id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
618
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
208604 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tundla%20Kham | Tundla Kham | Tundla Kham là một thị trấn thống kê (census town) của quận Firozabad thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
Nhân khẩu
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Tundla Kham có dân số 5156 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Tundla Kham có tỷ lệ 74% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 82%, và tỷ lệ cho phái nữ là 65%. Tại Tundla Kham, 15% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
Tham khảo
Thành phố thuộc bang Uttar Pradesh |
358372 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Saint-Christophe-en-Bazelle | Saint-Christophe-en-Bazelle | Saint-Christophe-en-Bazelle là một xã ở tỉnh Indre khu vực trung bộ Pháp. Xã này có diện tích 13,94 km², dân số thời điểm năm 1999 là 374 người. Khu vực này có độ cao trung bình 111 mét trên mực nước biển.
Xem thêm
Xã của tỉnh Indre
Tham khảo
INSEE commune file
Saintchristopheenbazelle |
448547 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Champagneux | Champagneux | Champagneux là một xã thuộc tỉnh Savoie trong vùng Rhône-Alpes ở đông nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao từ 207-820 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
INSEE
Xã của Savoie |
929840 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sastroides%20indica | Sastroides indica | Sastroides indica là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Jacoby miêu tả khoa học năm 1894.
Chú thích
Tham khảo
Sastroides |
955745 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Geranomyia%20recondita%20recondita | Geranomyia recondita recondita | Geranomyia recondita là một phân loài ruồi của loài Geranomyia recondita trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Chú thích
Tham khảo
Geranomyia
Limoniidae ở vùng Neotropic |
299196 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Boussenac | Boussenac | Boussenac là một xã ở tỉnh Ariège, thuộc vùng Occitanie ở phía tây nam nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Ariège
Tham khảo
Xã của Ariège |
916886 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chaetocnema%20tuckeri | Chaetocnema tuckeri | Chaetocnema tuckeri là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Biondi & D'Alessandro miêu tả khoa học năm 2006.
Chú thích
Tham khảo
Chaetocnema |
243218 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Harun%20Al-Rashid | Harun Al-Rashid | Hārun Al-Rashīd; cũng được gọi là Harun Ar-Rashid, Haroun Al-Rashid hay Haroon Al Rasheed, Harun Người Chánh Trực; 17 tháng 3, 763 – 24 tháng 3, 809) sinh ra ở Rayy gần Tehran, Ba Tư là vị khalip thứ năm của nhà Abbas của Baghdad, tại vị từ năm 786 đến 809. Ông được xem là vị vua kiệt xuất của nhà Abbas, là người đã đưa nền chính trị và văn hóa của đế quốc Ả Rập lên tới tột đỉnh vinh quang. Dưới triều đại ông, Baghdad là trung tâm nghệ thuật của thế giới Hồi giáo.
Thân thế
Harun Al-Rashid chào đời ở tỉnh Tehran của Iran. Ông là con trai của al-Mahdi (775 – 785) - khalip thứ ba của nhà Abbas và al-Khayzuran - từng là nô lệ ở Yemen.
Trị vì
Harun Al-Rashid lên kế vị năm 786 sau khi vua anh al-Hadi (785 – 786) qua đời.
Triều đại của Rashid cho thấy sự phồn vinh của khoa học & công nghệ, văn hóa và tôn giáo. Nền mỹ thuật và âm nhạc cũng phát triển thịnh vượng trong thời kì này. Rashid cho thành lập thư viện Bayt al-Hikma ("ngôi nhà của sự khôn ngoan").
Ngoại giao
Harun al-Rashid đã mở rộng cương thổ của đế quốc Abbasid. Trong các năm 805-806 quân của ông gây chiến với đế quốc Đông La Mã, và đánh thắng hoàng đế Nikephoros I Logothetes trong trận Krasos tại Phrygia năm 805).
Rashid giao hảo với vương quốc Frank và nhà Đường ở Trung Hoa. Cụ thể là ông đã tặng cho vua Frank là Charlemagne hai con voi trắng (802), và trao đổi các sứ giả với hoàng đế nhà Đường của Trung Hoa.
Năm 807, Rashid cho quân thảo phạt đảo Síp. Hai năm sau (809), quân của ông 5 lần đánh Abdulrrahman Ad-Dakhil ở Cyrus và thắng trận đầu ở miền bắc đảo này.
Qua đời
Ngày 24 tháng 3 năm 809, ông đột ngột mất ngay sau khi tiến đến làng Sanabad thuộc Tus trong khi đang thân chinh đàn áp cuộc khởi nghĩa của Rafi ibn al-Layth, một quý tộc Ả Rập gốc Khurasan. Ông được chôn cất tại Dar al-Imarah, cung điện mùa hè của thống đốc Khurasan là Humayd ibn Qahtaba.
Sau khi Rashid mất, con thứ của ông là Al-Amin lên thay.
Truyện cổ tích
Harun Al-Rashid là một nhân vật trong bộ truyện nổi tiếng Nghìn lẻ một đêm ở thành Bagdad. Trong truyện này, ông thường hay giả dạng thường dân đi xem xét dân tình.
Truyện tranh
Trong truyện và phim Nobita ở xứ sở nghìn lẻ một đêm, ông là người đã giúp đỡ rất nhiều cho Doraemon & các bạn.
Chú thích
Tham khảo
Bùi Đức Tịnh (biên dịch) Lịch sử thế giới, trang 105, Nhà xuất bản Văn hóa
John H. Haaren, Famous Men of the Middle Ages
Đọc thêm
al-Masudi, The Meadows of Gold, The Abbasids, transl. Paul Lunde and Caroline Stone, Kegan paul, London and New York, 1989
al-Tabari "The History of al-Tabari" volume XXX "The 'Abbasid Caliphate in Equilibrium" transl. C.E. Bosworth, SUNY, Albany, 1989.
St John Philby. Harun al Rashid (London: P. Davies) 1933.
Einhard and Notker the Stammerer, "Two Lives of Charlemagne," transl. Lewis Thorpe, Penguin, Harmondsworth, 1977 (1969)
John H. Haaren, Famous Men of the Middle Ages
William Muir, K.C.S.I., The Caliphate, its rise, decline, and fall
Theophanes, "The Chronicle of Theophanes," transl. Harry Turtledove, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, 1982
Liên kết ngoài
Nhà Abbas
Nghìn lẻ một đêm
Người Ả Rập |
867318 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ceriagrion%20rubellocerinum | Ceriagrion rubellocerinum | Ceriagrion rubellocerinum là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae.
Loài này được xếp vào nhóm Loài ít quan tâm trong sách Đỏ của IUCN năm 2009.
Ceriagrion rubellocerinum được miêu tả khoa học năm 1947 bởi Fraser.
Chú thích
Tham khảo
Ceriagrion |
333083 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cavron-Saint-Martin | Cavron-Saint-Martin | Cavron-Saint-Martin là một xã của tỉnh Pas-de-Calais, thuộc vùng Hauts-de-France, miền đông nước Pháp.
Dân số
Xem thêm
Xã của tỉnh Pas-de-Calais
The butcher's shop has now closed down
Tham khảo
INSEE
IGN
Liên kết ngoài
Cavron-Saint-Martin on the Quid website
Cavronsaintmartin |
851055 | https://vi.wikipedia.org/wiki/10980%20Breimer | 10980 Breimer | 10980 Breimer (4294 T-2) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được đặt theo tên Douwe Breimer, rector magnificus và president of the Executive Board thuộc Leiden University.
Tham khảo
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1973 |
858333 | https://vi.wikipedia.org/wiki/19475%20Mispagel | 19475 Mispagel | 19475 Mispagel (1998 HA91) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 21 tháng 4 năm 1998 bởi Nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 19475 Mispagel
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1998 |
212906 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong%20Nguy%C3%AAn%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 | Phong Nguyên (định hướng) | Phong Nguyên có thể là tên gọi của:
Phong Nguyên, huyện lỵ huyện Đài Trung, Đài Loan.
Thành phố Yuzhno-Sakhalinsk trên đảo Sakhalin, hay 豊原市 Toyohara theo cách gọi của Nhật Bản, âm Hán Việt là Phong Nguyên thị. |
779201 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%89nh%20qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%93n%20ca | Tỉnh quốc hồn ca | Tỉnh quốc hồn ca là tác phẩm của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, gồm hai phần (I và II) viết theo thể thơ song thất lục bát, nhưng ra đời vào hai thời điểm khác nhau trong lịch sử văn học Việt Nam.
Giới thiệu sơ lược
Tỉnh quốc hồn ca I
Năm 1906, Phan Chu Trinh đi Nhật Bản trở về, sau đó ông viết Tỉnh quốc hồn ca I. Năm 1907, tác phẩm được phổ biến lần đầu tiên trong các trường kiểu mới ở Quảng Nam và trong trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, sau đó lan truyền ra nhiều nơi khác.
Bấy giờ, có một số nhà yêu nước cho rằng nhân dân Việt đang ở trong mê mộng: mộng khoa cử, mộng quan trường, mộng xôi thịt,...hoặc nói một cách tượng trưng là hồn nước đã mê, đã lạc...cho nên phải gọi dậy để đi theo con đường tự lập, tự cường.... Vì lẽ đó, Tỉnh quốc hồn ca I và các tác phẩm đồng thời của các nhà chí sĩ khác, như Đề tỉnh quốc dân ca, Hải ngoại huyết thư, Á Tế Á ca, Chiêu hồn nước, Hợp quần doanh sinh thuyết, v.v...đã ra đời nhằm mục đích ấy.
Căn cứ Tây Hồ Phan Chu Trinh di thảo do Đốc học Lê Ấm xuất bản ở Quy Nhơn năm 1945, thì Tỉnh quốc hồn ca I gồm 472 câu thơ song thất lục bát, xếp vào 12 đoạn.
Trong đoạn đầu, sau khi nêu quá khứ vẻ vang oanh liệt của dân tộc Việt, tiếp đến là chỉ trích lỗi lầm của người trên kẻ dưới đã làm cho nước nhà lụn bại. Từ đó, tác giả đặt vấn đề: phải học tập theo người Âu, người Mỹ (nội dung của 11 đoạn sau). Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tác giả đã so sánh nhiều phương diện về dân khí dân trí của các nước văn minh trên thế giới với dân tình của nước Việt đại để như sau:
1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.
10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là "đầy tớ" của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...
Nhìn chung, tác phẩm cổ vũ một sự cách tân xã hội theo chiều hướng dân chủ tư sản, và đối tượng kêu gọi là tầng lớp trung lưu và thượng lưu lúc bấy giờ. Cùng với các bài hiệu triệu khác, Tỉnh quốc hồn ca I đã góp phần không nhỏ vào công cuộc canh tân tự phát của nhân dân (tức phong trào Duy Tân) vào đầu thế kỷ 20.
Tỉnh quốc hồn ca II
Phan Châu Trinh viết Tỉnh quốc hồn ca II vào khoảng năm 1922 khi đang lưu vong tại Pháp, trong bối cảnh còn nóng nổi những vấn đề thời sự; như việc giải ngũ và hồi hương những người lính mộ ở Đông Dương, cuộc ngự du sang Pháp của vua Khải Định (tháng 5 năm 1922)...
Buổi đầu tác phẩm chỉ được lưu truyền bằng chép tay, mãi đến năm 1925, tờ Việt Nam hồn mới đăng trọn bài, và sau đó được bí mật gửi về nước. Tháng 1 năm 1927, Tỉnh quốc hồn ca II được tờ Tân Thế kỷ cho đăng, nhưng bị sở Kiệm duyệt lúc bấy giờ cắt bỏ chỉ còn 310 câu.
Theo bản chép tay của bà Phan Thị Châu Liên (con gái đầu của Phan Châu Trinh), sau được in trong Thơ văn Phan Bội Châu, thì Tỉnh quốc hồn ca II gồm 480 câu thơ song thất lục bát, được phân thành 5 đoạn, có đại ý như sau:
- Đoạn mở đầu, nhắc lại quá khứ oai hùng của dân tộc Việt, đồng thời phê phán nhà Nguyễn đã nhắm mắt bắt chước luật pháp, khoa cử của nhà Thanh, đẻ ra một bộ máy cầm quyền hủ bại dẫn đến nước mất về tay thực dân Pháp.
- Đoạn 2 nhấn mạnh sự hy sinh xương máu và tiền của người Việt giúp nước Pháp trong Thế chiến I; nhưng lại bị nước Pháp đối đãi tệ bạc, lừa bịp, vắt chanh bỏ vỏ, tăng sưu thuế, giám sát và vơ vét cả khi người Việt đi lính trở về.
- Đoạn 3, công kích thực dân Pháp đầu độc dân Việt bằng thuốc phiện và rượu, đánh nhiều loại thuế vô lý, bắt bớ giam cầm người yêu nước, và cho lưu hành những thứ báo chí vô bổ trong khi cấm đoán sách báo tiến bộ.
- Đoạn 4, ngay ở chính quốc nhà nước Pháp cũng lập những tổ chức đàn áp Việt kiều, bày trò triển lãm, đưa các đoàn đại biểu sang Pháp "đóng tuồng", làm nhục quốc thể và hoang phí tiền của dân Việt.
- Đoạn cuối, phê phán hạng trí thức người Việt chỉ biết "nương hơi dựa bóng" làm cho người ta đi sai đường, lạc lối; và kêu gọi một sự hợp tác Pháp-Việt thực lòng, cũng như một chính sách tự trị cho Việt Nam.
Phần có giá trị lâu dài, là phần phê phán và tố cáo các hạng người trên, chiếm đến 80% chiều dài của tác phẩm.
Nhận xét
Sau khi phân tích và so sánh phần I và phần II của tác phẩm Tỉnh quốc hồn ca, Nguyễn Huệ Chi có nhận xét như sau:
...Nếu "Tỉnh quốc hồn ca I", Phan Châu Trinh có thể dùng lời lẽ bốp chát thoải mái; thì đến "Tỉnh quốc hồn ca II", đối tượng phê phán thay đổi, phải đối thoại trực tiếp với kẻ nắm quyền lực là nhà cầm quyền Pháp, nghệ thuật phê phán của ông cũng thay đổi. Không thể chỉ mặt vạch tên đối tượng bằng cách nói sỗ sàng, ngôn từ thông tục vốn là ưu thế của giọng thơ châm chích của ông được cân nhắc giảm thiểu, những câu chữ góc cạnh bị tước bớt, lời thơ có vẻ chừng mực, chỉn chu hơn. Thế nhưng nhìn cho kỹ, ở hai bài này vẫn giữ được ngữ khí của riêng ông...
Trích tác phẩm
Tỉnh quốc hồn ca I: Sau khi nêu quá khứ vẻ vang oanh liệt của dân tộc Việt, tiếp đến là chỉ trích lỗi lầm của người trên kẻ dưới đã làm cho nước nhà lụn bại. Trích giới thiệu một số câu:
Xem thêm
Phan Châu Trinh
Phong trào Duy Tân
Chú thích
Tham khảo
Nguyễn Huệ Chi, bài viết "Tỉnh quốc hồn ca và ngữ khí phê phán của Phan Châu Trinh" (bản điện tử:
Huỳnh Lý, mục từ "Tỉnh quốc hồn ca" trong Từ điển văn học (bộ mớ). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Huỳnh Lý - Hoàng Ngọc Phách, Thơ văn Phan Châu Trinh. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1983..
Bài thơ Việt Nam |
806988 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Suwanee | USS Suwanee | Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được mang tên USS Suwanee hay Suwannee, theo tên sông Suwannee tại Georgia và Florida:
USS Suwanee (1864) là một pháo hạm chạy guồng hông hai đầu, được đưa vào hoạt động năm 1865 và bị đắm năm 1868
USS Suwanee (1897) là một tàu tiếp liệu hải đăng thuộc Dịch vụ Hải đăng Hoa Kỳ đã phục vụ cho Hải quân trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ
USS Suwanee (ID-1320) là một tàu hàng được đưa vào hoạt động năm 1919
USS Suwannee (CVE-27) được trưng dụng năm 1941 như một tàu chở dầu hạm đội, cải biến thành một tàu sân bay hộ tống vào năm 1942, và đã phục vụ cho đến năm 1946
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ |
371756 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA%ADn%20Thi%C3%AAn%20Ho%C3%A0ng%20h%E1%BA%ADu | Thuận Thiên Hoàng hậu | Thuận Thiên hoàng hậu (chữ Hán:順天皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông.
