánh hết nợ đời hay sao!?” Ngũ nương tươi tỉnh má đào, Rằng: “Con khoẻ mạnh thế nào cũng xong! Mẹ cha đầu bạc răng long, Có như thế mới yên lòng làm con, Cho dù ngày tháng mai mòn, Đình vi thúc thuỷ lòng con dám rời Xin thầy mẹ cứ yên vui, Chồng con chắc chẳng phải người bạc đen, Một là đường xá chưa quen, Hai là đất khách cạn tiền đò giang, Hoặc là tên chiếm bảng vàng, Nhà vua giữ lại làm quan trong triều, Mẹ thầy hiền đức bao nhiêu, Chồng con ắt chẳng gặp điều không may, Lòng con dám quản chua cay, Sớm hôm hầu hạ mẹ thầy là vui”. Ông bà nghe bấy nhiêu lời, Tạm ngăn giọt thảm, tạm vơi lòng sầu. “Ví dù còn có kiếp sau, Mẹ xin trở lại làm dâu cho mày.” Đói no ngày cũng qua ngày Lá thu khô đã rơi đầy vườn đông Bệnh già kéo đến như không Ba ngày chạy chữa Thái ông từ trần Tiền không đủ một vuông khăn Ngũ nương đem ít áo quần bán đi Cửa nhà đang lúc hàn vi, Miễn sao một chút lễ nghi gọi là Thêm thương một nỗi mẹ già Bóng dâu đầu bãi, nắng đà sang sông Sớm khuy bà chỉ đau lòng Có con mà đám ma chồng không con. Hay đâu gió tủi chăng hờn Thái bà lâm bệnh từng cơn ly bì Đói no thôi có quản gì, Ngũ nương một dạ đình vi đã đầy. Tiền đâu thang thuốc lúc này, Còn lo rau cháo một ngày đôi phen. Một thân mấy nỗi lo phiền, Nghĩ bề nào cũng chẳng yên bề nào. Tin người vẫn bặt âm hao Nhớ ra dặm cát, thương vào buồng the Úa mòn sắc liễu bên đê, Ngựa vinh quy chẳng thấy về cố hương. Tóc dài tủi lược hờn gương, Lòng tơ biết mấy canh trường ngổn ngang. Đời cho áo gấm về làng, Có khi hai chiếc lá vàng đã rơi. Mới hay khe khắt là đời, Đắng cay là thiếp... chao ôi! Là chàng! Mẹ chàng chẳng thuốc chẳng thang Chê cơm chán cháo lòng càng đắng cay, Nơi nào chàng hỡi có hay, Ngõ ngưng sương bạc, vườn bay lá vàng. Có người viễn khách qua làng, Tin đồn lại đến tai nàng Ngũ nương Nàng về trình mẹ tỏ tường, Rằng: “Xin dâng mẹ tin mừng mẹ vui, Chồng con đỗ Trạng nguyên rồi, Làm quan ở đấy từ hồi đăng khoa.” Thái bà nghe nói xót xa: “Con ơi! Đừng nói nữa mà mẹ đau. Nó giờ thương nhớ gì đâu, Cầm như chiếc nón qua cầu gió bay, Mẹ giờ sống chết kể ngày, Sâu nông cậy một thân mày thuỷ chung, Sinh con ai nỡ sinh lòng, Ngờ đâu nó cũng lộn vòng bạc đen. Ới ông ơi! Có linh thiêng, Đón tôi chầu chức toà sen cho rồi! Sống dai chỉ khổ dâu thôi.” Ngũ nương vội vã tìm lời khuyên can: “Mẹ đừng suy nghĩ miên man? Cho hao mình hạc cho tàn bóng trăng. Hẳn là trọn đạc quân thần, Chồng con chưa nhẽ buông thân mà về.” Thái bà khi tỉnh khi mê, Nghe tin vui chính là nghe tin buồn, Thương dâu lại giận hờn con, Ngọn đèn trước gió chẳng còn chắc chi. Ngũ nương khuyên giải rầm rì, Lòng riêng cảm thấy điều gì không hay. Tơ tình lỡ dở rồi đây, Đam mê biết tính từ ngày phòng chung. Bây giờ xa mặt cách lòng, Người ta tiếc lục tham hồng một phương. Thái bà sắp biệt cõi duơng, Gọi nàng dâu đến bên giường mà than: “Vợ chồng kẻ Bắc người Nam, Đầu xanh tuổi trẻ ai làm nhỡ con Kinh kỳ trướng phủ quyền môn, Bạc vàng xe ngựa phấn son thiếu gì, Sang giàu thì bỏ hàn vi, Nó không về, nó không về nữa đâu, Thương con mười sáu tuổi đầu, Câu “sang đổi vợ” là câu thế thường Con giờ một nắng hai sương, Mẹ đi con ở giữa đường bơ vơ. Chọn người quân tử mà thờ, Ôm con thuyền nát đợi chờ làm chi?” Ngũ nương châu lệ đầm đìa: “Chồng con dù chẳng có về cũng thôi. Cũng đành bỏ héo xuân tươi, Dám đâu một gái đi hai lần đò. Mẹ còn mạnh chán chưa lo, Ráng ăn chút ít chóng cho lại người.” Thái bà lẳng lặng mỉm cười, Mà trong khoé mắt sáng ngời hạt châu. Bà nhìn cho kỹ con dâu, Ý bà muốn nói một câu tận tình. Dù cho lời nói không thành, Một nhìn cũng tỏ ngọn ngành xót thương. Thác về đôi ngả âm dương, Nghìn thu một sớm thiên đường là đây. Ngũ nương chi biết đắng cay, Nhà nghèo giờ biết ma chay thế nào? Của riêng đã nhẵn như bào, Biết tìm đâu thấy, biết đào đâu ra. Nhát lòng xẻ bảy chia ba, Nỗi mình đơn chiếc, nỗi nhà tang thương. Lấy đâu cỗ ván lưng cơm, Thoi vàng giấy nén nhang thơm phụng thờ. Mong ai đôi mắt đã mờ, Khóc cha khóc mẹ bây giờ ai hay. Một mình tính đó toan đây, Chỉ duy còn mớ tóc mây đáng tiền. Đen như mun, óng như huyền, Chiều dài chấm đất, chất mềm như tơ. Cắt lòng một lưỡi dao đưa, Than ôi! Đôi ngả tóc tơ chia lìa. Kiếm nhà quyền quý bán đi, Món hàng đã hiếm thiếu gì người mua. Ít nhiều lo liệu cho vừa, Mồ yên mả đẹp bây giờ đã xong. Thương thay phận gái xa chồng, Tóc xanh đã ngắn má hồng lại phai. Đau lòng thiếp lắm chàng ơi, Thần hôn