Danh sách
Đường Trung Tông đệ nhị nhiệm Thuận Thiên hoàng hậu (gọi tắt theo tôn hiệu dài Thuận Thiên Dực Thánh Hoàng Hậu, cũng có khi gọi là Dực Thánh hoàng hậu)
Trần Thái Tông đệ nhị nhiệm Thuận Thiên hoàng hậu (gọi tắt theo thụy hiệu dài Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Hậu, đôi khi cũng gọi là Hiển Từ hoàng hậu, trước đây từng làm Thuận Thiên công chúa)
Nguyễn Thế Tổ Thuận Thiên hoàng hậu (gọi tắt theo thụy hiệu dài Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dụ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng Hậu, có khi lại gọi là Cao hoàng hậu, còn có những tôn hiệu khác như: Thánh Tổ Mẫu hoặc Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu)
Xem thêm
Thiên Thuận Đế
Thuận hoàng hậu
Mục hoàng hậu
Ai hoàng hậu
Nhân hoàng hậu
Hiển hoàng hậu
Thiên hoàng
Thiên đế
Thiên vương
Lệ Thiên hoàng hậu
Thiên hoàng hậu
Thụy hiệu |
415011 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Urbach%2C%20Nordhausen | Urbach, Nordhausen | Urbach là một đô thị ở huyện Nordhausen, trong bang Thüringen, Đức. Đô thị Urbach, Nordhausen có diện tích 25,26 km².
Tham khảo |
284228 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Montbrehain | Montbrehain | Montbrehain là một xã ở tỉnh Aisne, vùng Hauts-de-France thuộc miền bắc nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Aisne
Tham khảo
Xã của Aisne |
873264 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cernotina%20unguiculata | Cernotina unguiculata | Cernotina unguiculata là một loài Trichoptera trong họ Polycentropodidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Tham khảo
Trichoptera vùng Tân nhiệt đới
Cernotina |
366433 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Baud%2C%20Morbihan | Baud, Morbihan | Baud (Baod trong tiếng Bretagne) là một xã ở tỉnh Morbihan, vùng Bretagne tây bắc Pháp. Xã này có diện tích 48,09 kilômét vuông, dân số năm 1999 là 4813 người. Khu vực này có độ cao trung bình 88 mét trên mực nước biển.
Sông Ével tạo thành phần lớn ranh giới phía đông của xã, chảy theo hướng tây qua trung tâm Baud, tạo thành một phần ranh giới phía tây, sau đso chảy vào Blavet, tạo thành ranh giới đông bắc.
Cư dân của Baud danh xưng trong tiếng Pháp là Baudais hoặc Baldiviens.
Tiếng Bretagne
Năm 2007, có 9,9% trẻ em học trường song ngữ ở cấp tiểu học.
Tham khảo
Hồ sơ của thị trấn trên trang mạng INSEE
Liên kết ngoài
Town website
Cultural Heritage
French Ministry of Culture list for Baud
Bản đồ của Baud trên Michelin
Xã của Morbihan |
464925 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Schaffhouse-sur-Zorn | Schaffhouse-sur-Zorn | Schaffhouse-sur-Zorn là một xã thuộc tỉnh Bas-Rhin trong vùng Grand Est đông bắc Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Bas-Rhin
Tham khảo
INSEE commune file
Xã của Bas-Rhin |
876949 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Paduniella%20anakenam | Paduniella anakenam | Paduniella anakenam là một loài Trichoptera trong họ Psychomyiidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.
Tham khảo
Động vật khu vực sinh thái Indomalaya
Paduniella |
463575 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Yquelon | Yquelon | Yquelon là một xã thuộc tỉnh Manche trong vùng Normandie tây bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 17 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
Xã của Manche |
455498 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicey-sur-Aire | Nicey-sur-Aire | Nicey-sur-Aire là một xã thuộc tỉnh Meuse trong vùng Grand Est đông nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 250 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
Niceysuraire |
670590 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Eleutherodactylus%20luteolateralis | Eleutherodactylus luteolateralis | Eleutherodactylus luteolateralis là một loài ếch trong họ Leptodactylidae. Chúng là loài đặc hữu của Ecuador.
Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng đồng cỏ, các đồn điền, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
Nguồn
Coloma, L.A., Ron, S. & Almeida, D. 2004. Eleutherodactylus luteolateralis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 7 năm 2007.
Tham khảo
luteolateralis
Động vật lưỡng cư Ecuador |
820019 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Salinas%2C%20California | Salinas, California | Salinas là quận lỵ và thành phố lớn nhất của quận Monterey, California, Hoa Kỳ. Salinas nằm 10 dặm (16 km) về phía đông-đông nam của cửa sông Salinas, ở độ cao khoảng 52 feet (16 m) trên mực nước biển. Dân số là 150.441 người theo điều tra dân số Hoa Kỳ 2010. Các thành phố chủ yếu là vùng ngoại ô nằm ở cửa của Thung lũng Salinas khoảng tám dặm từ biển Thái Bình Dương và có một khí hậu ôn hòa. Thành phố bao gồm chủ yếu là của nhà cuối thế kỷ 20 gia đình, một số căn hộ ở mức độ thấp, khác nhau, từ các nhà gỗ một tầng khiêm tốn ngôi nhà sang trọng rộng rãi. Khí hậu cũng là lý tưởng cho ngành công nghiệp hoa và những vườn nho nổi tiếng. Salinas được biết đến là một trung tâm nông nghiệp và cũng là quê hương của nhà văn đoạt giải Nobel Văn học John Steinbeck, người dựa trên một số tiểu thuyết của ông như 'Of Mice and Men'.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thành phố của California
Quận lỵ California |
673712 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u%20t%C3%ACnh%20c%E1%BB%A7a%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Sahrawi%202010 | Biểu tình của người Sahrawi 2010 | Biểu tình của người Sahrawi 2010 là hàng loạt các cuộc biểu tình diễn ra tại Tây Sahara từ ngày tháng 10 năm 2010. Một số nhà chuyên môn như Noam Chomsky và Bernabé López García nhận định sự kiện này là điểm bắt đầu của làn sóng biểu tình tại Trung Đông và Bắc Phi. Mặc dù các cuộc biều tình đầu tiên diễn ra trong hòa bình, bạo lực đã xảy ra vài lần với các cuộc xô xát giữa cư dân Tây Sahara và lực lượng an ninh cùng cư dân Maroc.
Chú thích
Xem thêm
Biểu tình của người Sahrawi 2011
Liên kết ngoài
Western Sahara: Beatings, Abuse by Moroccan Security Forces Statement by Human Rights Watch, ngày 26 tháng 11 năm 2010.
Rights Trampled: Protests, violence and repression in Western Sahara Report by Amnesty International, ngày 20 tháng 12 năm 2010.
World Report chapter: Morocco/Western Sahara Chapter of the HRW 2011 World Report, ngày 24 tháng 1 năm 2011.
Western Sahara - Accounts of human rights abuses persist in wake of November unrest Report by RFK center, January 2011.
Năm 2010
Lịch sử Maroc |
305996 | https://vi.wikipedia.org/wiki/La%20Roque-Baignard | La Roque-Baignard | La Roque-Baignard là một xã ở tỉnh Calvados, thuộc vùng Normandie ở tây bắc nước Pháp.
Dân số
Xem thêm
Xã của tỉnh Calvados
Tham khảo
Liên kết ngoài
La Roque-Baignard sur le site de l'Institut géographique national
Roque-Baignard,La |
584592 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Delias%20harpalyce | Delias harpalyce | The Imperial White (Delias harpalyce) là một loài bướm thuộc họ Pieridae. Nó là loài đặc hữu của Úc.
Sải cánh dài 60–70 mm.
Ấu trùng ăn Amyema, Muellerina and Dendrophthoe species.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Imperial White
Delias |
876811 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Limnoecetis%20tanganicae | Limnoecetis tanganicae | Limnoecetis tanganicae là một loài Trichoptera trong họ Dipseudopsidae. Chúng phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.
Tham khảo
Trichoptera ở vùng nhiệt đới châu Phi
Limnoecetis |
577540 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Noda%2C%20Chiba | Noda, Chiba | Noda (tiếng Nhật: 野田市 Noda-shi, đọc là Nô-đa) là một thành phố thuộc tỉnh Chiba của Nhật Bản.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thành phố tỉnh Chiba |
502186 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ris%2C%20Hautes-Pyr%C3%A9n%C3%A9es | Ris, Hautes-Pyrénées | Ris là một xã thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées trong vùng Occitanie tây nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 1000 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
INSEE
Xã của Hautes-Pyrénées |
439927 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Santilly%2C%20Eure-et-Loir | Santilly, Eure-et-Loir | Santilly là một xã thuộc tỉnh Eure-et-Loir trong vùng Centre-Val de Loire ở bắc trung bộ nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 123 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
Xã của Eure-et-Loir |
721293 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Prunum%20smalli | Prunum smalli | Prunum smalli là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Marginellidae, họ ốc mép.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Prunum |
487662 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Plainville%2C%20Eure | Plainville, Eure | Plainville là một xã thuộc tỉnh Eure trong vùng Normandie miền bắc nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Eure
Tham khảo
Xã của Eure |
506494 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh%20tinh%20kh%C3%AD%20kh%E1%BB%95ng%20l%E1%BB%93 | Hành tinh khí khổng lồ | Hành tinh khí khổng lồ (đôi khi gọi là hành tinh kiểu Sao Mộc (Jovian planet), hay hành tinh khổng lồ) là thể loại hành tinh khổng lồ có thành phần chính không phải là đá hay các vật chất rắn khác. Hiện có hai hành tinh khí khổng lồ trong hệ Mặt Trời: Sao Mộc và Sao Thổ. Nhiều hành tinh khí khổng lồ ngoài hệ Mặt Trời quay quanh các ngôi sao khác đã được tìm thấy.
Các hành tinh khí có khối lượng gấp 3-10 lần Trái Đất được xem là hành tinh khí khổng lồ.
Các thiên thể nặng gấp 13 lần Sao Mộc được gọi là sao lùn nâu và chúng nằm giữa phạm vi khối lượng của một hành tinh khí khổng lồ lớn và ngôi sao nhẹ nhất.
Chú thích
Tham khảo
Episode "Giants" on The Science Channel TV show Planets
SPACE.com: Q&A: The IAU's Proposed Planet Definition 16 tháng 8 năm 2006 2:00 am ET
BBC News: Q&A New planets proposal Wednesday, 16 tháng 8 năm 2006, 13:36 GMT 14:36 UK
Liên kết ngoài
SPACE.com: Q&A: The IAU's Proposed Planet Definition 16 tháng 8 năm 2006 2:00 am ET
BBC News: Q&A New planets proposal Wednesday, 16 tháng 8 năm 2006, 13:36 GMT 14:36 UK
Gas Giants in Science Fiction: List
Khí khổng lồ |
100136 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Goetzenbruck | Goetzenbruck | Goetzenbruck là một xã trong vùng Grand Est, thuộc tỉnh Moselle, quận Sarreguemines, tổng Bitche. Tọa độ địa lý của xã là 48° 58' vĩ độ bắc, 07° 22' kinh độ đông. Goetzenbruck nằm trên độ cao trung bình là 378 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 260 mét và điểm cao nhất là 432 mét. Xã có diện tích 8,12 km², dân số vào thời điểm 1999 là 1751 người; mật độ dân số là 215 người/km².
Thông tin nhân khẩu
Địa điểm tham quan
Nhà thờ Eglise de la Visitation
Tham khảo
Xã của Moselle |
641747 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Speiredonia%20alix | Speiredonia alix | Speiredonia alix là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy ở Ấn Độ, quần đảo quần đảo Andaman, Malaya, Sumatra, Borneo, Java, Sumbawa và Philippines.
Liên kết ngoài
An Overview Of The Chi Speiredonia With Description Of Seven New Species
Chú thích
Speiredonia |
484010 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Portes-en-Valdaine | Portes-en-Valdaine | Portes-en-Valdaine là một xã thuộc tỉnh Drôme trong vùng Auvergne-Rhône-Alpes ở đông nam nước Pháp. Xã Portes-en-Valdaine nằm ở khu vực có độ cao từ 157-470 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
Portesenvaldaine |
29443 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Samsung | Samsung | Tập đoàn Samsung hay Samsung (Tiếng Hàn: 삼성, Romaja: Samseong, Hanja: 三星; Hán-Việt: Tam Tinh - 3 ngôi sao) là một tập đoàn đa quốc gia của Hàn Quốc có trụ sở chính đặt tại Samsung Town, Seocho, Seoul. Tập đoàn sở hữu rất nhiều công ty con, chuỗi hệ thống bán hàng cùng các văn phòng đại diện trên toàn cầu hoạt động dưới tên thương hiệu mẹ. Đây là một trong những thương hiệu công nghệ lớn nhất thế giới.
Samsung được sáng lập bởi doanh nhân Lee Byung-chul vào năm 1938, khởi đầu là một công ty buôn bán nhỏ. Sau hơn 3 thập kỷ phát triển, Samsung dần đa dạng hóa các ngành nghề, bắt đầu tham gia vào lĩnh vực công nghiệp điện tử vào cuối thập niên 1960, xây dựng nhà máy đóng tàu vào giữa thập niên 70. Sau khi Lee Byung-chul mất, Samsung tách ra thành 4 tập đoàn nhỏ, bao gồm: Samsung, Shinsegae, CJ và Hansol. Từ thập niên 1990, Samsung mở rộng hoạt động trên quy mô toàn cầu, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao và điện tử tiêu dùng. Những công ty con tiêu biểu của Samsung bao gồm: Samsung Electronics, Samsung Heavy Industries, Samsung Engineering, Samsung C&T, Samsung Life Insurance, Samsung Everland, Samsung Techwin và Cheil Worldwide.
Năm 2019, Samsung có giá trị thương hiệu lớn nhất châu Á, hạng 5 thế giới. Năm 2020, Samsung đứng đầu bảng xếp hạng 1.000 thương hiệu được yêu thích nhất tại châu Á. Tháng 10 năm 2020, Samsung vượt qua Toyota để trở thành thương hiệu đắt giá nhất châu Á, xếp hạng 5 toàn cầu sau Google, Microsoft, Amazon và Apple. Tháng 11 năm 2020, Samsung vượt qua Apple để dẫn đầu thị trường smartphone tại Mỹ. Cũng trong năm 2020, giá trị thương hiệu Samsung được định giá xấp xỉ 95 tỷ USD - đứng số 1 châu Á cũng như thứ 5 thế giới. Năm 2021, con số trên tăng lên mức 102,6 tỷ USD và Samsung vẫn giữ hạng 5 toàn cầu. Ngoài ra, Samsung còn là 1 trong 16 công ty công nghệ sáng tạo nhất thế giới với vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng của Boston Consulting Group.
Tại Việt Nam, 4 nhà máy sản xuất của Samsung đạt doanh thu hơn 70 tỷ USD vào năm 2022, chiếm gần 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Lợi nhuận của các cơ sở này khoảng 4,6 tỷ USD, tương đương 1,15% GDP của toàn Việt Nam.
Lịch sử
1938 - 1970
Năm 1938, vào thời kỳ Bán đảo Triều Tiên còn đang nằm dưới sự quản lý, chiếm đóng của chính phủ và quân đội Đế quốc Nhật Bản, Lee Byung-chul (1910-1987), người xuất thân trong một gia tộc địa chủ tư sản ở vùng Uiryeong đã cùng gia đình chuyển tới sinh sống gần thành phố Daegu và sáng lập ra Samsung Sanghoe (삼성상회, 三星商會), một công ty nhỏ với chỉ vỏn vẹn 40 công nhân cùng chuỗi cửa hàng chuyên bán gạo, cá khô, đồ tạp hóa và mì sợi ở Su-dong (ngày nay là Ingyo-dong). Khi công ty bắt đầu làm ăn phát đạt và có lợi nhuận, ông đã chuyển văn phòng công ty tới thành phố Seoul vào năm 1947. Khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, gia đình Lee Byung-chul buộc phải rời Seoul và sau đó thì mở một nhà máy tinh chế đường ở Busan mang tên là Cheil Jedang. Sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1954, ông quay trở lại công việc kinh doanh, tiếp tục sáng lập ra Cheil Mojik và xây dựng nhà máy ở Chimsan-dong, Daegu. Đó là nhà máy sản xuất len sợi lớn chưa từng có của đất nước.
Trong những năm kế tiếp, Samsung ngày càng đa dạng hóa trong nhiều lĩnh vực và chủ tịch Lee Byung-chul là nhân tố chính, người đã giúp Samsung trở thành công ty đi đầu trong nhiều lĩnh vực như bảo hiểm, chứng khoán, bán lẻ. Kết hợp với sự thuận lợi trong tình hình kinh tế, chính trị tại Hàn Quốc khi đó, chính quyền của Tổng thống Park Chung-Hee đã liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của công nghiệp hóa, đồng thời, chính phủ tiến hành tập trung vào chiến lược phát triển kinh tế xoay quanh các tập đoàn lớn như Samsung, bảo hộ cạnh tranh và hỗ trợ tài chính ở mức độ tối đa.
Năm 1947, Cho Hong-jai (người sau này sáng lập tập đoàn Hyosung), hợp tác với Samsung thành lập công ty Samsung Mulsan Gongsa (삼성물산공사), hay còn gọi là Công ty Thương mại Samsung (Samsung Trading Corporation). Công ty này sau đó phát triển và trở thành công ty Samsung C&T ngày nay. Sau vài năm hợp tác, Cho và Lee quyết định đường ai nấy đi vì sự khác biệt trong cách điều hành nhưng Cho Hong-jai muốn lấy 30% cổ phần từ công ty. Sau khi thỏa thuận được ký kết, Samsung chia tách thành các tập đoàn Samsung, tập đoàn Hyosung, Hankook Tire và một số công ty con khác.
Vào cuối thập kỉ 60, Samsung bắt đầu thay đổi chiến lược kinh doanh, tham gia vào ngành công nghiệp điện tử với sự trợ giúp chuyên môn đắc lực từ phía Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tập đoàn thành lập một loạt các công ty con chuyên về lĩnh vực công nghệ - điện tử như Samsung Electronics Devices, Samsung Electro-Mechanics, Samsung Corning, Samsung Semiconductor & Telecommunication, đặt các cơ sở nghiên cứu và nhà máy chế tạo sản phẩm tại thành phố Suwon. Sản phẩm đầu tiên của công ty là TV đen trắng.
1970 - 1990
Năm 1980, Samsung mua lại công ty Hanguk Jeonja Tongsin và tham gia vào lĩnh vực công nghiệp phần cứng viễn thông. Sản phẩm đầu tiên là bộ chuyển mạch. Đó là nền tảng cho hệ thống nhà máy điện thoại bàn và máy Fax của Samsung, sau này là nhà máy điện thoại di động Samsung, nơi đã sản xuất 800 triệu sản phẩm điện thoại di động cho đến thời điểm hiện tại. Công ty sáp nhập các công ty con về điện tử, trở thành Công ty Điện Tử Samsung (Samsung Electronics Co., Ltd) trong những năm 1980.
Sau khi nhà sáng lập Lee Byung-chul mất năm 1987, tập đoàn Samsung tách ra thành 4 tập đoàn - Samsung, Shinsegae, CJ, Hansol. Shinsegae (kinh doanh cửa hàng giảm giá, bách hóa) ban đầu là một phần của Samsung, tách ra vào thập kỉ 90 cùng với tập đoàn CJ (kinh doanh thực phẩm, hóa chất, giải trí, Logistic) và tập đoàn Hansol (kinh doanh giấy, viễn thông). Ngày nay 3 tập đoàn trên hoạt động độc lập, không còn là một phần hay liên hệ với Samsung. Một đại diện của Tập đoàn Hansol cho biết: "Chỉ có những người không biết gì về luật pháp quản lý thế giới kinh doanh mới có thể tin vào điều gì đó vô lý". Khi Hansol tách khỏi Tập đoàn Samsung vào năm 1991, họ cắt đứt tất cả các khoản đảm bảo thanh toán và giữ cổ phần với các chi nhánh của Samsung. Một nguồn tin từ Tập đoàn Hansol khẳng định: "Hansol, Shinsegae, và CJ đã được quản lý độc lập kể từ khi tách biệt tương ứng với tập đoàn Samsung". Một giám đốc điều hành cửa hàng bách hóa Shinsegae cho biết: "Shinsegae không có bảo đảm thanh toán liên quan đến tập đoàn Samsung".
Vào những năm 80, Công ty Điện Tử Samsung đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển. Đây là chìa khóa then chốt đã đưa Samsung trở thành công ty hàng đầu trong lĩnh vực công nghiệp điện tử trên thế giới. Năm 1982, Samsung xây dựng nhà máy lắp ráp TV ở Bồ Đào Nha; năm 1984, nhà máy ở New York; năm 1985, nhà máy ở Tokyo; năm 1987, trụ sở ở Anh; và trụ sở ở Austin, Texas năm 1996. Đến năm 2012, Samsung đã đầu tư hơn 13 tỷ đô la Mỹ vào trụ sở ở Austin, hoạt động dưới tên gọi Samsung Austin Semiconductor LLC. Đầu tư vào Austin của Samsung trở thành dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất ở bang Texas và là một trong những dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nước Mỹ.
1990 - 2000
Samsung bắt đầu vươn lên trở thành tập đoàn quốc tế vào thập kỉ 90. Công ty Xây dựng Samsung (Samsung's construction) là nhà thầu xây dựng tháp đôi Petronas ở Malaysia, Taipei 101 ở Đài Loan, Burj Khalifa ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Năm 1993, Lee Kun-hee bán 10 công ty con của tập đoàn, cắt giảm nhân sự, sáp nhập các lĩnh vực hoạt động khác để tập trung vào 3 lĩnh vực chính: điện tử, xây dựng và hóa chất. Năm 1996, tập đoàn Samsung mua lại Đại học Sungkyunkwan.
Samsung trở thành nhà sản xuất vi mạch nhớ lớn nhất thế giới vào năm 1992 và là nhà sản xuất vi mạch lớn thứ 2 thế giới sau Intel. Năm 1995, Samsung sản xuất màn hình tinh thể lỏng (LCD) đầu tiên. 10 năm sau, Samsung phát triển thành nhà sản xuất màn hình hình tinh thể lỏng lớn nhất thế giới. Sony không đầu tư vào dạng màn hình lớn TFT-LCDs, đã cùng hợp tác với Samsung thành lập công ty S-LCD để cung cấp màn hình LCD cho 2 tập đoàn vào năm 2006. S-LCD nắm giữ bởi Samsung (50% + 1 cổ phiếu) và Sony (50% - 1 cổ phiếu), trụ sở và nhà máy nằm tại Tangjung, Hàn Quốc. Ngày 26/12/2011, Samsung thông báo tập đoàn đã mua lại cổ phần của Sony tại S-LCD.
So sánh với các tập đoàn lớn khác của Hàn Quốc, Samsung sống sót qua cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 mà hầu như không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên Samsung phải chấp nhận bán lỗ mảng xe hơi (Samsung Motor) cho nhà sản xuất xe hơi Pháp Renault. Năm 2010, Renault nắm giữ 80.1% và Samsung nắm giữ 19.9% trong công ty Renault Samsung. Samsung tham gia sản xuất máy bay vào thập kỉ 80. Công ty được thành lập vào năm 1999 dưới tên gọi Korea Aerospace Industries (KAI). Đây là kết quả hợp tác giữa 3 công ty chuyên về không gian của Samsung, Daewoo Heavy Industries, Hyundai Space và Aircraft Company. Samsung cũng tham gia sản xuất động cơ máy bay và gas tua-bin.
2000 - 2015
Năm 2000, Samsung mở phòng thí nghiệm lập trình máy tính tại Warszawa, Ba Lan. Khởi đầu bằng công nghệ giải mã tín hiệu truyền hình, sau đó là TV kĩ thuật số và điện thoại thông minh. Đến năm 2011, trụ sở Samsung tại Warsaw là trung tâm nghiên cứu và phát triển quan trọng nhất ở châu Âu, tuyển dụng khoảng 400 nhân viên hàng năm.
Năm 2001, Samsung Techwin trở thành nhà cung cấp mô-đun buồng đốt duy nhất cho Rolls-Royce Trent 900, được sử dụng cho máy bay lớn nhất thế giới Airbus A380. Samsung Techwin cũng là cổ đông trong chương trình động cơ GEnx của Boeing 787 Dreamliner.
Năm 2010, Samsung công bố chiến lược phát triển 10 năm tập trung vào 5 ngành nghề chính. Một trong số đó là công nghệ dược, sinh học, tập đoàn cam kết đầu tư 2.1 nghìn tỷ Won (2 tỷ USD).
Tháng 12/2011, công ty Điện Tử Samsung (Samsung Electronics) bán mảng ổ đĩa cứng (HDD) cho Seagate.
Trong quý đầu tiên của năm 2012, Samsung Electronics đã trở thành nhà sản xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới theo số lượng đơn hàng, vượt qua Nokia, hãng đã dẫn đầu thị trường từ năm 1998. Trong ấn bản của tờ Austin American-Statesman được phát hành vào ngày 21 tháng 8 năm 2012, Samsung đã xác nhận kế hoạch chi 3 đến 4 tỷ đô la để chuyển đổi một nửa nhà máy sản xuất vi mạch trong nhà máy ở Austin thành một vi mạch sinh hóa có lợi hơn cho môi trường và mang nhiều lợi nhuận hơn. Việc chuyển đổi sẽ bắt đầu vào đầu năm 2013, với dây chuyền sản xuất sẽ hoàn thành vào cuối năm 2013. Vào ngày 14 tháng 3 năm 2013, Samsung đã công bố Galaxy S4.
Năm 2012, Samsung Electronics, công bố kế hoạch đầu tư 7 tỷ đô la Mỹ để xây dựng nhà máy chế tạo thẻ bộ nhớ (chip) đầu tiên của mình tại Trung Quốc.
Ngày 24/08/2012, 9 bồi thẩm viên tòa án Mỹ phán quyết Samsung phải bồi thường 1.05 tỷ đô la Mỹ cho công ty Apple, vì xâm phạm 6 sáng chế công nghệ điện thoại thông minh. Mức phạt vẫn thấp hơn yêu cầu 2.5 tỷ đô la Mỹ của Apple. Phán quyết cũng chỉ rõ Apple không xâm phạm 5 sáng chế của Samsung. Samsung chỉ trích phán quyết trên đã làm tổn hại đến sự phát triển của mảng di động. Tòa án ở Hàn Quốc phán quyết cả hai công ty đều vi phạm sở hữu trí tuệ. Sau khi phán quyết có hiệu lực, cổ phiếu Samsung giảm 7.7% trên sàn Kospi index, mức giảm lớn nhất kể từ ngày 24/10/2008. Apple sau đó kiến nghị cấm bán 8 sản phẩm điện thoại của Samsung ở Mỹ bao gồm (Galaxy S 4G, Galaxy S2 AT&T, Galaxy S2 Skyrocket, Galaxy S2 T-Mobile, Galaxy S2 Epic 4G, Galaxy S Showcase, Droid Charge and Galaxy Prevail), tuy nhiên tòa án đã bác bỏ kiến nghị của Apple.
Ngày 04/09/2012, Samsung tuyên bố sẽ điều tra tất cả các nhà cung cấp Trung Quốc, vì có lo ngại xâm phạm luật lao động. 250 công ty Trung Quốc sẽ bị điều tra nếu có sử dụng lao động trẻ em dưới 16 tuổi trong nhà máy.
Tháng 3/2013, Samsung Electronics Việt Nam Thái Nguyên (SEVT) chi 2 tỷ USD để xây dựng khu tổ hợp công nghệ cao tại Thái Nguyên. Đến tháng 10, Samsung Electro - Mechanics Vietnam cũng tuyên bố rót tiếp 1.2 tỷ USD vào nhà máy sản xuất vi mạch và linh kiện điện tử cho điện thoại di động tại đây. Tiếp đến cuối 2014 SamSung Display chính thức đi vào hoạt động tại tổ hợp công nghệ KCN Yên Phong - Bắc Ninh. Công ty điện tử Samsung đang đưa dần các nhà máy sản xuất điện thoại từ Trung Quốc sang Việt Nam để bảo toàn lợi nhuận. Samsung Electronics được hưởng ưu đãi cao nhất như là một doanh nghiệp công nghệ cao khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên đó không phải là lý do duy nhất thu hút Samsung, mà còn là vị trí địa lý, Indonesia và Ấn Độ có mức thuế ngang bằng, thậm chí còn tốt hơn mức của Việt Nam, nhưng do Việt Nam gần hơn cả với khu công nghiệp đã sẵn có của Samsung ở Trung Quốc và Hàn Quốc, nên đây là một điểm mạnh.
Vào năm 2013, một cửa hàng ở New Zealand đã báo cáo một số máy giặt Samsung bốc cháy một cách kỳ lạ. Tập đoàn Samsung dành 14 tỷ đô la Mỹ (nhiều hơn cả GDP của Iceland) cho các hoạt động quảng cáo thông qua TV, rạp phim, biển hiệu, thể thao và nghệ thuật. Với 5.4% lợi nhuận hàng năm chi cho quảng bá, đây là tỷ lệ lớn nhất trong số 20 công ty hàng đầu thế giới (Apple dành 0.6%, General Motors dành 3.5%). Tháng 11/2013, tập đoàn có giá trị vốn hóa 227 tỷ đô la Mỹ.
Vào tháng 5 năm 2014, Samsung thông báo sẽ tắt dịch vụ phát trực tuyến vào ngày 1 tháng 7 năm 2014, đồng nghĩa với việc kết thúc ứng dụng Samsung Music Hub thường được cài đặt trên điện thoại Android của họ.
Vào ngày 3 tháng 9 năm 2014, Samsung đã công bố Gear VR, một thiết bị thực tế ảo hợp tác với Oculus VR và được phát triển cho Galaxy Note 4.
Vào tháng 10 năm 2014, Samsung đã công bố khoản đầu tư 14,7 tỷ đô la để xây dựng một nhà máy sản xuất vi mạch ở Hàn Quốc. Việc xây dựng sẽ bắt đầu vào năm tới với việc bắt đầu sản xuất vào năm 2017. Công ty vẫn chưa quyết định loại vi mạch được sản xuất vào thời điểm đó.
Samsung lên kế hoạch triển khai một loạt dịch vụ mới bắt đầu từ đầu năm 2015. Mục tiêu của bộ dịch vụ kinh doanh mới này, được gọi là Samsung 360 Services, là trở thành công cụ trợ giúp cho các doanh nghiệp ngành công nghệ thông tin. Các dịch vụ có thể tùy chỉnh từ hỗ trợ kỹ thuật cho đến các giải pháp bảo mật trong việc sử dụng của khách hàng với tư cách là người quản lý hỗ trợ hoặc tư vấn công nghệ tại chỗ.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 2014, Samsung đã thông báo sẽ bán Fiber Optics cho nhà sản xuất kính của Mỹ Corning Inc.
Samsung Electronics Inc. đang mở rộng tại Thung lũng Silicon với cơ sở trị giá 300 triệu đô la ở San Jose, California. Khu phức hợp gồm 10 tầng sẽ bao gồm 102.193 mét vuông, một phòng sạch cho các chất bán dẫn và một trung tâm thể dục thể thao trên tầng thượng. Cơ sở này sẽ được phân chia giữa nghiên cứu và phát triển bán dẫn và các chức năng bán hàng và tiếp thị khác. Nơi đây sẽ phục vụ như là trụ sở Samsung khu vực Bắc Mỹ cho các hoạt động nghiên cứu chất bán dẫn.
Tháng 1 năm 2015, Samsung lên kế hoạch cắt giảm nhân sự nhằm giảm thiểu chi phí điều hành và vực lại mảng kinh doanh đang gặp nhiều khó khăn. 1000 nhân công thuộc bộ phận smartphone tại các chi nhánh của Samsung tại Anh, Thuỵ Điển và Trung Quốc sẽ thuộc diện nguy cơ, giảm con số nhân lực tại mảng này xuống còn 5000 người.
Cũng trong năm 2015, Samsung đã được cấp nhiều bằng sáng chế ở Hoa Kỳ hơn bất kỳ công ty nào khác - bao gồm IBM, Google, Sony, Microsoft và Apple. Công ty đã nhận được 7679 bằng sáng chế tính cho đến ngày 11 tháng 12.
2016 - nay
Vào tháng 1/2016, Samsung tuyên bố sẽ hợp tác với Microsoft để phát triển các thiết bị IoT trên Windows 10, nơi các công ty sẽ làm việc cùng nhau để phát triển các sản phẩm chạy trên nền tảng này, cũng như tích hợp với các công ty khác phát triển phần cứng và dịch vụ trên các hệ điều hành của Microsoft.
Samsung đã phát hành một chiếc đồng hồ thông minh tập thể dục được gọi là Gear Fit 2 và một thương hiệu tai nghe không dây có tên Gear Icon X.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 2016, Samsung ra mắt điện thoại thông minh Galaxy Note7, được bán vào ngày 19 tháng 8 năm 2016. Tuy nhiên, vào đầu tháng 9 năm 2016, Samsung đã ngừng bán điện thoại và thông báo thu hồi vô điều kiện. Điều này xảy ra sau khi một số điện thoại mà pin của thiết bị với một khiếm khuyết là việc tản nhiệt quá mức, dẫn đến cháy và nổ. Samsung đã thay thế dòng điện thoại này bằng một phiên bản mới. Tuy nhiên, sau đó họ lại phát hiện ra rằng phiên bản mới của Galaxy Note 7 cũng có lỗi về pin. Samsung quyết định thu hồi tất cả điện thoại thông minh Galaxy Note7 trên toàn thế giới vào ngày 10 tháng 10 năm 2016 và đồng thời kết thúc luôn vĩnh viễn việc sản xuất dòng điện thoại này vào ngày hôm sau.
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2016, Samsung đã công bố đồng hồ thông minh Gear S3, được phát hành vào ngày 18 tháng 11 năm 2016.
Vào ngày 29 tháng 3 năm 2017, Samsung đã giới thiệu điện thoại thông minh mới là Samsung Galaxy S8 và S8+. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2017, Samsung đã công bố điện thoại thông minh hàng đầu là Samsung Galaxy Note8. Những chiếc điện thoại này cũng được bổ sung bởi một số điện thoại tầm thấp và tầm trung, cũng như điện thoại thông minh Samsung Galaxy S8 Active, vào năm 2017.
Vào ngày 25 tháng 2 năm 2018, Samsung giới thiệu chiếc điện thoại Samsung Galaxy S9 và S9+ tại một triển lãm về công nghệ tổ chức tại Barcelona, Tây Ban Nha. Cũng trong năm 2018, vào ngày 9 tháng 8, Samsung công bố mẫu điện thoại mới nhất là Samsung Galaxy Note9 với màn hình lớn nhất từ trước đến nay.
Vào ngày 19 tháng 1 năm 2019, Samsung ra mắt dòng Galaxy M với thiết kế giọt nước. Galaxy M20 là thiết bị đầu tiên của dòng M. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2019 Samsung đã giới thiệu S10 và S10+, với màn hình đục lỗ độc đáo. Gần đây nhất là vào ngày 7 (ngày 8 theo giờ Việt Nam) tháng 8 năm 2019 samsung cho ra mắt bộ đôi samsung galaxy note 10 và note 10+ với thiết kế camera selfie "nốt ruồi " chính giữa màn hình. Cũng trong năm 2019. Samsung đã cho ra mắt nhiều thiết bị thuộc dòng Galaxy A như A10, A20, A30, A50, A70, A80 và A90 5G.
Ngày 19 tháng 2 năm 2020, Samsung đã giới thiệu dòng S20 Series với camera đục giữa màn hình. Dòng S20 Series sẽ có 3 phiên bản gồm S20, S20+, S20 Ultra. Tháng 3 năm 2020, Samsung ra mắt hàng loạt sản phẩm kế nhiệm của dòng Galaxy A với M năm trước. Ngày 5 tháng 8 năm 2020, Samsung ra mắt dòng Note 20 Series với thiết kế Camera vuông. Note 20 Series sẽ có 3 phiên bản gồm Note 20, Note 20+ và Note 20 Ultra. Ngày 8 tháng 10 năm 2020, Samsung ra mắt dòng thiết bị độc quyền tại Ấn Độ đó là Galaxy F, thiết bị đầu tiên thuộc dòng F là Galaxy F41.
Ngày 14 tháng 1 năm 2021, Samsung giới thiệu dòng S21 Series, dòng S21 Series sẽ có 3 phiên bản gồm S21, S21+ và S21 Ultra. Cũng trong năm 2021, Samsung cũng đều ra mắt sản phẩm kế nhiệm của dòng Galaxy A, M và F năm trước.
Ngày 9 tháng 2 năm 2022, Samsung ra mắt dòng S22 Series với chế độ chụp đêm Nightography. Dòng S22 Series sẽ có 3 phiên bản gồm S22, S22+ và S22 Ultra. Thiết kế của dòng S22 và S22+ sẽ giống như S21 và S21+. Tuy nhiên S22 Ultra sẽ có thiết kế lấy cảm hứng từ dòng Note với màn hình vuông toàn viền, đồng thời đây sẽ là thiết bị đàu tiên của dòng S được trang bị bút S Pen với độ trễ 2.9ms.
Thị trường
Samsung có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế Hàn Quốc, là hạt nhân chính góp phần vào sự thành công của Kỳ tích sông Hán. Doanh thu của Samsung năm 2019 là 305 tỷ đô la, năm 2020 là 107 tỷ đô la + tỷ đô la và năm 2021 là 236 tỷ đô la.
Theo 2 tạp chí Interbrand và BusinessWeek, tổng giá trị của nhãn hiệu Samsung đứng thứ 43 trong số các tập đoàn toàn cầu (5,2 tỷ USD) năm 2000, thứ 42 (6,4 tỷ USD) năm 2001, thứ 34 (8, 3 tỷ USD) năm 2002, thứ 25 (10,8 tỷ USD) năm 2003, thứ 21 (12,5 tỷ USD) năm 2004, và thứ 20 (14,9 tỷ USD) năm 2005.
Lượng xuất khẩu sản phẩm của tập đoàn Samsung đã đóng góp trực tiếp vào nền kinh tế Hàn Quốc, chỉ tính riêng Samsung đã vượt 18,1% so với tổng lượng xuất khẩu toàn quốc, đạt 31,2 tỷ USD năm 2000, và vượt 20,7% với 52,7 tỷ USD năm 2004. Thêm nữa, khoản tiền thuế mà tập đoàn Samsung phải trả cho chính phủ Hàn Quốc năm 2003 là 6,5 ngàn tỷ Won, hơn lượng thuế toàn quốc đến 6,3%.
Giá trị thị trường của tập đoàn Samsung năm 1997 đạt 7,3 ngàn tỷ won, bằng 10,3% toàn thị trường Hàn Quốc, nhưng hình ảnh này đã được mở rộng vào năm 2004, khi tổng giá trị là 90,8 ngàn tỷ won, bằng 22,4%.
Thêm vào đó, lợi nhuận hàng năm của tập đoàn Samsung là 5,8 ngàn tỷ won năm 2001, 11,7 ngàn tỷ won năm 2002, 7,4 ngàn tỷ won năm 2003, và 15,7 ngàn tỷ won năm 2004 đã cho thấy một sự tiến bộ vững chắc.
Nhằm nâng cao môi trường làm việc, để xây dựng một tổ chức vững mạnh và đáng tin cậy, ban điều hành của Hãng điện tử Samsung đã chỉ đạo thành lập một "Chương trình nơi làm việc tuyệt vời" từ năm 1998. Năm 2003, chương trình đã được truyền đi thông qua toàn thể tập đoàn Samsung, cả công ty Bảo hiểm sinh mạng và Hoả hoạn Samsung, Samsung SDI, Samsung Everland, Samsung Corporation, Cheil Industries, Samsung Networks và nhiều nhánh khác. Năm 2006, 9 công ty dưới vốn của Hãng điện tử Samsung, 80 chi nhánh ở nước ngoài và 130 doanh nghiệp ở nước ngoài được thông báo chính thức được ứng dụng chương trình này.
Hoạt động
Samsung bao gồm khoảng hơn 100 công ty con. Tập đoàn này hoạt động rất đa dạng với nhiều ngành nghề trong các lĩnh vực bao gồm xây dựng, điện tử tiêu dùng, dịch vụ tài chính, đóng tàu và dịch vụ y tế.
Trong năm tài chính 2009, Samsung báo cáo doanh thu tổng cộng là 220 nghìn tỷ KRW (172,5 tỷ USD). Trong năm tài chính 2010, Samsung báo cáo doanh thu 280 nghìn tỷ KRW (258 tỷ USD) và lợi nhuận 30 nghìn tỷ KRW (27,6 tỷ USD) (dựa trên tỷ giá hối đoái KRW-USD là 1.084,5 KRW/USD, tỷ giá giao ngay ngày 19 tháng 8 năm 2011). Số tiền này không bao gồm doanh thu từ tất cả các công ty con của Samsung có trụ sở ở bên ngoài Hàn Quốc.
Công ty con
Tính đến tháng 4 năm 2011, Samsung bao gồm 59 công ty chưa niêm yết và 19 công ty niêm yết, tất cả đều có niêm yết chính trên Sàn giao dịch Hàn Quốc (Korea Exchange).
Ace Digitech được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 036550).
Cheil Industries được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 001300).
Cheil Worldwide được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 030000).
Credu được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 067280).
Imarket Korea được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 122900).
Samsung Card được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 029780).
Samsung SDS là một công ty dịch vụ CNTT đa quốc gia có trụ sở tại Seoul. Công ty được thành lập vào tháng 3 năm 1985. Hoạt động chính là cung cấp hệ thống CNTT (ERP, cơ sở hạ tầng CNTT, tư vấn CNTT, gia công phần mềm CNTT và trung tâm dữ liệu). Samsung SDS là công ty dịch vụ CNTT lớn nhất Hàn Quốc, đạt tổng doanh thu 6.106 tỷ won (5,71 tỷ USD) trong năm 2012.
Samsung C&T Corporation được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 000830).
Samsung Electro-Mechanics, được thành lập năm 1973 với tư cách là nhà sản xuất linh kiện điện tử chính, có trụ sở chính tại Suwon, Gyeonggi-do, Hàn Quốc, được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 009150).
Samsung Electronics
Samsung Electronics là một công ty công nghệ thông tin và điện tử đa quốc gia có trụ sở tại Suwon và công ty hàng đầu của tập đoàn Samsung. Các sản phẩm bao gồm máy điều hòa, máy tính, TV kỹ thuật số, màn hình tinh thể lỏng (bao gồm bóng bán dẫn màng mỏng (TFT) và điod phát quang hữu cơ (AMOLED)), điện thoại di động, màn hình, máy in, tủ lạnh, chất bán dẫn và thiết bị mạng viễn thông. Đây là nhà sản xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới theo số lượng đơn hàng trong quý đầu tiên của năm 2012, với thị phần toàn cầu là 25,4%. Đây cũng là nhà sản xuất chất bán dẫn lớn thứ hai thế giới vào năm 2011 (sau Intel).
Samsung Electronics được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 005930).
Samsung Engineering
Samsung Engineering là một công ty xây dựng đa quốc gia có trụ sở tại Seoul, được thành lập vào tháng 1 năm 1969. Hoạt động chính là xây dựng các nhà máy lọc dầu; các cơ sở dầu khí thượng lưu; nhà máy hóa dầu và nhà máy khí; nhà máy luyện thép; nhà máy điện; các cơ sở xử lý nước; và cơ sở hạ tầng khác. Công ty đạt tổng doanh thu 9,298,2 tỷ won (8,06 tỷ USD) vào năm 2011.
Samsung Engineering được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 02803450).
Samsung Everland
Samsung Everland bao gồm ba lĩnh vực chính của môi trường & tài sản, văn hóa ẩm thực và khu nghỉ mát.
Samsung Fine Chemicals
Samsung Fine Chemicals được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 004000).
Samsung Fire & Marine Insurance
Samsung Fire & Marine Insurance là một công ty bảo hiểm đa quốc gia có trụ sở tại Seoul. Công ty được thành lập vào tháng 1 năm 1952 với tên gọi Anbo Fire and Marine Insurance của Hàn Quốc và được đổi tên thành Samsung Fire & Marine Insurance vào tháng 12 năm 1993. Samsung Fire & Marine Insurance cung cấp các dịch vụ bao gồm bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm ô tô, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm hàng hải, lương hưu và cho vay cá nhân. Tính đến tháng 3 năm 2011, công ty đã hoạt động ở 10 quốc gia và 6,5 triệu khách hàng. Samsung Fire & Marine Insurance có tổng doanh thu phí bảo hiểm là 11,7 tỷ đô la trong năm 2011 và tổng tài sản là 28,81 tỷ đô la vào ngày 31 tháng 3 năm 2011. Đây là nhà cung cấp bảo hiểm chung lớn nhất ở Hàn Quốc. Samsung Fire đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc kể từ năm 1975 (số 000810).
Samsung Heavy Industries
Samsung Heavy Industries là một công ty đóng tàu có trụ sở tại Seoul, được thành lập vào tháng 8 năm 1974. Các sản phẩm chính của hãng là tàu chở hàng rời, tàu container, tàu chở dầu thô, tàu tuần dương, phà chở khách, thiết bị xử lý vật liệu thép và cầu. Công ty đã đạt tổng doanh thu 13.358,6 tỷ won trong năm 2011 và là doanh thu hàng đầu thế giới nhà đóng tàu lớn nhất theo doanh thu (sau Hyundai Heavy Industries).
Samsung Heavy Industries được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 010140).
Samsung Life Insurance
Samsung Life Insurance Co, Ltd là một công ty bảo hiểm nhân thọ đa quốc gia có trụ sở tại Seoul, được thành lập vào tháng 3 năm 1957 với tên gọi Bảo hiểm nhân thọ Dongbang (Dongbang Life Insurance) và trở thành công ty con của Samsung vào tháng 7 năm 1963. Hoạt động chính của Samsung Life cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm nhân thọ cá nhân. Tính đến tháng 12 năm 2011, công ty đã hoạt động ở 7 quốc gia, 8,08 triệu khách hàng và 5.975 nhân viên. Samsung Life có tổng doanh thu của 22.717 tỷ won vào năm 2011 và tổng tài sản 161.072 tỷ won vào ngày 31 tháng 12 năm 2011. Đây là nhà cung cấp bảo hiểm nhân thọ lớn nhất tại Hàn Quốc.
Bảo hiểm nhân thọ Samsung được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 032830).
Samsung Machine Tools
Samsung Machine Tools of America là nhà phân phối máy móc đặt tại Hoa Kỳ. Samsung GM Machine Tools có trụ sở chính tại Trung Quốc, là một công ty hợp nhất của SMEC.
Samsung Medical Center
Samsung Medical Center được thành lập ngày 9 tháng 11 năm 1994, theo triết lý "góp phần cải thiện sức khỏe quốc gia thông qua dịch vụ y tế tốt nhất, nghiên cứu y học tiên tiến và nhân viên y tế xuất sắc". Trung tâm Y tế Samsung bao gồm bệnh viện và trung tâm nghiên cứu ung thư. Bệnh viện nằm trong một tòa nhà thông minh với diện tích sàn hơn 200.000 mét vuông và 20 tầng trên mặt đất và 5 tầng ngầm, có 40 phòng ban, 10 trung tâm chuyên khoa, 120 phòng khám đặc biệt và 1.306 giường.
Trung tâm Ung thư với 655 giường có 11 tầng trên mặt đất và 8 tầng hầm, với không gian sàn trên 100.000 mét vuông. SMC là một bệnh viện đại học có khoảng 7.400 nhân viên, trong đó có hơn 1.200 bác sĩ và 2.300 y tá. Kể từ khi thành lập đến nay, Trung tâm y tế Samsung đã kết hợp thành công và phát triển một mô hình tiên tiến với phương châm trở thành một "bệnh viện lấy bệnh nhân làm trung tâm", một khái niệm mới tại Hàn Quốc.
Samsung SDI
Samsung SDI được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 006400). Vào ngày 5 tháng 12 năm 2012, cơ quan chống độc quyền của Liên minh châu Âu đã phạt Samsung SDI và một số công ty lớn khác do chữa giá của các ống tia catôt TV trong hai cartels kéo dài gần một thập kỷ. SSDI cũng chế tạo pin lithium-ion cho xe điện như BMW i3 và mua lại nhà máy pin Magna Steyr gần Graz vào năm 2015. SSDI bắt đầu sử dụng định dạng ô "21700" vào tháng 8 năm 2015. Samsung có kế hoạch chuyển đổi nhà máy của mình tại Göd, Hungary để cung cấp 50.000 xe mỗi năm.
Năm 2016, hàng loạt điện thoại Galaxy Note 7 phát nổ với nghi ngờ do chất lượng Pin khiến Samsung quyết định không dùng pin do SamsungSDI sản xuất.
Samsung Securities
Samsung Securities được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 016360).
Samtron
Samtron là một công ty con của Samsung cho đến năm 1999 khi nó độc lập. Sau đó, công ty tiếp tục làm cho màn hình máy tính và màn hình Plasma cho đến năm 2003, Samtron trở thành Samsung khi Samtron là một thương hiệu. Năm 2003, trang web được chuyển hướng đến Samsung.
Khách sạn và khu nghỉ mát Shilla
Khách sạn Shilla (còn được gọi là "The Shilla") khai trương vào tháng 3 năm 1979, theo ý định của Lee Byung-chul, người sáng lập Samsung. Là điểm đến của nhiều chuyến thăm nhà nước và các sự kiện quốc tế, khách sạn đóng vai trò đầu máy cho ngành dịch vụ ở Hàn Quốc với niềm tự hào và trách nhiệm là "gương mặt đại diện cho tập đoàn Samsung" và "khách sạn đại diện cho Hàn Quốc". Khách sạn Shilla duy trì sự sang trọng và truyền thống giành được trái tim của khách với mục đích trở thành "công ty khách sạn tốt nhất". Bằng cách tham gia LHW, khách sạn được đánh giá ngang bằng với các khách sạn sang trọng nhất trên thế giới. Trong khi đó, khách sạn đã thêm các yếu tố thiết kế hiện đại trên đỉnh mái gọi là truyền thống, do đó đi qua những thay đổi để làm cho chính nó một không gian sống cao cấp. Ngoài ra, với bí quyết của khách sạn như là một công ty dịch vụ, khách sạn bắt đầu mở một cửa hàng kinh doanh miễn thuế và đã xây dựng hình ảnh của mình như là công ty phân phối toàn cầu tốt nhất. Ngoài ra, khách sạn đang mở rộng kinh doanh của mình vào quản lý ủy quyền của các cơ sở thể dục với các khách sạn năm sao ở Hàn Quốc và ở nước ngoài cũng như vào kinh doanh nhà hàng. Khách sạn Shilla hứa hẹn sẽ trở thành một công ty khách sạn uy tín trên toàn cầu mang lại doanh thu bằng cách tạo ra những đổi mới sáng tạo và không ngừng nỗ lực.