thiếp dám đơn sai đâu mà. Theo nhau cha mẹ về già, Chàng đi nước thẳm non xa chẳng về. Nỡ nào nghĩa cắt tình chia, Nỡ nào được Sở quên Tần cho đang. Thiếp như áo rách giấy tàn, Vinh hoa rồi đấy biết chàng tính sao? Thương nhau liễu yếu tơ đào, Một thân mang nặng biết bao nhiêu tình. Ma chay mồ mả đã đành, Tìm chồng xem cái duyên mình ra sao? Ngũ nương cửa đóng ngõ rào, Đem hai bảo vật tìm vào Trường An. Bức tranh cha mẹ bên chàng, Tỳ bà đây một cây đàn ngày xưa. Bức tranh hôm sớm phụng thờ, Dù con lưu lạc bao giờ dám quên. Tỳ bà gởi chút tài riêng, Dọc đường đàn hát kiếm tiền độ thân. Tuổi non sớm đã thanh bần, Trời xanh còn bắt phong trần nữa đây. Vàng người đắm, rượu người say, Lòng này ai biết thân này ai thương. Trước khi từ biệt gia hương, Nàng làm một lễ cáo tường vong linh. Gởi là bát nước lưng canh, Bốn bên cha mẹ thấu tình cho con. Dưỡng, sinh, tống, tử đã tròn, Con xin lặn lội nước non tìm chồng. Làm người có thuỷ có chung, Cúi không thẹn đất, ngửa không thẹn trời. Sống đâu không thẹn với đời, Chết đi không thẹn với người cõi âm. Cúi đầu quỳ lạy bốn thân, Gieo cầu rút đất cho gần dặm xa. Giữa đường tai nạn thì qua, Trường An chả mấy chốc mà đến nơi. Tìm chàng để gặp mà thôi, Chắc chi đồn đại như lời người ta. Thăm xong phần mộ hai nhà, Ngũ nương lủi thủi bước ra khỏi làng. Trên đầu hai nếp khăn tang, Một tờ tranh một cây đàn tả tơi. Mùa đông rét cắt da trời, Gió giàn trước mặt, sương phơi đầy đồng. Một thân sương gió não nùng, Bờ đê: này chỗ đưa chồng năm xưa. Gió xe tơ, liễu bơ phờ, Nàng còn dừng lại ngẩn ngơ nỗi mình. Bỗng nhiên dĩ vãng hiện hình, Ngày xưa - Ôi! thuở thanh bình còn đâu. Vườn hoa đâu nở muôn màu, Tử tiên, hồng phấn, tú cầu, đỗ quyên. Cha thương mến, mẹ diệu hiền, Bỏ con thơ dại cõi tiên vội vàng. Vườn nhà chăm chút sớm khuya, Mùa đào đỏ nụ, mùa lê trắng ngần. Người nào đứng đó băn khoăn, Duyên đâu chỉ Tấn, tơ Tần lại se. Cái đêm hôm ấy đêm gì? Chén đâu hợp cẩn cung tỳ lương duyên. Nắng hồng đã tỏ gương sen, Động phòng sực nhớ mùi hương động phòng. Song song đấy vợ đây chồng, Say sưa đắp những đường vòng cánh tay. Lời thề như thể hát hay, Muốn đem tài sắc dựng ngay nhà vàng. Ái ân thiếp thiếp, chàng chàng, Đắm say đến nỗi không màng công danh. Nửa đêm vấn lại tóc xanh, Đưa chồng đây chốn trường đình là đây. Người đi một ngót thu nay... Ôi! Ngày xưa chỉ là ngày xa xưa! Bây giờ nói đến bây giờ, Có như cả một bài thơ não nùng. Nghĩ câu phận gái chữ tòng, Đầu tang tóc rối, tìm chồng phương xa. Cũng liều đất khách xông pha, Mai đây thân phận rồi ra thế nào. Ngại ngùng bước thấp bước cao, Mắt xanh lệ ứa, má đào châu sa. Ngổn ngang rừng khổ rừng già, Song le đường khổ cũng là đường cong. Xạc xào chợ vẫn bên sông, Tiều phu khói củi, mục đồng than trâu. Đò nan cắm lẻ bến sầu, Chiều đông trời cũng ngả màu biệt ly. Mái tranh khói nổi sắc chì, Bộ hành đã tắt người đi sang cầu. Chàng ơi! Chàng ở về đâu? Xa xôi có rõ tình nhau thế này. Khi xưa đôi lứa sum vầy, Bây giờ ra kẻ ăn mày ăn xin. Đây không lẻ gạo quan tiền, Mà trong lòng cái ưu phiền chan chan. Ví mà chàng đã cao sang, Còn thương đến kẻ cơ hàn này không? Nhớ chăng tình nghĩa vợ chồng, Nhớ chăng lời hẹn hoa phòng ngày xưa? Mây đùn trời lập cơn mưa, Ngũ nương tìm chốn ngủ nhờ qua đêm. Năm canh gan héo ruột mềm, Năm canh mưa rỏ nát thềm nhà ai. Sáng sau chẳng quản đường dài, Lại bơ vơ lại lạc loài lại đi. Thấy đâu đình đám hội hè, Rẽ vào đàn hát dở nghề kiếm ăn. Trường An đâu phải đường gần, Hồng nhan còn phải phong trần bao nhiêu. Tha hương lội suối băng đèo, Người đi chỉ bóng cùng theo với người. Tì bà ai oán vì ai, Nước non lặn lội xa khơi tìm chồng. Nắng mưa dầu dãi má hồng, Đắng cay chà xát tấm lòng xuân tơ. Đường trần khăn gói gió đưa, Tiền rơi thiên hạ, cơm thừa người ta. Suối vàng mẹ mẹ cha cha, Ngờ đâu thân phận con ra thế này. Thành xiêu cờ đổ bóng gầy, Bên sông gấp gấp tiếng chày giặt sa. Mưa bay đồi núi phai nhoà, Tiếng chuông sơn tự, canh gà ải quan. Đôi vườn cúc nở mơ màng, Hiu hiu giãi một sắc vàng buồn tênh. Ngang đường quán rượu chênh vênh, Long đong vó ngựa trôi nhanh xuống đồi. Xóm làng rải rác nơi nơi, Lụa người người dệt, con người người ru. Thị thành cát bụi bay mù, Ngổn ngang một lũ trong tù đào sông. Dần dà đã hết mùa đông, Cỏ cây e ấp giữa lòng lá non. Xuân về khắp cả giang sơn, Đã hay cửa cũ xanh rờn lầu xưa. Đón xuân thiên hạ nhởn nhơ, Leo đu ngoài nội đỏ thơ trong đình. Xôn xao gái tốt nhà lành, Thương ôi! Tiều tuỵ một mình Ngũ nương. Hỏi thăm từng một độ đường, Bao lâu rồi chẳng đến Trường An cho. Lem nhem mặt bụi mày tro, Mắt thơ kém biếc má thơ nhạt đào. Đêm sương ngày nắng từ bao, Ốm o thục nữ xanh xao liễu hồ. Gặp kỳ nguyên đán bấy giờ? Ngũ nương ráng sắm đủ đồ hương hoa. Treo tranh lên một gốc đa, Lại quay về hướng quê nhà phương đông. “Có thương con trẻ long đong, Phù cho được gặp mặt chồng nay mai. Dù chàng ăn ở đơn sai, Cũng xin chẳng dám nửa lời làm chi. Hay hèn đành thói nữ nhi, Lỡ ra thôi có tiếc gì thân con. Cốt sao tình hiếu vuông tròn, Cốt sao giữ tấm lòng son vẹn toàn. Giàu sang cũng thể nghèo nàn, Chết đi cũng đến hai lần tay không?” Từ phần rỏ lệ ngùi trông, Đường xa dặm thẳm cô bồng lại bay. Lần lần đàn hát đó đây, Mùa xuân hết chín mươi ngày như chơi. Nắng lên đã chói quê người, Tiền sen đã đúc xanh tươi mặt hồ, Nghe đồn sắp đến kinh đô, Ngũ nương lòng những nửa lo nửa mừng. Phần lo duyên phận nửa chừng, Tay nâng chén muối, đĩa gừng nhớ quên? Phần mừng mai mốt Trạng nguyên Tha hương gặp gỡ vợ hiền thuỷ chung, Bấy lâu cách mặt xa lòng, Mẹ cha đã khuất mà chồng chẳng hay. Chàng nên danh phận dường này, Mồ hai thân đã mọc đầy cỏ xanh. Biết bao công đức sanh thành, Làm con phải nhớ lấy tình mẹ cha. Trống chiêng rộn rã nẻo xa, Dường như ở đó người ta hội chùa. Ngũ nương thân thể mỏi rừ, Lòng sương từ sáng đến giờ chưa ăn. Tìm đường cố gắng dừng chân, Rẽ vào đàn hát qua lần lấy no, Đến nơi quã thực hội chùa, Thiện nam tín nữ đông như kiến đàn. Ngũ nương cất nhẹ tiếng vàng, Dạo lên một khúc đoạn tràng quen tay. Tiếng đàn đậm nhạt mây bay, Nhặt thưa gió quyện vơi đầy triều âm. Bỗng không vò võ cung Hằng, Bỗng không nổi sóng đất bằng cung Ngô. Bỗng không cát trắng đất Hồ, Bỗng không nước đục đôi bờ sông Ngân, Như xa thôi lại như gần, Cao dần lại thấp, thấp dần lại cao. Hát rằng: “Chín chữ cù lao, Làm con phải trả thế nào hỡi ai! Con nuôi cha mẹ kể ngày, Mà công cha mẹ xem tày bể non. Thiếp tôi mười sáu tuổi son, Vợ chồng sum họp mới tròn hai trăng. Chồng tôi ứng thí Tràng An, Sớm trông chiều ngóng đã tàn thu đông, Phận nuôi cha mẹ thay chồng, Dám đâu quỳ hoắc héo lòng hôm mai. Đỗ xanh mọc kín bãi rồi, Một năm đằng đẵng chồng tôi không về. Một mình cày mướn may thuê, Gặp năm kém đói giữa khi thanh bần. Lấy gì phụng dưỡng hai thân, Mẹ cha lại bỏ cõi trần mà đi. Đem lòng tử biệt sinh ly, Mồ công cố đắp quản gì một thân. Một tờ tranh một cây đàn. Đi hành khất tới Tràng An tìm chồng. Biết rằng có gặp nhau không. Biết rằng gặp có một lòng như xưa. Thôi thì thân gái hạt mưa Vũng lầy giống ngọt cũng chừ người ta. Nửa năm bỏ cửa bỏ nhà, Nằm gai nếm mật đường xa dặm dài. Lòng này than thở cùng ai, Chàng ơi! Sao chẳng đoái hoài quê hương? Hay gì lưu lại bốn phương, Nhớ câu “phụ mẫu tại đường” hay quên? Hay là bầu rượu lắm men, Mảng vui quên hết lời em dặn dò. Dù chàng phú quí kinh đô, Mà hai thân đã yên mồ từ lâu. Vậy thì chín chữ cù lao, Chàng ơi! Trả đến kiếp nào cho xong?” Tay run giọng yếu não nùng. Người nghe ai cũng chạnh lòng rơi châu. Còn đương giọng ướt tỏ sầu, Trống cờ rộn rã từ đâu tiến vào, Mọi người nhốn nhác xôn xao, Giạt ra nhường lối võng đào kiệu hoa. Vợ chồng quan Trạng tân khoa. Hiệu còi dồn bước, tiếng loa dọn đường. Ngũ nương đứng nép bên đường, Trông lên thật đã rõ ràng, than ôi! Xa nhau mới một năm trời, Người ngồi trên kiệu phải người đâu xa. Người ngồi trên kiệu trông ra, Giật mình nhận thấy để mà quay đi. Vòng sau quay kín nữ tì, San hô cẩn bánh, lưu ly buông mành. Ngũ nương ngờ cả mắt mình, Hỏi người bên cạnh xem tình thực hư. Người rằng: “Con rễ Thái sư, Vợ chồng ý hẳn vào chùa hành hương.” Nàng rằng: “Tôi kẻ viễn phương. Xin cho được biết tỏ tường họ tên.” Người rằng: “Đệ nhất uy quyền, Ông này vừa đỗ Trạng Nguyên năm rồi, Chính tên là Thái Bá Giai, Rể quan Thừa tướng ai mà không hay!” Ngũ nương nghe hết lời này. Ruột gan thắt quặn, mặt mày tối tăm. Thôi, thôi, thôi chẳng còn nhầm, Đứng đây nào có phải nằm chiêm bao? Bây giờ chức trọng quyền cao, Vợ con thừa tướng ai nào nhớ ai? Hỡi ơi! được cá quên chài Được cây quên búa, được người quên ta, Được rày quên mẹ, quên cha, Đến như phụ mẫu nữa là phu thê. Khi xưa nói nói, thề thề, Bây giờ bẻ khoá trao chìa cho ai. Duyên mình đến thế thì thôi, Cam thân nghèo khổ mặc người giàu sang. Nhất tâm bỏ ngãi quên vàng, Công hầu khanh tướng cũng bằng