Khách sạn và khu nghỉ mát Shilla được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 008770).
Tổng công ty S-1
S-1 là doanh nghiệp chuyên về dịch vụ an ninh đầu tiên của Hàn Quốc vào năm 1997 và đã duy trì vị thế của mình ở vị trí hàng đầu trong ngành với sự sẵn sàng nhất quán để đảm nhận những thách thức mới, S1 được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (số 012750).
Liên doanh
State-run Korea Agro-Fisheries Trade Corp. thành lập liên doanh, Grain Co. tại Chicago, với ba công ty Hàn Quốc khác, Korea Agro-Fisheries sở hữu 55% Grain, trong khi Samsung C&T Corp, Hanjin Transportation Co. và STX Corporation nắm giữ 15%.
Công ty TNHH Brooks Automation Asia là công ty liên doanh giữa Brooks Automation (70%) và Samsung (30%) được thành lập vào năm 1999. Liên doanh sản xuất và cấu hình các nền tảng xử lý wafer chân không, sản xuất và cấu hình hệ thống tải khí quyển cho màn hình phẳng.
Công ty POSS - SLPC s.r.o. được thành lập năm 2007 với tư cách là công ty con của Tập đoàn Samsung C&T, Samsung C&T Deutschland và công ty POSCO.
Samsung Air China Life Insurance là một liên doanh 50:50 giữa Bảo hiểm nhân thọ Samsung và China National Aviation Holding, được thành lập tại Bắc Kinh vào tháng 7 năm 2005.
Samsung Biologics sẽ được cùng sở hữu. Samsung Electronics Co. và Samsung Everland Inc. sẽ sở hữu 40% cổ phần trong liên doanh, với Samsung C&T Corp. và Durham, Quintiles có trụ sở tại Bắc Carolina, mỗi công ty nắm giữ 10%. Công ty này sẽ hợp đồng sản xuất thuốc từ tế bào sống và Tập đoàn Samsung có kế hoạch mở rộng sản xuất các bản sao sinh học bao gồm Rituxan, bệnh bạch cầu và điều trị u lympho được bán bởi Roche Holding AG và Biogen Idec Inc.
Samsung Bioepis là liên doanh giữa Samsung Biologics (85%) và Biogen Idec có trụ sở tại Hoa Kỳ (15%). Năm 2014, Biogen Idec đã đồng ý thương mại hóa các sản phẩm sinh học chống TNF tương lai ở châu Âu thông qua Samsung Bioepis.
Samsung BP Chemicals, có trụ sở tại Ulsan, là liên doanh 49:51 giữa Samsung và BP có trụ sở tại Vương quốc Anh, được thành lập năm 1989 để sản xuất và cung cấp các sản phẩm hóa chất có giá trị gia tăng cao. Các sản phẩm của nó được sử dụng trong pin sạc và màn hình tinh thể lỏng.
Samsung Corning Precision Glass là một liên doanh giữa Samsung và Corning, được thành lập vào năm 1973 để sản xuất và tiếp thị kính ống tia catôt cho tivi đen trắng. Cơ sở sản xuất kính màn hình LCD đầu tiên của công ty đã mở tại Gumi, Hàn Quốc vào năm 1996.
Samsung Sumitomo LED Materials là một liên doanh có trụ sở tại Hàn Quốc giữa Samsung LED Co., Ltd., một nhà sản xuất đèn LED có trụ sở tại Suwon, Hàn Quốc và Sumitomo Chemical có trụ sở tại Nhật Bản. Liên doanh sẽ tiến hành nghiên cứu và phát triển, sản xuất và bán các chất nền sapphire cho đèn LED.
SB LiMotive là một công ty liên doanh 50:50 của Robert Bosch GmbH (thường được gọi là Bosch) và Samsung SDI được thành lập vào tháng 6 năm 2008. Liên doanh phát triển và sản xuất pin lithium-ion để sử dụng trong xe hybrid, plug-in hybrid và phương tiện chạy điện.
SD Flex Co., Ltd. được thành lập vào tháng 10 năm 2004 với tư cách là một công ty liên doanh của Samsung và DuPont, một trong những công ty hóa chất lớn nhất thế giới.
Sermatech Korea sở hữu 51% cổ phần của mình, trong khi Samsung sở hữu 49% còn lại. Công ty Sermatech International của Mỹ, cho một doanh nghiệp chuyên về các quy trình xây dựng máy bay như hàn và hàn cứng.
Siam Samsung Life Insurance: Samsung Life Insurance nắm giữ 37% cổ phần trong khi Saha Group cũng có 37,5% cổ phần trong liên doanh, với 25% còn lại thuộc sở hữu của Ngân hàng Thanachart.
Siltronic Samsung Wafer Pte. Ltd, liên doanh của Samsung và hoàn toàn thuộc sở hữu của công ty con Wacker Chemie Siltronic, đã chính thức khai trương tại Singapore vào tháng 6 năm 2008.
SMP Ltd. là một liên doanh giữa Samsung Fine Chemicals và MEMC. MEMC Electronic Materials Inc. và một chi nhánh của tập đoàn Samsung Hàn Quốc đang hình thành một liên doanh để xây dựng một nhà máy polysilicon.
Steco là liên doanh được thành lập giữa Samsung Electronics và Toray Industries của Nhật Bản vào năm 1995.
Stemco là một liên doanh được thành lập giữa Samsung Electro-Mechanics và Toray Industries vào năm 1995.
Toshiba Samsung Storage Technology Corporation (TSST) là liên doanh giữa Samsung Electronics và Toshiba của Nhật Bản chuyên sản xuất ổ đĩa quang. TSST được thành lập năm 2004 và Toshiba sở hữu 51% cổ phần, trong khi Samsung sở hữu 49% còn lại.
Ngừng hoạt động
Năm 1998, Samsung đã thành lập một liên doanh của Mỹ với Compaq - được gọi là Alpha Processor Inc. (API) - để giúp họ tham gia vào thị trường bộ xử lý cao cấp. Liên doanh cũng nhằm mục đích mở rộng kinh doanh vi mạch không nhớ của Samsung bằng cách chế tạo bộ xử lý Alpha. Vào thời điểm đó, Samsung và Compaq đã đầu tư 500 triệu đô la vào bộ xử lý Alpha.
GE Samsung Lighting là một liên doanh giữa Samsung và công ty con GE Lighting của General Electric. Liên doanh được thành lập vào năm 1998 và được chia ra năm 2009.
Global Steel Exchange là liên doanh được thành lập vào năm 2000 giữa Samsung, Cargill có trụ sở tại Hoa Kỳ, Tập đoàn Duferco có trụ sở tại Thụy Sĩ và Tradearbed có trụ sở tại Luxembourg (nay là một phần của ArcelorMittal), để xử lý việc mua và bán trực tuyến thép của họ.
S-LCD Corporation là liên doanh giữa Samsung Electronics (50% + 1 cổ phần) và Sony Corporation (50% - 1 cổ phần) được thành lập vào tháng 4 năm 2004. Ngày 26 tháng 12 năm 2011, Samsung Electronics thông báo sẽ có được tất cả cổ phần của Sony trong liên doanh.
Các công ty thuộc sở hữu một phần
Samsung Heavy Industries sở hữu 10% nhà đóng tàu Atlântico Sul của Brazil, nhà máy đóng tàu Atlântico Sul của Mỹ là nhà máy đóng tàu lớn nhất ở khu vực Nam Mỹ. Joao Candido, con tàu lớn nhất của Brazil, được xây dựng bởi Atlântico Sul với công nghệ được cấp phép bởi Samsung Heavy Industries. Các công ty có thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật qua đó thiết kế công nghiệp, kỹ thuật tàu và các bí quyết khác đang được chuyển giao cho Atlântico Sul.
Samsung Life Insurance hiện nắm giữ 7,4% cổ phần trong công ty ngân hàng Tập đoàn tài chính DGB của Hàn Quốc, trở thành cổ đông lớn nhất.
Samsung mua lại 7,4% nhà sản xuất Gorilla Glass Corning, ký hợp đồng cung cấp dài hạn.
Samsung Heavy Industries hiện nắm giữ 14,1% cổ phần của Doosan Engine, trở thành cổ đông lớn thứ hai.
Samsung Techwin hiện đang nắm giữ 10% cổ phần của Korea Aerospace Industries (KAI). Các cổ đông lớn khác bao gồm công ty nhà nước Korea Finance Corporation (26,75%), Hyundai Motor (10%) và Doosan (10%).
MEMC KOREA: Liên doanh của MEMC với Công ty Samsung Electronics, Năm 1990, MEMC đã ký một thỏa thuận liên doanh để xây dựng một nhà máy silicon tại Hàn Quốc.
Samsung mua 10% cổ phần trong nhà sản xuất điện thoại đối thủ Pantech.
Samsung hiện sở hữu 4,19% của Rambus Incorporated.
Samsung hiện đang sở hữu 19,9% nhà sản xuất ô tô Renault Samsung Motors.
Samsung hiện sở hữu 9,6% Seagate Technology, trở thành cổ đông lớn thứ hai. Theo thỏa thuận cổ đông, Samsung có quyền đề cử một giám đốc điều hành cho Ban Giám đốc của Seagate.
Samsung sở hữu 3% cổ phần của Sharp Corporation, một công ty đối thủ.
Samsung Engineering nắm giữ 10% cổ phần của Sungjin Geotec, một công ty khoan dầu ngoài khơi, là công ty con của POSCO.
Taylor Energy là một công ty dầu mỏ độc lập của Hoa Kỳ, tập trung tại vịnh Mexico, có trụ sở tại New Orleans, Louisiana. Samsung Oil & Gas USA Corp., các công ty con của Samsung, hiện sở hữu 20% Taylor Energy.
Samsung sở hữu 5% Wacom.
Khách hàng chính
Các khách hàng lớn của Samsung bao gồm:
Chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
Một consortium của các công ty Hàn Quốc, bao gồm Samsung, Korea Electric Power Corporation và Hyundai, đã giành được một thỏa thuận trị giá 40 tỷ đô la để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở UAE.
Chính quyền Ontario
Chính quyền tỉnh Ontario của Canada đã ký một trong những dự án năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới, ký một thỏa thuận trị giá 6,6 tỷ đô la cho thêm 2.500 MW năng lượng gió và mặt trời mới. Theo thỏa thuận, một tập đoàn do Samsung và Tập đoàn Điện lực Hàn Quốc đứng đầu sẽ quản lý việc phát triển 2.000 trang trại gió mới và 500 MW công suất mặt trời, đồng thời xây dựng một chuỗi cung ứng sản xuất trong tỉnh.
Royal Dutch Shell
Samsung Heavy Industries sẽ là nhà cung cấp duy nhất các cơ sở lưu trữ khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) trị giá 50 tỷ USD cho Royal Dutch Shell trong 15 năm tới.
Shell công bố kế hoạch xây dựng nền tảng khí tự nhiên hóa lỏng nổi (FLNG) đầu tiên trên thế giới. Vào tháng 10 năm 2012 tại xưởng đóng tàu Samsung Heavy Industries trên đảo Geoje ở Hàn Quốc, công việc bắt đầu trên một "con tàu", khi hoàn thành và được nạp đầy, sẽ nặng 600.000 tấn, "con tàu" lớn nhất thế giới. Nó gấp sáu lần tàu sân bay lớn nhất của Mỹ.
Logo và phông chữ
Màu cơ bản trong logo là màu xanh, mà Samsung đã sử dụng trong nhiều năm, được cho là tượng trưng cho sự ổn định, độ tin cậy và trách nhiệm xã hội của công ty.
Logo âm thanh
Samsung có biểu tượng âm thanh, bao gồm E♭, A♭, D♭, E♭; sau giai điệu E ban đầu, nó tăng lên một phần tư tạo A♭, giảm một phần năm thành D♭, sau đó tăng một giây để trở về giai điệu E ban đầu. Logo âm thanh được sản xuất bởi Musikvergnuegen và được viết bởi Walter Werzowa. Tuy nhiên, biểu tượng âm thanh này chính thức khai tử vào năm 2015.
Phông chữ
Vào tháng 7 năm 2016, Samsung đã công bố phông chữ SamsungOne, một kiểu chữ hy vọng sẽ mang đến một bản sắc hình ảnh nhất quán và phổ quát cho nhiều sản phẩm của Samsung. SamsungOne được thiết kế để sử dụng trên danh mục thiết bị đa dạng của Samsung, tập trung vào tính dễ đọc cho mọi thứ từ các thiết bị nhỏ hơn như điện thoại thông minh đến TV hoặc tủ lạnh, cũng như tiếp thị và quảng cáo của Samsung. Phông chữ hỗ trợ 400 ngôn ngữ khác nhau thông qua hơn 25.000 ký tự.
Các loại mặt hàng
Samsung Medical Center
Samsung tặng khoảng 100 triệu USD mỗi năm cho Samsung Medical Center, một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1994. Samsung Medical Center hợp tác cùng Bệnh viện Samsung Seoul, Bệnh viện Samsung Kangbuk, Bệnh viện Samsung Changwon, Trung tâm Ung thư Samsung và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Đời sống Samsung. Trung tâm Ung thư Samsung, nằm ở Seoul, là trung tâm ung thư lớn nhất ở châu Á.
Samsung Medical Center và công ty dược phẩm đa quốc gia Pfizer đã đồng ý hợp tác nghiên cứu để xác định các cơ chế di truyền chịu trách nhiệm cho các kết cục lâm sàng trong ung thư biểu mô tế bào gan.
Tài trợ
Samsung Electronics đã chi khoảng 14 tỷ đô la Mỹ để quảng cáo và tiếp thị vào năm 2013. Với 5,4% doanh thu hàng năm, đây là tỷ lệ lớn hơn bất kỳ doanh nghiệp nào trong số 20 công ty hàng đầu thế giới (Apple đã chi 0,6% và General Motors chi 3,5%). Samsung đã trở thành nhà quảng cáo lớn nhất thế giới trong năm 2012, chi tiêu 4,3 tỷ đô la, so với 1 tỷ đô la của Apple. Giá trị thương hiệu toàn cầu của Samsung năm 2013 là gần 40 tỷ USD.
Thể thao
Samsung là nhà tài trợ cho câu lạc bộ Bayern Munich ở giải Bundesliga. Samsung đã đánh dấu vào lịch sử giải Bóng đá Ngoại hạng Anh khi trở thành nhà tài trợ bóng đá lớn nhất cho câu lạc bộ Chelsea F.C., ước tính trị giá hơn 50 triệu bảng Anh cho 5 năm tài trợ. Tập đoàn cũng là nhà tài trợ cho 2 câu lạc bộ bóng đá ở giải hạng nhất ở Anh - Swindon Town và Leyton Orient.
Tập đoàn cũng tài trợ cho đội Sydney Roosters tại Giải vô địch bóng bầu dục Australia (NRL) từ 1995-1997 và từ 2004 đến nay. Họ cũng tài trợ cho câu lạc bộ bóng đá Melbourne Victory trong giải quốc gia Australia A-League.
Samsung cũng là nhà đồng tài trợ, cùng với hãng Radio Shack, tài trợ đường đua Samsung/Radio Shack 500 NASCAR.
Samsung là nhà tài trợ cho thế vận hội Olympic ở Seoul năm 1988, và đối tác toàn cầu của Olympic kể từ Thế vận hội mùa đông năm 1998.
Samsung tham gia điều hành nhiều câu lạc bộ thể thao như Suwon Samsung Bluewings, clb bóng chày Samsung Lions, clb bóng rổ Seoul Samsung Thunders, clb bóng chuyền Daejeon Samsung Fire Bluefangs,...
Samsung cũng là nhà tài trợ cho giải đấu thể thao điện tử Starcraft Brood War cùng đội tuyển Samsung Khan ở bộ môn Starcraft II.
Thừa kế hợp pháp nhưng bằng cách thiết thực
Tháng 10 năm 1996, Samsung Everland, khu giải trí lớn nhất Hàn Quốc, đã phát hành 1,28 triệu bản khế ước thay đổi (CB), mỗi cái có giá trị 7.700 Won – có thể coi là rẻ hơn so với giá cổ phiếu của công ty lúc đó là 100.000 won. Không phải cổ đông nào cũng có quyền mua những bản khế ước này, ngoại trừ con trai và con gái của chủ tịch Lee Kun-hee. Trong một thời gian ngắn, những đứa con của ông đã biến khế ước thành cổ phiếu, và từ đó trở thành những cổ đông chính. Chỉ một quá trình đơn giản vậy đã góp vào lợi nhuận 120 tỷ won (khoảng 120 triệu USD). Ngày 24 tháng 3 năm 1997, Hãng điện tử Samsung cũng đã dùng cách tương tự, phát hành những khế ước trị giá 60 tỷ won để sinh ra 45 tỷ won khác (khoảng 45 triệu USD) vào lợi nhuận của gia đình. Ngày 26 tháng 2 năm 1999, thay vì dùng khế ước thay đổi, Samsung SDS phát hành Khế ước chứng thực (BW) với giá trị thấp hơn, chỉ 7.150 Won.