vất đi. Đã lầm một chữ vu quy, Thân này thôi dám bận gì đến ai? Uổng đời quần vải thoa gai? Qua đường hờ hững con người ăn xin. Nàng bèn cắn ngón tay tiên, Giở tranh cha mẹ viết lên vài dòng. “Tôi Ngũ nương họ Triệu, Quê ở quận Trần Lưu. Vợ chồng hai tháng mới cùng nhau Nam Bắc đôi nơi đã cách rẽ, Phận là gái vì chồng nuôi bố mẹ, Nhà thì nghèo nhiều nỗi đáng thương tâm, Khi dưỡng sinh ăn cám để nhường cơm, Lúc tống tử lo ma mà cắt tóc, Lòng thiếu phụ tơ vò chín khúc, Mồ công cô tay đắp hai ngôi. Tỳ bà ai oán vì ai. Nước non lặn lội xa khơi tìm chồng.” Nàng tìm đến chốn trai phòng, Đưa tranh quỳ lạy sư ông cậy lời. Từ bi người hãy vì tôi, Dâng tranh này tới mặt người Trạng nguyên. Dù ngài có hỏi căn duyên, Xin sư đừng có nói thêm lời nào. Trường An xe ngựa xôn xao, Phơi đầy gấm vóc, chất cao bạc vàng. Vui rực rỡ, sướng huy hoàng, Cái giàu vô tận, cái sang vô cùng. Bỏ quên đây cái thuỷ chung, Bỏ quên đây một tấm lòng bơ vơ. Nàng đi trong bóng chiều mờ, Nàng đi trong tiếng chuông chùa ngân nga. Nàng đi với chiếc tỳ bà, Nước non thôi hết ai là tri âm. Nàng đi từng bước âm thầm, Đầu xanh tóc ngắn áo chàm màu tang. Nàng đi hạc nội mây ngàn, Bóng đêm vùi lấp bóng nàng rồi thôi. Chập chờn ánh lửa ma trơi, Từ nay thực có một người bị quên. Sang sông trót lỡ chuyến thuyền, Tiếng tỳ bà có nổi lên lần nào! Hay là huyền tuyệt diệu cao, Nghìn thu chẳng để lọt vào giai nhân. Từ khi lạc với cây đàn, Chẳng ai còn thấy bóng nàng Ngũ nương. Truyện thơ Lục bát
29873
https://vi.wikisource.org/wiki/Hu%E1%BA%BF%2C%20%C4%90%E1%BA%B9p%20v%C3%A0%20Th%C6%A1
Huế, Đẹp và Thơ
Đẹp và thơ (Cô gái Kim Luông) Sóng bạc tình Vườn cau Nam Phổ Huế, ngày hè Huế, đêm hè Huế, mưa dầm Núi Ngự, sông Hương Trước chùa Thiên Mụ Cánh cửa Mùa đông, cánh đồng An Cựu Khiêu vũ 1935 Ngại ngùng khi bước chân ra Trên núi Ngự Giận khúc Nam ai Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn Tiếng chuông Diệu Đế Khóa xuân Hái hoa hồng Liên tưởng Nụ cười giai nhân Sơn còn ướt Cảnh quê Hà Nội, mưa phùn Nắng thu Điếu thuốc cháy suông Anh chài tự đắc Bài hát của đại phi công Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ Một câu thơ của ông Tú Mỡ Bỏ quách lối thơ xưa Eng Gặp khách đong đưa Cầu bạn Đời người Tôi và ta Chôn hoa Sầm Sơn trường hận Tập thơ
29874
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B9p%20v%C3%A0%20th%C6%A1%20%28C%C3%B4%20g%C3%A1i%20Kim%20Lu%C3%B4ng%29
Đẹp và thơ (Cô gái Kim Luông)
(Kính tặng ông và bà Thiollier) Kim Luông nhiều ả mỹ miều Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi. Vua Thành Thái Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng, Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo. Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo. Thuyền qua đến bến; cô lui lại, Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo. Đăm đăm mắt mỏi vì chèo, Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng. Biết không? Cô hỡi, biết không? Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao! Đổi “sóng lòng còn sao” thành “sóng lòng còn xao”. Thơ Việt Nam
29875
https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%B3ng%20b%E1%BA%A1c%20t%C3%ACnh
Sóng bạc tình
(Kính tặng ông và bà Phan Đình Chi) Khách du vớt được mảnh giấy nhỏ Bình bồng trên mặt nước Hương Giang; Bức thư tuyệt tình; lòng ai oán, Thiếu nữ vô danh khóc duyên tàn Nửa năm về trước, một đêm thanh, Sóng nước Hương Giang dợn sóng tình. Câu chuyện nước non thừa gắn bó... Trước thuyền trăng bạc rọi đầu xanh. Thơ tàn một bức mong manh, Nước chao nhưng nét mực xanh chưa loà. Duyên xưa sao khéo đượm đà! Mà nay tình lại phôi pha cõi lòng? Ai gieo thơ xuống mặt sông? Phó cho gió đẩy với giòng nước đưa? Biết ai mà hỏi bây giờ? Dải Trường Giang vẫn lờ đờ về Đông... Nếu ta hiểu được giòng Hương thuỷ, Tâm sự còn bao khúc não nùng! Tọc mạch, trăng non mò đáy nước, Mỉa mai dòm tận mặt tình chung. Thơ Việt Nam
29876
https://vi.wikisource.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20cau%20Nam%20Ph%E1%BB%95
Vườn cau Nam Phổ
Tặng Tạ Quang Bửu Cô gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau (Ca dao) Trung thu: cô độc quả trăng tròn... Chỉ có sân Trời vắng trẻ con. Ánh lướt da cau phơi vẻ trắng: Thoạt trông còn ngỡ chiếc đùi non. Thơ Việt Nam
29877
https://vi.wikisource.org/wiki/Hu%E1%BA%BF%2C%20ng%C3%A0y%20h%C3%A8
Huế, ngày hè