Cách thức trên đã cho phép những đứa con của Lee Kun-hee trở thành những người giàu nhất Hàn Quốc, và cũng như việc điều hành thành công của toàn thể tập đoàn Samsung.
Tranh cãi
Các vụ bê bối tài chính
Năm 2007, cựu giám đốc luật sư của Samsung, ông Kim Yong Chul, tuyên bố rằng ông đã tham gia hối lộ và ngụy tạo bằng chứng để chạy tội cho chủ tịch tập đoàn Lee Kun-hee và công ty. Kim nói rằng các luật sư của Samsung đã huấn luyện các giám đốc điều hành để phục vụ như là những vật tế thần theo một "kịch bản" để bảo vệ Lee, mặc dù những người điều hành đó không tham gia. Kim cũng nói với giới truyền thông rằng anh đã bị Samsung từ bỏ sau khi từ chối trả khoản hối lộ 3,3 triệu USD cho thẩm phán Tòa án liên bang Hoa Kỳ, trong đó hai giám đốc điều hành của họ bị kết tội vì tội kê khống giá vi mạch. Kim tiết lộ rằng công ty đã huy động một lượng lớn quỹ bí mật thông qua các tài khoản ngân hàng được mở bất hợp pháp dưới tên của tối đa 1.000 giám đốc điều hành Samsung - dưới tên của chính mình, bốn tài khoản đã được mở để quản lý 5 tỷ Won.
Vị thế độc quyền
"Bạn thậm chí có thể nói rằng chủ tịch Samsung mạnh hơn Tổng thống Hàn Quốc. Người Hàn Quốc đã nghĩ đến Samsung là bất khả chiến bại và cao hơn pháp luật", Woo Suk-hoon, chủ nhà của một podcast kinh tế nổi tiếng đã nói tại một bài viết trên tờ Washington Post đã được công bố vào ngày 9/12/2012. Các nhà phê bình cho rằng Samsung đã loại bỏ các doanh nghiệp nhỏ hơn, hạn chế lựa chọn cho người tiêu dùng Hàn Quốc và đôi khi thông đồng với những tập đoàn khổng lồ khác để thao túng giá. Lee Jung-hee, một ứng cử viên tổng thống Hàn Quốc, cho biết trong một cuộc tranh luận, "Samsung nắm chính phủ trong tay của mình. Samsung quản lý thế giới, báo chí, các viện nghiên cứu và giới quan chức".
Tiếp thị lan truyền
Ủy ban Thương mại Công bằng Đài Loan đang điều tra Samsung và đại lý quảng cáo tại Đài Loan để quảng cáo sai sự thật. Vụ kiện được bắt đầu sau khi Ủy ban nhận được khiếu nại cho biết cơ quan đã thuê sinh viên tấn công các đối thủ cạnh tranh của Samsung Electronics trong các diễn đàn trực tuyến. Samsung Đài Loan đã đưa ra thông báo trên trang Facebook của mình, trong đó tuyên bố rằng họ không can thiệp vào bất kỳ báo cáo đánh giá nào và đã ngừng các chiến dịch tiếp thị trực tuyến cấu thành việc đăng hoặc trả lời nội dung trong các diễn đàn trực tuyến.
Lạm dụng lao động
Samsung là chủ đề của một số khiếu nại về lao động trẻ em trong chuỗi từ năm 2012 đến năm 2015.
Vào tháng 7 năm 2014, Samsung đã cắt hợp đồng với Shinyang Electronics sau khi nhận được khiếu nại về công ty vi phạm luật lao động trẻ em. Samsung nói rằng cuộc điều tra của họ đã đưa ra bằng chứng của Shinyang sử dụng lao động chưa đủ tuổi và họ đã cắt đứt quan hệ ngay lập tức theo chính sách "không khoan nhượng" đối với các vi phạm lao động trẻ em.
Một trong những nhà máy cung cấp Trung Quốc của Samsung, HEG, đã bị chỉ trích vì sử dụng lao động chưa đủ tuổi của China Labor Watch (CLW) vào tháng 7 năm 2014. HEG đã từ chối các cáo buộc và đã kiện China Labor Watch.
CLW đã đưa ra một tuyên bố vào tháng 8 năm 2014 cho rằng HEG đã thuê hơn 10 trẻ em dưới 16 tuổi tại một nhà máy ở Huệ Châu, Quảng Đông. Nhóm cho biết đứa trẻ nhỏ nhất được xác định là 14 tuổi. Samsung cho biết họ đã tiến hành một cuộc điều tra tại chỗ về dây chuyền sản xuất bao gồm các cuộc phỏng vấn trực tiếp nhưng không tìm thấy bằng chứng về lao động trẻ em đang được sử dụng. CLW đã trả lời rằng HEG đã bác bỏ những công nhân được yêu cầu nói dối trong tuyên bố của mình trước khi các nhà điều tra của Samsung đến.
CLW cũng tuyên bố rằng HEG đã vi phạm các quy tắc làm thêm giờ cho công nhân người lớn. CLW cho biết một sinh viên đại học nữ chỉ trả lương tiêu chuẩn mặc dù làm việc thêm bốn tiếng mỗi ngày mặc dù luật pháp Trung Quốc đòi hỏi phải trả lương gấp 1,5 đến 2,0 lần lương tiêu chuẩn.
Sửa giá
Vào ngày 19 tháng 10 năm 2011, các công ty Samsung bị phạt 145.727.000 Euro vì là một phần của một cartel giá của mười công ty cho DRAM kéo dài từ ngày 1 tháng 7 năm 1998 đến ngày 15 tháng 6 năm 2002.
Tại Canada, trong năm 1999, một số nhà sản xuất vi mạch DRAM đã âm mưu sửa chữa giá, trong số các bị cáo có Samsung. Việc sửa chữa giá đã được điều tra vào năm 2002. Một cuộc suy thoái bắt đầu xảy ra trong năm đó, và việc sửa chữa giá kết thúc; tuy nhiên, trong năm 2014, chính phủ Canada đã mở lại vụ án và điều tra âm thầm. Đã tìm thấy và trình bày đủ bằng chứng cho Samsung và hai nhà sản xuất khác trong một buổi điều trần vụ kiện tập thể. Các công ty đã đồng ý một thỏa thuận trị giá 120 triệu đô la, với 40 triệu đô la tiền phạt và 80 triệu đô la để trả lại cho người Canada mua máy tính, máy in, máy nghe nhạc MP3, bảng điều khiển trò chơi hoặc máy ảnh từ tháng 4 năm 1999 đến tháng 6 năm 2002.
Lỗi đánh nhầm của Samsung 2018
Vào ngày 8 tháng 4 năm 2018 trong lỗi đánh máy nhầm của Samsung năm 2018, công ty đã nhầm lẫn cấp một khoản tiền khổng lồ cho nhân viên trong một kế hoạch sở hữu cổ phiếu. Lỗi này đã làm gián đoạn thị trường tài chính Hàn Quốc.
Kiện tụng
Theo các bảng báo cáo, năm 2006 Samsung đã bị kiện bởi các công ty 20th Century Fox, Paramount Pictures, Time Warner, Walt Disney và Universal Studios. Năm hãng phim lớn nhất Hoa Kỳ này cho rằng một trong các sản phẩm đầu DVD của Samsung đã không sử dụng công nghệ mã hóa.
Người phát ngôn của Samsung nói "đoán chắc rằng những nhà làm phim đó đã tung ra sản phẩm DVD-HD841 mà Samsung bán ở Mỹ từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2004. Nếu vậy, chúng tôi không hiểu tại sao những hãng phim đó lại phàn nàn về sản phẩm. Chúng tôi đã ngừng sản xuất đời DVD đó sau khi quyền bảo vệ sao chép của nó có thể bị phá huỷ bởi những người sử dụng rắc rối".
Tại Việt Nam
Samsung đã đầu tư hàng chục tỷ USD vào thị trường Việt Nam. Samsung Electronics Vietnam hiện nay đã và đang không chỉ là doanh nghiệp FDI có quy mô sản xuất lớn nhất, có quy trình tuyển dụng nhân sự khắt khe bậc nhất, lọt top những nơi làm việc tốt nhất, mà còn là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất ở quốc gia này.
Năm 2021, Samsung dẫn đầu danh sách các thương hiệu tốt nhất Việt Nam.
Năm 2022, Samsung Electronics Vietnam hợp tác với nền tảng chuẩn bị đám cưới WEDDINGBOOK để tổ chức triển lãm cưới nhằm tăng cường sự hiện diện các thiết bị gia dụng thông minh tới các cặp đôi mới cưới tại Việt Nam. Trong khi đó tại Hàn Quốc, Samsung Electronics cùng với WEDDINGBOOK trụ sở chính tại Cheongdam-dong Hàn Quốc đã cùng tổ chức các cửa hàng pop-up và các sự kiện hòa nhạc, nơi các cặp đôi mới cưới chuẩn bị kết hôn có thể trải nghiệm nhiều trải nghiệm khác nhau.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công ty viễn thông
Công ty đa quốc gia
Chaebol
Tập đoàn công ty Hàn Quốc
Công ty sản xuất điện thoại di động
Công ty Hàn Quốc
Công nghệ |
690613 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Oncidium%20auriferum | Oncidium auriferum | Oncidium auriferum là một loài phong lan có ở miền tây Nam Mỹ tới miền bắc Venezuela.
Hình ảnh
Tham khảo
A |
751620 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Distorsio%20burgessi | Distorsio burgessi | Distorsio burgessi là một loài ốc biển kích thước trung bình-nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Personidae.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Distorsio |
872866 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Triaenodes%20furcellus | Triaenodes furcellus | Triaenodes furcellus là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Tân bắc.
Chú thích
Tham khảo
Trichoptera miền Tân bắc
Triaenodes |
304578 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%C3%AAn | Biên | Biên có thể là:
Biên của một tập hợp, là tập hợp những điểm mà lân cận của nó vừa chứa những điểm thuộc tập cho trước, vừa chứa những điểm không thuộc.
Biên (kinh tế học) chỉ chênh lệch của một đại lượng biến đổi phụ thuộc vào biến đổi của đại lượng khác.
Kinh tế sản phẩm |
399935 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedelsheim | Friedelsheim | Friedelsheim là một đô thị thuộc huyện Bad Dürkheim, trong bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Đô thị Friedelsheim có diện tích 4,16 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 1542 người.
Tham khảo
Xã và đô thị ở huyện Bad Dürkheim |
526607 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Elbl%C4%85g | Elbląg | Elbląg là một thành phố Ba Lan. Elbląg nằm ở phía bắc Ba Lan ở rìa phía đông của khu vực Żuławy với 124.257 cư dân (ngày 31 tháng 12 năm 2011). Đây là thủ phủ của huyện Elbląski và tỉnh Warmińsko-Mazurskie. Trước đây nó là thủ phủ của tỉnh Elbląg (1975-1998) và một quận hạt trong tỉnh Gdańsk (1945-1975).
Elbląg là một trong những thành phố lâu đời nhất trong tỉnh. Lịch sử của nó bắt đầu từ năm 1237, khi Triều đại xây dựng thành lũy được củng cố của họ trên bờ sông gần đó. Lâu đài sau đó phục vụ như là chỗ ngồi chính thức của Hội Teutonic Master.
Tham khảo
Huyện thành phố của Ba Lan
Liên minh Hanse |
397324 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%C6%A1ng%20sinh | Tương sinh | Giữa Ngũ hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy nhau để vận động không ngừng, đó là quan hệ Tương sinh. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Trong quan hệ Tương sinh, mỗi Hành đều có mối quan hệ với hai Hành khác (hai vị trí khác: Cái-Sinh-Nó và Cái-Nó-Sinh). Người hình tượng hóa quan hệ tương sinh cho dễ hiểu bằng hình ảnh quan hệ Mẫu - Tử: chẳng hạn Mộc (Mẹ) sinh Hỏa (Con)… Thí dụ: vận động chân tay (Mộc) làm cho người nóng lên (sinh Hỏa)…
Tham khảo
Ngũ hành |
970841 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Desmopachria%20grouvellei | Desmopachria grouvellei | Desmopachria grouvellei là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ nước. Loài này được Régimbart miêu tả khoa học năm 1895.
Chú thích
Tham khảo
Bọ nước
Desmopachria |
270631 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%AD%20h%E1%BA%ADu%20Th%C3%A1i%20Lan | Khí hậu Thái Lan | Khí hậu Thái Lan là khí hậu nhiệt đới Xavan. Thời tiết nóng, mưa nhiều. Từ giữa tháng 5 cho tới tháng 9, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. Từ tháng 10 đến giữa tháng 3 chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc khô, lạnh. Eo đất phía Nam luôn luôn nóng, ẩm.
Khí hậu chung
Thái Lan có 4 mùa rõ rệt: Mùa khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 2, mùa nóng từ tháng 3 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10, mùa mát từ tháng 11 đến tháng 12. Trong đó mưa nhiều nhất (90%) xảy ra vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình của thời tiết Thái Lan cao hơn Việt Nam, nhiệt độ thường từ 32 độ C vào tháng 12 và lên tới 35 độ C vào tháng 4 hàng năm.
Du lịch
Thời điểm lý tưởng nhất để đến thăm Thái Lan là từ tháng 11 đến tháng 2 vì trong suốt những tháng này hầu như không có mưa và tiết trời không quá nóng. Đây cũng là thời điểm hay diễn ra nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc. Nếu du khách muốn tìm hiểu và tham dự lễ hội ở Thái Lan, nên đi du lịch vào tháng 4 để được hòa mình vào không khí tưng bừng nhộn nhịp của lễ té nước Songkran, lễ hội lớn nhất trong năm diễn ra vào 13-15/4 để đón chào năm mới.
Nếu muốn thực hiện một chuyến du ngoạn ở các tỉnh miền núi phía Bắc, du khách có thể đi vào tháng 3 – 5, hoặc tháng 6 – 7, mùa này nhiệt độ trên núi khá ôn hòa và dễ chịu. Còn đối với khu vực miền Trung và Đông bắc Thái Lan, thời điểm này sẽ không thích hợp cho chuyến đi vì thời tiết sẽ rất nóng có thể lên tới 40oC.
Mùa du lịch
Mùa du lịch cao điểm ở Thái Lan thường diễn ra từ tháng 11 đến cuối tháng 3, tháng 7 và tháng 8. Nếu không thích sự đông đúc mà muốn thưởng ngoạn những không gian yên tĩnh nơi đất Thái hay thuê phòng giảm giá, du khách nên chọn đi du lịch vào những tháng ít khách điển hình là tháng 4, 5, 6, 9, 10.
Tham khảo
Địa lý Thái Lan
Thái Lan
Thái Lan |
330194 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Patrick%20Dewaere | Giải Patrick Dewaere | Giải Patrick Dewaere là một giải của điện ảnh Pháp dành cho các nam diễn viên đầy triển vọng trong khu vực nói tiếng Pháp, tương đương với giải Romy Schneider dành cho các nữ diễn viên đầy triển vọng.
Trước đó - từ năm 1981 tới năm 2006 - giải này mang tên giải Jean Gabin. Nhưng do sự bất hòa giữa tổ chức phụ trách giải với con gái của Jean Gabin, nên giải đó bị bãi bỏ và thay bằng giải này, đặt theo tên nam diễn viên nổi tiếng Patrick Dewaere với vai diễn trong phim Les Valseuses năm 1974.
Dưới đây là danh sách các người đoạt giải (từ năm 2008 tới nay):
2008: Jocelyn Quivrin
2009: Nicolas Duvauchelle
Tham khảo
Patrick
Giải thưởng điện ảnh Pháp
Điện ảnh Pháp |
700489 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bremerhaven | Bremerhaven | Bremerhaven là cảng biển của Thành phố cảng tự do Bremen, Đức.
Nó tạo thành một vùng đất lọt trong bang Lower Saxony và tọa lạc tại cửa sông Weser trên bờ phía đông của nó, đối diện với thị trấn Nordenham. Mặc dù là một thành phố tương đối mới, nó có một lịch sử lâu dài như là một cảng thương mại và hôm nay là một trong những cảng quan trọng nhất của Đức, đóng vai trò quan trọng trong thương mại của Đức.
Lịch sử
Thị trấn được thành lập vào năm 1827, nhưng các khu định cư, như Lehe, nằm trong vùng lân cận vào đầu thế kỷ thứ 12, và Geestendorf, được "đề cập đến trong các văn bản của thế kỷ 9".