(Tặng Hà Xuân Tế) Lửa hạ bừng bừng cháy, Làn ma trốt trốt bay. Tiếng ve rè rè mãi Đánh đổ giấc ngủ ngày. Đường sá ít người đi, Bụi cây lắm kẻ núp, Xơ xác quán nước chè, Ra vào người tấp nập. Phe phẩy chiếc quạt tre, Chú nài ngồi đầu voi Thỉnh thoảng giơ tay bẻ Năm ba chùm nhãn còi. Huê phượng như giọt huyết, Giỏ xuống phủ lề đường. Mặt trời gay gay đỏ Nhuộm đỏ góc sông Hương. Thơ Việt Nam
29878
https://vi.wikisource.org/wiki/Hu%E1%BA%BF%2C%20%C4%91%C3%AAm%20h%C3%A8
Huế, đêm hè
Trời nóng băm bốn độ. Đèn, sao khắp đế đô, Mặt trăng vàng, trỏn trẻn Nấp sau nhánh phượng khô. Ba dịp cầu Trường Tiền Đứng dày người hóng mát; Ngọn gió Thuận An lên, Áo quần kêu sột sạt. Đủng đỉnh chiếc thuyền nan Qua, lại bến sông Hương... Tiếng đờn chen tiếng hát, Thánh thót điệu Nam Bường. Hai tay xách hai vịm, Một vài mụ le te, Tiếng non rao lảnh lói: Chốc chốc: "Ai ăn chè?" Thơ Việt Nam
29879
https://vi.wikisource.org/wiki/Hu%E1%BA%BF%2C%20m%C6%B0a%20d%E1%BA%A7m
Huế, mưa dầm
Tặng Nguyễn Lân Đã quá nửa tháng rồi Mà mưa, mưa chẳng dứt. Lúng túng cảnh nhà pha, Ai ai xem cũng bực. Rải rác, chú phu xe Co ro thân mèo ướt, Lóng ngóng các ngã ba, Lù xù như gà xước. Con bạc họp tứ tung Tha hồ xe, pháo, mã. Rét mướt đánh càng hay: Được tiền mua áo dạ. Đạo đức các cụ ta Giở chuyện cũ ra bàn. Dưới nhà, cô nổi lửa: Lốp - đốp nhả ngô rang. Thơ Việt Nam
29880
https://vi.wikisource.org/wiki/N%C3%BAi%20Ng%E1%BB%B1%2C%20s%C3%B4ng%20H%C6%B0%C6%A1ng
Núi Ngự, sông Hương
(Thơ gửi cho một ông bạn Nam Kỳ) Anh đã đến Huế rồi, Anh đã biết Huế chưa? Ví đã biết Huế rồi Thì đã hiểu Huế chưa? Hiểu rồi cũng ngỡ là chưa, Mà chưa nào biết rằng chưa hay rồi. Ra đi lòng những bồi hồi, Biết chăng? Chẳng biết rằng rồi hay chưa. Huế tôi, cảnh đẹp như mơ. Đế đô là một bài thơ muôn vần. Tay tiên dù nắn bút thần Cũng đành bỏ lắm những phần thanh tao. Ngự Bình như thấp, như cao, Nhạt màu mây móc, đượm màu cỏ hoa. Gió đờn, thông dịp, chim ca, Hoạ vần thoang thoảng một vài khúc tiêu. Hương Giang: cô gái mỹ miều, Tấm thân bay bướm láy chìu nhởn nhơ, Trời xuân rải bóng dương tà: Dưới hoa óng ả một vài tiểu thơ. Đêm thu trăng tỏ nước mờ, Chiếc thuyền bé tí bên bờ cỏ hoen; Điệu đờn vút tận cung tiên, Ung dung tỏa nhẹ xuống miền nhân gian Ru hồn một giấc mang mang Êm như mặt nước mơ màng biếng trôi. Anh tìm cảnh lịch đến chơi Thì anh đã hiểu Huế rồi hay chưa? Thơ Việt Nam
29881
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ch%C3%B9a%20Thi%C3%AAn%20M%E1%BB%A5
Trước chùa Thiên Mụ
(Phỏng theo điệu bài “Đằng Vương các” của Vương Bột) Êm êm dòng nước Hương Giang chảy, Xúm xít thuyền con chỗ ba, bảy. Tiếng hát ngư ông đẫm bóng cây Như luồng khói nhẹ, lên, lên mãi. Tháp cao dòm nước: vết meo trôi. Đồi thấp sừng trăng dõi dõi soi. Mờ ớ, xa xa gà gáy sáng... Trong chùa cảnh cảnh tiếng chuông hồi. Thơ Việt Nam
29882
https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%A1nh%20c%E1%BB%ADa
Cánh cửa
(Tặng em Ngọc Lê) Cánh cửa mở ra rồi khép lại, Chờ anh mà chẳng thấy anh về. Bóng em mờ, tỏ đi rồi đứng Trước ngọn đèn chong. Trống điểm khuya. Đi đâu? Đi mãi đến bây giờ? Cảnh tượng đìu hiu dễ chán chưa! Con trẻ nhác chơi còn ú-ớ, Vú già mất ngủ vẫn: "ờ-ơ..." Trăng lên xóa đốm sao mờ. Sông Hương thuyền đậu còn chờ khách xuân; Khách xuân lải rải xuống thuyền... Gió êm ru tiếng độc huyền, não thay! Đi đâu? Hay đến chốn này? Riêng, chung với khách đêm, ngày điểm trang, Chiếm lòng mượn những phố đàn Bắt tâm hồn phải mơ màng, tê mê? Cánh cửa mở ra rồi khép lại. Chờ anh mà chẳng thấy anh về. Bóng em mờ, tỏ đi rồi đứng Trước ngọn đèn chong. Trống điểm khuya. Thơ Việt Nam
29883
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C3%B9a%20%C4%91%C3%B4ng%2C%20c%C3%A1nh%20%C4%91%E1%BB%93ng%20An%20C%E1%BB%B1u
Mùa đông, cánh đồng An Cựu
(Tặng Đào Duy Anh) Lá bàng Như lá vàng Rụng. Ôi! đìu hiu Cảnh chiều Đông! Ruộng ngập: mênh mông Nước phẳng. Cò bay, yên lặng, Quanh đồng. Thi tứ viễn vông: Thần Tưởng tượng Như đàn có đói lượn Đồng không. Thơ Việt Nam
29884
https://vi.wikisource.org/wiki/Khi%C3%AAu%20v%C5%A9%201935
Khiêu vũ 1935