Tham khảo
Thành phố của Đức
Bremerhaven
Khởi đầu năm 1827 ở Bremen
Thành phố ở Bremen |
884442 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Andrena%20neovirida | Andrena neovirida | Andrena neovirida là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Grünwaldt mô tả khoa học năm 2005.
Chú thích
Tham khảo
N
Động vật được mô tả năm 2005 |
901249 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Agrypnus%20bidentatus | Agrypnus bidentatus | Agrypnus bidentatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fleutiaux miêu tả khoa học năm 1934.
Chú thích
Tham khảo
Agrypnus |
925208 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Macrocoma%20splendens | Macrocoma splendens | Macrocoma splendens là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Lindberg miêu tả khoa học năm 1950.
Chú thích
Tham khảo
Macrocoma |
906601 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Glyphonyx%20teapensis | Glyphonyx teapensis | Glyphonyx teapensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Champion mô tả khoa học năm 1896.
Chú thích
Tham khảo
Glyphonyx |
562457 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Areca%20ipot | Areca ipot | Areca ipot là loài thực vật có hoa thuộc họ Arecaceae. Loài này được Becc. mô tả khoa học đầu tiên năm 1909.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chi Cau
Thực vật được mô tả năm 1909
Thực vật Philippines
Thực vật dễ tổn thương |
315273 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Courchapon | Courchapon | Courchapon là một xã của tỉnh Doubs, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền đông nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Doubs
Tham khảo
INSEE
IGN
Xã của Doubs |
914747 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Aspidimorpha%20maffinbayensis | Aspidimorpha maffinbayensis | Aspidimorpha maffinbayensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Borowiec miêu tả khoa học năm 1992.
Chú thích
Tham khảo
Aspidimorpha |
163333 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20t%E1%BA%BF%20Philippines | Kinh tế Philippines | Kinh tế Philippines là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, theo các số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2020, quy mô nền kinh tế của quốc gia này xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau Indonesia và Thái Lan, đứng hạng 32 toàn cầu theo GDP danh nghĩa. Philippines được coi là một trong những con Hổ mới châu Á cùng với Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan. HSBC dự đoán kinh tế của Philippines có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ 16 thế giới, lớn thứ 5 châu Á và lớn thứ 2 Đông Nam Á vào năm 2050. Tuy nhiên, triển vọng có thể trở thành hiện thực được hay không thì còn tùy thuộc vào hiệu quả hoạt động của chính phủ nước này, vốn luôn bị ảnh hưởng bởi nạn tham nhũng. Đây cũng là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở Đông Nam Á cũng như toàn cầu, với tỷ lệ tăng GDP trung bình là 7,5% mỗi năm. Kinh tế Philippines thường được so sánh với nền kinh tế Ấn Độ do có nhiều những điểm tương đồng trong sự tăng trưởng nhanh và đột biến.
Các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế của Philippines gồm nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là chế biến thực phẩm, dệt sợi và quần áo, các bộ phận điện tử và ô tô. Ngành công nghiệp hầu như tập trung vào các thành phố xung quanh Manila, trong khi Cebu cũng đang trở thành một địa điểm hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài trong thời gian gần đây. Ngành khai thác mỏ cũng có tiềm năng lớn ở Philippines, sở hữu một lượng dự trữ lớn chromite, niken, đồng. Gần đây các khí gas tự nhiên đã được tìm ra và thêm vào nguồn dự trữ năng lượng.
Tại Philippine, người Philippines gốc Hoa là thế lực chi phối nền kinh tế. Họ chỉ chiếm chưa đầy 2% dân số, nhưng chiếm trên 35% kim ngạch thương mại của nước này. Đã có những người Philippines gốc Hoa làm Tổng thống như nữ Tổng thống Corazon Aquino. Thống kê năm 2000 cho thấy người Philippines gốc Hoa sở hữu hơn 50% cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Philippines.
Xu hướng kinh tế vĩ mô
Đây là biểu đồ xu hướng tăng tổng sản phẩm quốc nội của Philippines theo giá cả thị trường được ước tính bởi Quỹ tiền tệ quốc tế, đơn vị tính là triệu Peso Philippines.
Xem thêm
Kinh tế châu Á
Kinh tế Đông Nam Á
Liên kết ngoài
State of the Philippine Islands
Bangko Sentral ng Pilipinas (Central Bank of the Philippines)
National Statistical Coordination Board
National Statistics Office
Department of Trade and Industry
Philippine Stock Exchange
Philippine Stock Market Forum
National Federation of Sugarcane Planters
Chú thích
Philippines |
349163 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Aichstetten | Aichstetten | Aichstetten là một đô thị ở huyện Ravensburg ở bang Baden-Württemberg thuộc nước Đức. Đô thị này có diện tích 33,74 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2020 là 2842 người.
Tham khảo |
834081 | https://vi.wikipedia.org/wiki/2577%20Litva | 2577 Litva | 2577 Litva (1975 EE3) là một tiểu hành tinh bay qua Sao Hỏa được phát hiện ngày 12 tháng 3 năm 1975 bởi N. Chernykh ở Nauchnyj. "Litva" có nghĩa quốc gia Litva.
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 2577 Litva
Được phát hiện bởi Nikolai Chernykh
Thiên thể phát hiện năm 1975 |
914241 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Aphthona%20siamica | Aphthona siamica | Aphthona siamica là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Kimoto miêu tả khoa học năm 2000.
Chú thích
Tham khảo
Aphthona |
549090 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Peperomia%20graveolens | Peperomia graveolens | Peperomia graveolens là một loài thực vật thuộc họ Piperaceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Santiana, J. & Pitman, N. 2004. Peperomia graveolens. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 8 năm 2007.
graveolens
Thực vật dễ tổn thương
Thực vật đặc hữu Ecuador |
95209 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu%20Chu | Hậu Chu | Nhà Hậu Chu (後周) (951-959) là triều đại cuối cùng trong số năm triều đại, kiểm soát phần lớn miền Bắc Trung Quốc trong thời Ngũ đại Thập quốc, một thời kỳ kéo dài từ năm 907 tới năm 960 và là cầu nối giữa thời nhà Đường và thời nhà Tống.
Thành lập
Quách Uy (904-954), một viên tướng người Hán, khi đó đảm nhiệm chức vụ Khu mật Phó sứ tại Triều đình nhà Hậu Hán, chính quyền người Sa Đà. Năm 950, ông có công đánh dẹp những cuộc phản loạn của một số tướng lĩnh Hậu Hán. Hoàng đế thứ hai nhà Hậu Hán là Lưu Thừa Hữu có ý nghi ngờ Quách Uy, đã hạ chiếu cho giết ông. Theo lời khuyên của một viên quan trong Khu mật viện là Ngụy Nhân Phủ, ông đem quân tấn công trước. Lưu Thừa Hữu bị giết chết trong cuộc tấn công vào Kinh đô Biện Lương. Đầu năm 951, Quách Uy tự lập làm Hoàng đế, đổi quốc hiệu thành Chu, sử sách gọi là nhà Hậu Chu và đổi niên hiệu thành Quảng Thuận.
Quách Uy
Quách Uy, miếu hiệu (Hậu) Chu Thái Tổ, là vị hoàng đế người Hán đầu tiên tại Trung Quốc kể từ sau năm 923. Ông được coi là người có tài năng, mang ý định cải cách tổ chức hành chính nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho giai cấp nông dân. Thời kỳ cai trị ông là thời kỳ chính quyền được tổ chức và hoạt động có hiệu quả khá tốt. Tuy nhiên, thời gian cai trị của ông rất ngắn. Ông chết vì bệnh năm 954 sau 3 năm trị vì.
Sài Vinh
Xem chi tiết: Hậu Chu Thế Tông
Quách Vinh, tên thật Sài Vinh (921-959), miếu hiệu (Hậu) Chu Thế Tông, là con anh vợ Quách Uy, được Quách Uy nhận làm con. Sau khi Quách Uy mất, ông lên ngôi năm 954. Trong 6 năm trị vì khá hiệu quả, ông đã thực hiện một số xâm nhập về phía nam với các chiến thắng trong các trận đánh với Quân đội Nam Đường - quốc gia hùng mạnh nhất trong "Thập quốc" - năm 956. Tuy nhiên, các cố gắng ở phía bắc nhằm tiêu diệt Nhà nước Bắc Hán dù ban đầu là đầy triển vọng nhưng cuối cùng lại là không hiệu quả do nước này có sự tiếp viện của nhà Liêu. Chu Thế Tông quay sang đánh Liêu và thu được nhiều thắng lợi. Ông chết tháng 6 âm lịch năm 959 khi mới 38 tuổi do bệnh tật trong khi đang thực hiện một chiến dịch đánh Liêu tiến triển tốt. Cuộc Bắc chinh phải hoãn lại và đại quân rút về nam.
(Hậu) Chu Thế Tông được các nhà sử học Trung Quốc đánh giá là vị vua giỏi nhất thời Ngũ đại Thập quốc.
Sụp đổ
Sau khi Sài Vinh chết, con trai ông Sài Tông Huấn (953-973), khi đó mới có 6 tuổi, lên ngôi. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, vào tháng 1 âm lịch năm 960, Quân đội Liêu và Bắc Hán tiến hành Nam chinh nhằm tiêu diệt Hậu Chu. Điện tiền Đô Điểm kiểm Triệu Khuông Dận thừa lệnh đem cấm quân đi để xem xét tình hình. Nhưng khi tới Trần Kiều thì binh sĩ nổi loạn, sử gọi là Trần Kiều Binh biến, tôn Triệu Khuông Dận lên làm Hoàng đế. Nhà Hậu Chu diệt vong, Sài Tông Huấn bị giáng xuống làm Trịnh Vương và mất sau đó 13 năm.
Các vị vua nhà Hậu Chu
Xem thêm
nhà Hậu Hán
Nhà Tống
Quách Uy
Sài Vinh
Tham khảo
Hậu Chu
Hậu Chu, nhà
Cựu quốc gia trong lịch sử Trung Quốc
Triều đại Trung Quốc
Ngũ đại Thập quốc |
722882 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Morula%20nodulifera | Morula nodulifera | Morula nodulifera là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Muricidae, họ ốc gai.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Morula |
666730 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cassia%20fikifiki | Cassia fikifiki | Cassia fikifiki là một loài cây gỗ in the Fabaceae. Nó chỉ được tìm thấy ở Bờ Biển Ngà. Nó bị đe dọa do mất nơi sống.
Chú thích
Tham khảo
Assi, A. 1998. Cassia fikifiki. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2007.
fikifiki |
912399 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tetrigus%20okinawensis | Tetrigus okinawensis | Tetrigus okinawensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Ôhira miêu tả khoa học năm 1967.
Chú thích
Tham khảo
Tetrigus |
682124 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Eoa | Eoa | For the acronym "EOA", see EOA.
Eoa là một chi bướm đêm thuộc họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Natural History Museum Lepidoptera genus database
Geometridae |
96669 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Windows%20Live%20Hotmail | Windows Live Hotmail | Windows Live Hotmail, thường được gọi đơn giản là Hotmail, là một dịch vụ Webmail miễn phí phổ biến của Microsoft, một bộ phận của nhóm dịch vụ Windows Live. Bản beta của dịch vụ được phát hành vào ngày 1 tháng 11 năm 2005 đồng thời với việc phát hành Windows Live, và bản chính thức đã được phát hành vào ngày 7 tháng 5 năm 2007. Với tên mã trước đây là Kahuna và tên ngắn gọn là Windows Live Mail, Windows Live Hotmail được thiết kế để thay thế cho MSN Hotmail.
Nó cung cấp dung lượng lưu trữ 2 gigabyte, bộ kiểm tra chính tả tự động, bộ lọc tùy ý, và các tính năng an toàn, công nghệ lập trình Ajax, và tích hợp với Windows Live Messenger, Spaces, Calendar và Contacts. Hiện Hotmail đang có 260 triệu người dùng trên khắp thế giới và có 36 phiên bản ngôn ngữ.
Bắt đầu từ ngày 7 tháng 5 năm 2007, tất cả những tài khoản Hotmail mới khi được tạo sẽ trở thành tài khoản Windows Live Hotmail. Những người dùng MSN Hotmail cũ có thể cập nhật tài khoản của họ thành Windows Live Hotmail bằng cách ấn vào nút "Join Windows Live Hotmail" ở phía dưới logo Hotmail. Hiện nay Windows Live Hotmail có phiên bản ở 36 ngôn ngữ.
Windows Live Hotmail hoàn toàn tương thích với Internet Explorer từ 6.0 trở lên, và Mozilla Firefox từ 1.5 trở lên. Tuy nhiên, nhiều tính năng bị thiếu khi xem bằng những trình duyệt khác như Opera và Safari của Apple, với các trình duyệt này, người dùng chỉ xem được "phiên bản cổ điển" của dịch vụ.
Người dùng có thể sử dụng Windows Live Mail hoặc Microsoft Outlook có Outlook Connector (có sẵn để tải về ở Microsoft Download Center) để xem thư mà không dùng trình duyệt web.
Lịch sử
Nhãn hiệu Hotmail được tạo ra bởi Jack Smith và Sabeer Bhatia, và đi vào thương mại ngày 4 tháng 7 năm 1996 với tư cách là một trong những dịch vụ webmail đầu tiên trên Internet. Ngày đó cũng là Ngày Độc lập của Hoa Kỳ, biểu tượng cho sự "tự do" khỏi email phụ thuộc vào ISP và khả năng truy cập hộp thư từ bất cứ đâu trên thế giới. Tên "Hotmail" được chọn trong rất nhiều từ chứa chữ "-mail" vì nó có các chữ cái HTML - loại mã được sử dụng đằng sau tất cả các trang web.
Hotmail được bán cho Microsoft vào năm 1997 với giá được báo cáo là 400 triệu đô la Mỹ, và gia nhập nhóm dịch vụ MSN. Hotmail nhanh chóng trở nên phổ biến khi nó bản địa hóa cho những thị trường khác nhau và trở thành dịch vụ webmail lớn nhất thế giới, với hơn 30 triệu người dùng hoạt động vào tháng 2 1999.
Sự phát triển sau đó gắn liền với mô hình chứng nhận web của Microsoft, Passport (giờ là Windows Live ID), và tích hợp với chương trình tin nhắn nhanh của Microsoft, MSN Messenger, và nền tảng mạng xã hội của nó, MSN Spaces (giờ là Windows Live Messenger và Windows Live Spaces).
Sau một thời kỳ ì ạch về ý tưởng công nghệ, ngành công nghiệp webmail bỗng trỗi dậy vào năm 2004 khi bộ máy tìm kiếm Google thông báo dịch vụ mail của riêng mình, Gmail. Với những tính năng như tăng dung lượng lưu trữ, tốc độ và sự linh hoạt của giao diện, đối thủ cạnh tranh mới này đã khuất lên làn sóng sáng tạo trong webmail, với những ông lớn về lĩnh vực này—Hotmail và Yahoo! Mail—đều giới thiệu những phiên bản nâng cấp của chính mình với tốc độ, bảo mật và những tính năng nâng cao được tăng lên nhiều.
Hệ thống email mới của Microsoft được thông báo vào ngày 1 tháng 11 năm 2005 với tên mã "Kahuna", và bản beta được phát hành cho vài ngàn người dùng thử nghiệm. Dịch vụ mới này được xây dựng từ đống gạch vụn và nhấn mạnh vào ba ý tưởng chính là "nhanh hơn, đơn giản hơn và an toàn hơn". Những phiên bản mới của dịch vụ beta liên tục được ra đời, và đến cuối năm 2006 số lượng người dùng thử nghiệm đã lên tới hàng triệu.
Nhãn hiệu Hotmail được lên kế hoạch sẽ rút ra dần khi Microsoft công bố rằng hệ thống thư mới sẽ được gọi là "Windows Live Mail", tuy nhiên những nhà lập trình ngay lập tức rút lại ý kiến sau khi những người thử nghiệm beta bối rối với sự thay đổi tên gọi là thích tên Hotmail hơn, và quyết định sẽ là Windows Live Hotmail. Sự phát triển bản beta hoàn thành vào tháng 4 2007, và Windows Live Hotmail được phát hành cho những người đăng ký mới vào ngày 7 tháng 5 năm 2007. Sự chuyển đổi những người dùng hiện tại đang diễn ra, và đến tháng 11 năm 2007, sẽ thay thế hoàn toàn 260 triệu người dùng MSN Hotmail trên toàn cầu.
Tháng 10 năm 2011 Hotmail đã có những cải tiến mạnh mẽ về công nghệ, theo đó Microsoft công bố rằng giờ đây Hotmail đã nhanh hơn phiên bản củ hơn 10 lần, lọc thư rác về mức dưới 3% trong hộp thư đến, dung lượng lưu trữ không giới hạn, duyệt mail trên Microsoft Outlook và giảm 70% quảng cáo trong giao diện Hotmail. Microsoft tuyên bố Hotmail vẫn là dịch vụ Webmail lớn nhất thế giới và người dùng chắc chắn sẽ nhận được những tính năng tuyệt vời nhất.