Tặng Nguyễn Xuân Nghị Bốn cặp xôn xao nhảy, (Một cô nũng nịu cười) Trẻ, già đông như hội Đến xem gái tân thời. Quanh phòng chen đứng chật Nào phu lít, phu xe. Nào thầy thông, thầy phán, Mụ bán đậu, bán chè. Miệng nhai trầu bỏm bẻm, Bà lão vỗ vai chồng: "Này ông, sao họ thích "Chơi ngón lạ thế ông?" Bác đồ sành xỏ ngọt Giảng: "Thọ, thọ bất thân Nghĩa nôm là trai gái Phải ăn chung ngồi gần". Dăm ba thằng mách qué Dắt nhau ra sân ngoài, Giang may mà nhảy nhót Như nhưng cặp choi choi. Trong phòng kèn máy rú. Cô, cậu vẫn vin nhau Tới, lui chẳng đúng dịp: Khi chậm lại khi mau. Dân ta, dân chủ cựu, Thấy mới tất nhiên chê. Xưa kia bao người nói: "Hớt tóc để bợ Tây". Này phong trào Khiêu vũ Lan rộng khắp nơi nơi. Lắm ông khè khà phán: "Ôi! Phong hoá suy đồi!" Thơ Việt Nam
29885
https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%E1%BA%A1i%20ng%C3%B9ng%20khi%20b%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ch%C3%A2n%20ra
Ngại ngùng khi bước chân ra
Trả lời Hán Thu Bạn ơi! Chớ ngại đường xa, Đường xa nhưng cũng có ta cùng mình. Cám ơn bạn tặng bức hình Với thơ một mảnh đượm tình chi lan. Đồng thanh tương ứng, Vì xa xôi nên luống những nhớ nhung. Bước chân đi xin chớ ngại ngùng Thì muôn dặm, nghìn trùng xem cũng ngắn. Khách Hương. Thuỷ đá ai đó đắn, Trời Thần kinh cười tớ hững hờ. Vắng chi âm cạn sạch nguồn thơ. Đờn Bá tử còn chờ Chung tri kỷ. Chí quả quyết, trèo non là sự dễ. Cứ vào đi! Đi! Cứ vào đi! Thênh thênh đường cái.... lo gì? Thơ Việt Nam
29886
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C3%AAn%20n%C3%BAi%20Ng%E1%BB%B1
Trên núi Ngự
(Tặng Thân Trọng Khôi) I Trên núi Ngự Bình Bông sim đua nở, Bông trang chen nở, Một cô thiếu nữ Ngồi hát một mình. -Hỡi cô ngồi hát một mình, Vì ai cô hát đưa tình, hỡi cô? -Trên núi Ngự -Bình Chim cười, gió hát. Gió xui em hát, Chim giục em cười. Hỡi chàng công tử kia ơi! Lòng em khao khát những lời ái ân. II Trên núi Ngự Bình Gió chiều hiu hắt, Nhạc thông díu dắt Như khúc phong cầm Cô em vừa tuổi cài trâm Nẻo sim lững thững đi tìm xác hoa. Ngây thơ đâu nữa mà vờ! Thơ Việt Nam
29887
https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%E1%BA%ADn%20kh%C3%BAc%20Nam%20ai
Giận khúc Nam ai
Tặng Trần Đằng Đừng kể nữa những mảnh tình tan tác. Hãy đứng lên, Nhạc sỹ, với tôi, đi! Tôi ghét anh mê giọng hát sầu bi Và tung mãi tâm hồn thừa truỵ lạc. Hãy đứng dậy! Vứt chiếc cầm ảo não! Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng - Thét ngựa lòng phi mãi chẳng chồn chân - Sáng như gươm tuốt, mạnh như luồng bão. Ôi nhạc sĩ, thật anh người thậm tệ: Quan hoài chi những lối hát mê ly, Những câu ca không Đẹp lại không Thi Của kỹ nữ vọc cuộc đời ê chệ? Hãy cung kính nhượng các ngài tuổi tác Những bản đờn, dịp hát thiếu tinh thần. Hãy ra nghe sóng vỗ, ngắm mây vần Rồi sáng chế cho tôi vài điệu khác Thơ Việt Nam
29888
https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%93%20T%E1%BB%8Bnh%20T%C3%A2m%20hay%20chu%E1%BB%93n%20chu%E1%BB%93n
Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn
Tặng Đào Đăng Vỹ Trên mặt hồ thu Chuồn chuồn đạp nước. Con sau, con trước Vẽ bức hồi văn. Lững chững Chị Hằng Sắp rơi xuống nước. Lướt mặt hồ thu, Chuồn chuồn đạp nước, Bay xuôi, bay ngược, Dệt bức hồi văn Quyết đỡ Chị Hằng Khỏi rơi xuống nước. Nhưng Chị Hằng trên điện Quảng Hàn Thong dong dạo gót lối mây ngàn, Hững hờ nào biết chuồn chuồn đã Vì Chị cho nên nhọc cánh vàng. Thơ Việt Nam
29889
https://vi.wikisource.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20chu%C3%B4ng%20Di%E1%BB%87u%20%C4%90%E1%BA%BF
Tiếng chuông Diệu Đế
Tặng Phạm Phú Dõng "Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền" (Trương Kế) Theo trăng bóng vạc về rừng, Sương thu phủ kín mấy từng thành xưa. Bến sông thuyền ngủ lưa thưa, Tiếng chuông Diệu Đế gió đưa lại gần. Thơ Việt Nam Lục bát
29890
https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C3%B3a%20xu%C3%A2n
Khóa xuân
Tặng các bạn đồng sự toà Khâm sứ Huế Trời không lạnh. Trăng không mờ. Lòng em lạnh vì ngây thơ. Không khí ái tình em chửa tắm Em nhìn vũ trụ vẫn tiêu sơ. Biết đâu chú Cuội mỉa mai Rằng: "Người chừng ấy còn cài khoá xuân!" Chàng Ngưu trên bãi sông Ngân Cười rằng: "Chừng ấy, khoá xuân còn cài!" Tuổi em tính đã hăm hai Thân em. Chiếc bách dặm khơi bập bềnh. Tim ta như sợi đời tranh Trời sinh ra để đồng thanh với trời, Với mây, với nước, với đời. Những người phận hẩm là người ta yêu. Thơ Việt Nam
29891
https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A1i%20hoa%20h%E1%BB%93ng
Hái hoa hồng
Tặng Trương Xuân Mai Phơi phới cặp áo màu Đua cười với gió đông. Cô Hồng thong dong hái Một, hai, ba đoá hồng. Bóng người lẫn bóng hoa Hoa tươi, người thêm tươi. Hoa đẹp, người đẹp hái, Lòng đau miệng vẫn cười. Thi sĩ với cô Hồng. Cô Hồng với đoá hoa, Gắn bó dây thân ái. Đố ai dằng cho ra. Thơ Việt Nam
29892
https://vi.wikisource.org/wiki/Li%C3%AAn%20t%C6%B0%E1%BB%9Fng
Liên tưởng
Sai hẹn em chẳng đến Để anh xuôi, ngược trông. Trông em nào có thấy, Chỉ thấy cặp chim hồng. Chim hồng lững thững bay, Bay thấp rồi bay cao, Bốn cánh liền như chắp, Thân mật đã xiết bao! Thấy hồng! Không thấy Hồng. Ai gặp Hồng bảo cho Rằng: "Trông Hồng chẳng thấy, "Tấc dạ rối tơ vò." Thơ Việt Nam
29893
https://vi.wikisource.org/wiki/N%E1%BB%A5%20c%C6%B0%E1%BB%9Di%20giai%20nh%C3%A2n
Nụ cười giai nhân
Tặng Vũ Kiều Hồng Hôm qua em đến nhà anh, Em ngồi em ngắm bức tranh, em cười. Tranh tài thuốc vẽ thật tươi, Hôm nay tranh nhạt cái cười độc chưa? Khuynh thành, khuynh quốc, Cười Tây Thi đánh đổ nước Ngô xưa. Ai pha men mà quá say sưa Khiến những khách tài hoa thừa ngơ ngẩn. Sấn bước đường đời, lòng phấn chấn, Theo làn môi thắm, dạ bâng khuâng. Giết nhau chi độc vậy? Hỡi tình nhân? Mượn sợi ái, dây ân cười lại trói. Hỏi những đấng trượng phu trong ngũ hải: "Nụ cười tình ai giỏi bỏ qua?" Em cười, cá lặn, chim sa! Thơ Việt Nam
29895
https://vi.wikisource.org/wiki/S%C6%A1n%20c%C3%B2n%20%C6%B0%E1%BB%9Bt
Sơn còn ướt
"Auention à la peinture!" Tặng Mộng Trường Phạm Ngọc Bút Trong một bức tranh: Người thiếu nữ Chúm chím cười hoa, hoa ướm nở. Hoạ sĩ đã thu biết bao thần Vào tấm vải sơn. Dưới có chữ: "Sơn còn ướt. Xin đứng xa "Xem người cỡi hoa!" Từ khi hoạ sĩ gởi tặng tôi, Lạ hay! Đến nay sơn vẫn ướt! Đứng xa, tôi ngắm nét đan thanh: Áng tóc cô xanh dợn như nước. Từ đó tôi nuôi một mối tình, Mỗi khi nhàn hạ lại xem tranh. Có khi vô ý đứng lại gần Sực nhớ. Sơn ướt nên cẩn thận... Biết bao mỹ nữ đẹp như tranh, Như những bức tranh sơn còn ướt. Thơ Việt Nam
29896
https://vi.wikisource.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20qu%C3%AA
Cảnh quê
(Tặng anh tôi, Nguyễn Đình Nhiếp) Khao khát đồng chiêm uống giọt sương, Sương pha màu sữa dưới trăng mờ. Lều tranh xám xịt bâu sườn núi Sau dãy rào tre khúc rậm, sưa. Gò cao. Vòi trúc, uốn thành cung, Bắn... ồ cò non khóc lạnh lùng... Khúc khuỷu, cánh giơi, dường mắc cửi, Đưa qua, đưa lại khoảng không trung. Như đứa trẻ con nhọc ngủ mê, Làng ta yên lặng dưới trăng khuya, Ấy giờ thần Mộng thông tin tức: Những sự vui mừng, sự gớm ghê. Thơ Việt Nam
29897
https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0%20N%E1%BB%99i%2C%20m%C6%B0a%20ph%C3%B9n
Hà Nội, mưa phùn
Tặng Đoàn Phú Tứ Mưa phùn bay xứ xứ Pha lẫn đất, nước, trời. Trông qua: hồ Lăng Bạc Lồng lộng tựa bể khơi. Ngọn gió lạnh, như roi. Quấy mạnh vào hàng cây. Trơ trơ đền Trần Quốc, Lơ láo mấy ông thầy. Hoảng hốt, một thân chim Va ngay vào cánh cửa. Nhà thắp đèn sáng choang, Hẳn chim đi tìm lửa. Lướt mướt trên lề đường, Người lại với kẻ qua, Miệng câm. Môi tê tái, Lạnh ngắt một đàn ma. Thơ Việt Nam
29898
https://vi.wikisource.org/wiki/N%E1%BA%AFng%20thu
Nắng thu
Tặng Hoàng Khôi Hát bài hát ngô nghê và êm ái, Bên sườn non, mục tử cỡi trâu về, Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê, Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái. Trên suối nhỏ, chiếc cầu treo hẻo lánh Tốp người qua, lẩy bẩy vịn thanh ngang Lũ trẻ con sung sướng nổ cười vang Đùa với bóng chảy theo giòng nước lạnh. Dãy núi tím bỗng thay mầu xanh ngắt Rồi ố làn trong giây khắc nhá nhem. Âm thầm cảnh vật vào Đêm: Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cũng tắt. Thơ Việt Nam
29899
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90i%E1%BA%BFu%20thu%E1%BB%91c%20ch%C3%A1y%20su%C3%B4ng
Điếu thuốc cháy suông
Tặng thi sĩ Thế Lữ Điếu thuốc đốt xong, anh để cháy, Khói thơm lên nhẹ giữa phòng không. Thản nhiên thuốc cháy vì anh bận Nghĩ chuyện bâng quơ, chuyện viển vông. Cửa hé thoảng đưa cơn gió mát, Lửa loe. Hoảng hốt khói bay tung. Trải qua phút ấm, bình tro lại Quạnh quẽ chìm trong cảnh lạnh lùng. Quay lại, mắt anh còn đắm đuối Nào hay thuốc đã cháy bao giờ! Em son, em đẹp, Anh lơ đễnh Quên cuộc tình duyên, chỉ vẩn vơ. Thơ Việt Nam
29900
https://vi.wikisource.org/wiki/Anh%20ch%C3%A0i%20t%E1%BB%B1%20%C4%91%E1%BA%AFc
Anh chài tự đắc
Tặng Nguyễn Ân Dù nắng, dù mưa, tôi cũng vẫn Đem thân ra trước vũ đài. Bước cao, bước thấp, dẵm bùn, gai Bến sâu, từ từ lội, Vực thẳm tiến rài rài. Một chiếc lưới thần, tay bủa nhẹ: Cá, tôm đua mắc, không sai! Vợ tôi, lớn bé khen tôi tài. Không tại sao giữ được Thân thế một anh chài? Nó còn ngồi đó, xin ông hỏi Một trự chưa từng mượn đến ai! Thơ Việt Nam
29901
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20%C4%91%E1%BA%A1i%20phi%20c%C3%B4ng
Bài hát của đại phi công
Tặng các anh em hội viên hội "Quảng Tri" Huế Trên chiếc máy bay đùa với gió. Phi công đã vượt khỏi từng mây. Cúi mặt xem: Những bể sóng, rừng cây Chỉ thoảng thoảng vết xanh, đen, vàng, đỏ... Nghĩ. "Trên mặt đất, cõi xa xăm đó, "Đương chạy xuôi, chạy ngược biết bao người." Rồi cặp môi nhúm nửa nụ cười! Xa địa giới ngẫm nhân gian nhiều việc nhỏ. Rồi ngài để máy chặt mây, chém gió, Hát vài câu như riêng ngỏ với trời. Hát rằng: "Nhắp cánh chim bay. "Cỡi mây ta bay, "Bay cao cho quá, "Quá chín từng mây. "Từng mây mạo hiểm xa bay "Ta bay ta lánh người say mồi tiền. "Bay cao cho thoả chí nguyền "Nào ta có muốn để tên với đời." Máy kêu như sấm vang trời. Hoá công nhường đã hiểu lời Phi công. Thơ Việt Nam
29902
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20th%C6%A1%20nh%E1%BA%A5t%20c%C3%BA%20hay%20l%C3%A0%20n%E1%BB%97i%20kh%E1%BB%95%20t%C3%A2m%20c%E1%BB%A7a%20thi%20s%C4%A9
Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ
Tặng Phạm Phú Hàm Muốn ngỏ ý cùng tình nhân vừa quen biết, Thi sĩ non mài miệt với bài thơ. Nào bằng, nào trắc, nào phá, nào thừa... Mắt mơ mộng, chàng ngồi chờ Yên sĩ Chờ Yên sĩ...! có phải đâu sự dễ: Nàng thơ nào như các chị em xoàng! Nàng vui chơi Bích thuỷ, Lam san Để mặc khách bàn hoàn thơ với... thẩn. Chàng nghĩ mãi, mồ hôi sa, chí phẫn, Nõi nhớ nhung càng lận đận khôn khuây. Mãi sau chỉ được câu này: "Từ hôm kỳ ngộ đêm, ngày nhớ em"! Thơ Việt Nam
29903
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%99t%20c%C3%A2u%20th%C6%A1%20c%E1%BB%A7a%20%C3%B4ng%20T%C3%BA%20M%E1%BB%A1
Một câu thơ của ông Tú Mỡ
Tặng Trần Ngọc Liễn (Giòng nước ngược) Em bảo rằng: “Anh có vợ rồi, Một bà thôi cũng đủ... yêu. Thôi” Ô hay! Quan niệm đã eo hẹp! Chẳng biết tình anh tựa bể khơi. Ai cấm ta yêu cả đất trời? Yêu cơn gió mát, đoá hoa tươi? Yêu sừng trăng bạc treo đầu núi? Yêu cặp môi son điểm nụ cười Viện tình do bước đến nơi: Truy hoan chung cuộc, gặp người tình chung. Về đi! Về với anh cùng. Vườn xuân thêm được khóm hồng thêm xuê! Thì cứ về đi! Ngại nỗi chi? cho Đứng lên, ngồi xuống, mệt chưa tề! Có đâu chẳng được phần âu yếm Mà sợ về sau tiếng bấc, chì? Ái tình: một mối huyễn vi. Công đâu thị thị, phi phi nhọc lòng. Trăng khuya ngấn bạc mây lồng, Về đi! Kẻo chị ngồi trông canh chầy. Thơ Việt Nam
29904
https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BB%8F%20qu%C3%A1ch%20l%E1%BB%91i%20th%C6%A1%20x%C6%B0a
Bỏ quách lối thơ xưa
Tặng Trần Thanh Mại Bỏ quách lối thơ xưa Vì nó chẳng hợp thời. Luật Đường xin gói lại Đem trả chú con trời. Ở thế giới cạnh tranh Quốc văn cần giải phóng. Khuôn khổ vứt đi, thôi! Hoạt động dành lấy sống. Chữ ít, ý tưởng nhiều, Nhạc luật tuỳ tác giả. Người hát cũng như chim: Lắm điều hay và lạ. Ta có sẵn ao ta. Sao tắm mãi ao người? Ta có nhiều vật liệu Phong cảnh đẹp và tươi. Chớ vịnh hồ Động Đình. Chớ đề thơ núi Thái, Chớ tả cảnh đâu đâu Mắt ta chưa từng thấy. Tính tình người An Nam An nam còn ù tịt. Các cụ, muốn loè đời, Viết pho tâm sự chệch! Bệu bạo khóc Tây Thi Nghênh ngang cười Thái Bạch. Ngũ Đế với Tam Hoàng. Ý nghĩa! Ôi! Rỗng tuếch. Theo mãi lối thơ Đường Hỏng, hỏng đã thấy chưa? Nhả ra, đừng nhai nữa Những bà cặn còn lưa. Thơ Việt Nam
29905
https://vi.wikisource.org/wiki/Eng
Eng
Tặng Phạm Hữu Khánh Ai eng chè đậu doáng? Ai eng đậu hảu không? Ai eng hột dịt lộn? Bánh ít ngọt? Xôi hông...? Đến Faifao, khách lạ, Ai nấy cũng dửng dưng: Quảng Nam đất văn vật Sao lắm bợm "eng hung"? Eng hung và uống nhiều. Thần Dạ dày muôn tuổi! Đặc điểm có gì đâu? Chè ngọt gia tí... muối. Vì thế nên ngày xưa, Thí sinh ra đất Huế, Môn chữ càng được khen, Môn "eng" càng bị chê. Thơ Việt Nam
29906
https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BA%B7p%20kh%C3%A1ch%20%C4%91ong%20%C4%91%C6%B0a
Gặp khách đong đưa
Tặng Đoàn Nẫm Nhiều duyên, em bán đông, đoài Nhiều văn anh bán cho ai bây giờ! Hôm nay, túi bạc xác vờ. Đem văn anh đến đổi nhờ duyên em. Hồn vơi phải buổi khát. thèm... Tơ đồng rỉ tiếng trong đêm mơ mòng. Khúc ca thấm tận đáy lòng: Nát bàn âu cũng trong vòng Ái Ân. Lấy chi báo đáp ân nhân? Tiện đây xin tặng mấy vần thi ca. Mai sau em đến tuổi già. Bên đèn hãy lựa hát vài bốn câu: Đũa tiên gạt đổ thành Sầu Hăm người kỹ nữ nhạt mầu phấn hương. Thơ Việt Nam Lục bát