Tính năng
Chơi nhạc
Một bộ chơi nhạc được tích hợp trong Hotmail sẽ tự động chơi thư thoại hoặc nhạc MP3 sau khi quét virus.
Bảng màu
(Bản đầy đủ)
Windows Live Hotmail cho phép người dùng thay đổi màu của trang webmail; do đó, mỗi lần người dùng đăng nhập với địa chỉ e-mail nào đó, màu đó sẽ được hiển thị. Những màu có sẵn để lựa chọn hiện nay là những màu sau: Xanh hơi nước (bảng màu mặc định của Windows Live), Xanh dương, Đỏ, Đen, Bạc, Hồng, Xanh lá cây, Tím và Cam.
Tích hợp
Hotmail tích hợp sâu rộng với nhiều dịch vụ khác của Windows Live. Người dùng có thể nhìn thấy những liên hệ trong Windows Live Messenger có trực truyến hay không và bắt đầu nói chuyện với họ ngay trong Hotmail. Tích hợp với Windows Live Spaces và Windows Live Contacts cung cấp khả năng thông tin về liên lạc tự động cập nhật, và thông báo về những Spaces được cập nhật. Windows Live Calendar cũng sẽ được tích hợp khi giao diện Hotmail hoàn chỉnh; MSN Calendar hiện đang được dùng.
Giao diện linh hoạt
Việc thiết kế lại giao diện Hotmail xoay quanh giao diện theo phong cách Outlook, với một thanh đọc để đọc hộp và tin nhắn cùng lúc, chức năng kéo thả, chọn bằng bàn phím bằng cách dùng nút Ctrl và Shift để chọn thư và trình đơn ngữ cảnh khi nhấn phải chuột để có những tùy chọn cao hơn. Khung đọc có thể được hiển thị bên cạnh hoặc bên dưới các mẩu tin, hoặc tắt hẳn.
Bảo mật
Windows Live Hotmail có những tính năng an toàn và bảo mật mạnh mẽ - một vài đã có bản quyền - bao gồm SenderID, SMTP Authentication, kiểm tra thư lừa đảo theo hành vi (phishing heuristic detection), Người gửi bảo đảm, kiểm tra danh sách gửi thư và kiểm tra chuyển tiếp. Những thư có thể không an toàn được Windows Live Hotmail bắt lại và nó sẽ không mở thư cho đến khi người dùng yêu cầu mở. Nó chứng tỏ sự hiệu quả trong việc cảnh báo người dùng khi phát hiện sự lừa đảo. Những kiểu tập tin có khả năng không an toàn cũng được khóa lại không cho download khi được đính kèm. (Xem hình chụp màn hình, phía bên phải).
Kiểm tra chính tả khi đang soạn thảo
Tính năng này có thể được nhìn thấy trong giao diện của Soạn thảo mới và kiểm tra chính tả khi đang soạn thảo, tương tự như chức năng kiểm tra chính tả trong ứng dụng Microsoft Office. Những từ gõ sai sẽ được gạch dưới bằng màu đỏ, nhấp chuột phải lên chúng sẽ cho ra một menu thả xuống với các từ đề nghị. Hiện nay, kiểm tra chính tả chỉ có ở tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, và tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, những ngôn ngữ khác cũng được lên kế hoạch phát triển trong tương lai. Windows Live Hotmail là dịch vụ webmail duy nhất hiện thực chức năng này.
Tự hoàn thành địa chỉ
(Bản đầy đủ)
Khi soạn e-mail trong màn hình New Message, người dùng bắt đầu gõ địa chỉ e-mail vào hộp soạn thảo "To:"; nếu chuỗi ký tự trùng với địa chỉ e-mail hoặc tên liên lạc nào, tất cả các liên lạc đó sẽ xuất hiện trong một hộp thoại thả xuống.
Ảnh thu nhỏ của hình
Windows Live Hotmail tự động chuyển các tập tin ảnh đính kèm lớn thành những ảnh thu dễ để dễ xem hơn. Người dùng có thể xem ảnh đó với kích thước đầy đủ khi nhấn chuột vào ảnh thu nhỏ.
Soạn thảo ký tự phong phú
Trang Thư mới của Windows Live Hotmail cho phép người dùng tinh chỉnh tin nhắn của họ với phông chữ, kích thước và màu sắc khác nhau. Người dùng cũng có thể thay đổi canh lề, thêm chấm đầu dòng và nhiều chức năng khác. Dịch vụ cũng cung cấp các biểu tượng vui để người dùng thêm vào tin nhắn. Chưa có tùy chọn tắt chức năng soạn thảo ký tự phong phú để sử dụng giao diện thuần ký tư.
Khả năng tìm kiếm
Khả năng tìm kiếm theo chỉ mục của Windows Live Hotmail bao gồm việc tìm kiếm địa chỉ và chủ đề, và đối với vài tài khoản, cả nội dung của tin nhắn. Kết quả tìm kiếm sẽ xuất hiện trong một "thư mục" mới tạm thời ở phía dưới của danh sách thư mục và người dùng hiện giờ có thể tìm kiếm cả "Thư" và "Sổ địa chỉ" cũng như "Web" (Phụ thuộc vào bạn đang ở trang nào, ví dụ như Hộp thư đến, Sổ địa chỉ,...).
Lưu trữ
Windows Live Hotmail cung cấp miễn phí cho người dùng dung lượng hộp thư 2 GB. Một cảnh báo sẽ được gửi tới người dùng nếu họ chỉ còn 50 MB là đến giới hạn. Cũng có một thanh trên màn hình "Today" cảnh báo người dùng họ đã sử dụng bao nhiêu phần trăm dung lượng cho phép, tương tự như Hotmail. Windows Live Hotmail Plus cung cấp dung lượng 4 GB. Dịch vụ này có phí sử dụng $19.95/năm và cho phép gửi tập tin đính kèm 20 MB.
Ngôn ngữ
Hiện nay Windows Live Hotmail đang có ở các ngôn ngữ tiếng Ả Rập, tiếng Bulgaria, tiếng Trung (Giản thể và Phồn thể), tiếng Croatia, tiếng Séc, tiếng Đan Mạch, tiếng Hà Lan, tiếng Anh, tiếng Estonia, tiếng Phần Lan, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Hy Lạp, tiếng Hebrew, tiếng Hung, tiếng Ý, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Latvia, tiếng Litva, tiếng Na Uy, tiếng Ba Lan, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Romania, tiếng Nga, tiếng Serb, tiếng Slovak, tiếng Slovenia, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Thụy Điển, tiếng Thái, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Việt và tiếng Ukraina.
Giải thưởng
Windows Live Hotmail đã giành được giải thưởng Bình chọn của Ban biên tập tạp chí PC Mag vào tháng 2 năm 2007 và một lần nữa vào tháng 3 năm 2007 được đánh giá 4 trên 5 sao.
Chỉ trích
Hotmail thường bị chỉ trích vì chỉ cung cấp cho thuê bao Hotmail Plus chức năng POP3, cho phép email được tải về máy tính thông qua chương trình trên máy như Microsoft Outlook hay Mozilla Thunderbird. Hotmail trước đây cho phép tất cả đều được dùng POP3, nhưng vào năm 2004 dịch vụ này dừng cung cấp cho người dùng miễn phí. Tuy nhiên, ngày nay, vẫn có thể truy cập tài khoản Hotmail từ bên ngoài trình duyệt internet bằng cách sử dụng Windows Live Mail miễn phí. Một người cũng có thể truy cập xem thư và sổ liên lạc trong tài khoản Hotmail bằng cách sử dụng Microsoft Office Outlook Connector miễn phí, mặc dù việc truy cập lịch, việc cần làm và ghi chú cần phải thuê bao cấp cao.
Giống như những dịch vụ webmail lớn khác, Hotmail thường bị các spammer dùng cho những hoạt động bất hợp pháp như gửi thư rác hoặc thư hàng loạt và quảng cáo không mong muốn, do tính phổ biến, tính rộng rãu, và dễ đăng ký thành viên mới. Microsoft đã hủy những tài khoản được các spammer dùng theo Điều khoản sử dụng và cung cấp cho người dùng khả năng báo cáo và khóa những địa chỉ gắn liền với thư rác.
Một trong những phiền phức mà người dùng Hotmail gặp phải là những quảng cáo bị tự động thêm vào chữ ký trong mỗi email được gửi đi từ tài khoản Hotmail. Tài khoản được đăng ký Hotmail Plus loại bỏ những quảng cáo này, và cũng tương tự đối với những ai dùng chương trình Windows Live Mail để gửi thư.
Tham khảo
Xem thêm
Microsoft
Microsoft Windows
Windows Live
Windows Live Mail
Windows Live ID
MSN Hotmail
Liên kết ngoài
Webmail
Windows Live |
468690 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hirnsdorf | Hirnsdorf | Hirnsdorf là một đô thị thuộc huyện Weiz thuộc bang Steiermark, nước Áo. Đô thị có diện tích 4,53 km², dân số thời điểm cuối năm 2005 là 702 người.
Tham khảo |
950699 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tipula%20pararia | Tipula pararia | Tipula pararia là một loài ruồi trong họ Ruồi hạc (Tipulidae). Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Chú thích
Tham khảo
Chi Ruồi hạc |
969862 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Andonectes%20aequatorius | Andonectes aequatorius | Andonectes aequatorius là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ nước. Loài này được Régimbart miêu tả khoa học năm 1899.
Chú thích
Tham khảo
Bọ nước
Andonectes |
358643 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sains-du-Nord | Sains-du-Nord | Sains-du-Nord là một xã ở tỉnh Nord ở miền bắc nước Pháp. Xã này có diện tích 16,03 kilômét vuông, dân số năm 1999 là 3148 người. Khu vực này có độ cao trung bình 240 mét trên mực nước biển.
Xem thêm
Xã của tỉnh Nord
Tham khảo
INSEE commune file
Sainsdunord |
952460 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Atarba%20leptoxantha | Atarba leptoxantha | Atarba leptoxantha là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.
Tham khảo
Atarba
Limoniidae ở vùng Indomalaya |
544669 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tillandsia%20rauschii | Tillandsia rauschii | Tillandsia rauschii là một loài thuộc chi Tillandsia. Đây là loài đặc hữu của Bolivia.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Checklist of Bolivian Bromeliaceae Truy cập 21 tháng 10 năm 2009
R
Thực vật Bolivia |
833973 | https://vi.wikipedia.org/wiki/2468%20Repin | 2468 Repin | 2468 Repin (1969 TO1) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 8 tháng 10 năm 1969 bởi L. Chernykh ở Nauchnyj.
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 2468 Repin
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1969 |
837481 | https://vi.wikipedia.org/wiki/5148%20Giordano | 5148 Giordano | 5148 Giordano (5557 P-L) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 17 tháng 10 năm 1960 bởi Cornelis Johannes van Houten, Ingrid van Houten-Groeneveld và Tom Gehrels ở Đài thiên văn Palomar.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 5148 Giordano
Thiên thể phát hiện năm 1960
Tiểu hành tinh vành đai chính |
584485 | https://vi.wikipedia.org/wiki/BET%20Presents%20Beyonc%C3%A9 | BET Presents Beyoncé | BET Presents Beyoncé (BET giới thiệu Beyoncé) là một DVD của ca sĩ R&B người Mỹ Beyoncé Knowles được hành bởi hãng Black Entartainment Televison – Kênh truyền hình giải trí dành cho người da den. Đĩa được phát hành kèm với album B’Day chỉ có tại các cửa hàng của Wal-mart. Đĩa gồm những video hậu trường xoay quanh album B’Day, những video ca nhạc hay nhất cùng những màn trình diễn của cô tại lễ trao giải BET Awards.
Danh sách video
What Is B'Day (B’Day là gì?)
The First Single - "Déjà Vu" (Đĩa đơn đầu tiên – "Déjà Vu")
Sophomore Jinx? (Năm đại học rắc rối?)
My Dream Team (Ê-kíp trong mơ của tôi)
"Get Me Bodied"
"Irreplaceable"
"Dangerously in Love"
I'm 100% in control (Tôi 100% làm chủ bản thân mình)
Màn trình diễn tại BET Awards 2003 - "Crazy in Love"
Màn trình diễn tại BET Awards 2004 - Mo'nique
Màn trình diễn tại BET Awards 2006 - "Déjà Vu"
Me, Myself and I (Tôi, bản thân tôi và tôi)
Dreamgirl (Những cô gái trong mơ)
Be a Celebrity (Trở thành người nổi tiếng)
Kết thúc
Video ca nhạc và những màn trình diễn
"Déjà Vu"
"Déjà Vu" trực tiếp tại BET Awards 2006
"Check on It"
"Crazy in Love"
"Crazy in Love" trực tiếp tại BET Awards 2003
"Dangerously in Love"
"Me, Myself and I"
Video khác
Access Granted (Thẻ V.I.P của bạn): "Me, Myself and I"
Beyoncé All Girl Band Rehearsal (Beyoncé cùng nhóm nhạc nữ tập luyện)
Dreamgirls Teaser/Trailer (Quảng bá/ Đoạn phim "xem lén" của Dreamgirl)
House of Deréon
Sắp tới trên kênh BET
Sắp tới tại hãng đĩa Music World
Tham khảo
Beyoncé
en:BET Presents Beyoncé
pt:BET Presents Beyoncé |
789780 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Euchelus%20atratus | Euchelus atratus | Euchelus atratus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Chilodontidae.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Drivas, J. & M. Jay (1988). Coquillages de La Réunion et de l'île Maurice
Euchelus |
295597 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tha%20Khantho%20%28huy%E1%BB%87n%29 | Tha Khantho (huyện) | Tha Khantho () là huyện cực tây bắc (‘‘amphoe’’) của tỉnh Kalasin, đông bắc Thái Lan.
Địa lý
Các huyện giáp ranh (từ phía nam theo chiều kim đồng hồ) là Nong Kung Si của tỉnh Kalasin, Kranuan của tỉnh Khon Kaen, Kumphawapi, Si That và Wang Sam Mo của tỉnh Udon Thani.
Lịch sử
Tiểu huyện (King Amphoe) Tha Khantho được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1962, khi hai tambon Tha Khantho and Khok Khruea được tách khỏi Sahatsakhan. Đơn vị này đã được nâng thành huyện ngày 2 tháng 10 năm 1965. Khok Khruea sau đó đã được chuyển sang huyện Nong Kung Si.
Hành chính
Huyện này được chia thành 6 phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia thành 59 làng (muban). Tha Khantho là một thị trấn (thesaban tambon) which nằm trên lãnh thổ toàn bộ ‘‘tambon’’ Tha Khantho và một số khu vực của Na Tan. Ngoài ra có 6 Tổ chức hành chính tambon (TAO).
Tham khảo
Tha Khantho |
2093 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20Lan | Hà Lan | Hà Lan hay Hòa Lan ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire, Sint Eustatius và Saba). Phần thuộc châu Âu của Hà Lan gồm có 12 tỉnh, giáp với Đức về phía đông, Bỉ về phía nam, và biển Bắc về phía tây bắc; có biên giới hàng hải với Bỉ, Anh và Đức. Năm thành phố lớn nhất của Hà Lan là Amsterdam, Rotterdam, Den Haag (La Haye), Utrecht và Eindhoven. Amsterdam là thành phố thủ đô, song trụ sở của nghị viện và chính phủ đặt tại Den Haag. Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu và là cảng lớn nhất bên ngoài Đông Á.
Hà Lan có địa hình thấp và bằng phẳng, chỉ có khoảng 50% diện tích đất nằm cao hơn 1 m so với mực nước biển. Hầu hết diện tích dưới mực nước biển là đất cải tạo. Từ cuối thế kỷ XVI, nhiều khu vực rộng lớn được cải tạo từ biển và hồ, chúng chiếm gần 17% diện tích đất hiện nay của quốc gia. Hà Lan có mật độ dân số trên 400 người/km², nếu không tính mặt nước thì sẽ hơn 500 người/km², thuộc vào hàng các quốc gia có mật độ dân số dày đặc nhất thế giới. Tuy vậy, Hà Lan là quốc gia xuất khẩu nông sản và thực phẩm lớn thứ nhì thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Hà Lan là quốc gia thứ ba trên thế giới có các đại biểu được bầu cử để kiểm soát hành động của chính phủ; quốc gia này có thể chế dân chủ nghị viện và quân chủ lập hiến từ năm 1848. Hà Lan có lịch sử lâu dài về khoan dung xã hội và thường được nhìn nhận là một quốc gia tự do, Hà Lan đã hợp pháp hoá mại dâm, an tử và hôn nhân đồng giới.
Hà Lan là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Khu vực đồng euro, G-10, NATO, OECD và WTO, nằm trong Khu vực Schengen và Liên minh Benelux. Hà Lan là nơi đặt trụ sở của năm toà án quốc tế như Tòa án Trọng tài thường trực và Tòa án Công lý Quốc tế, trong đó có bốn toà án đặt tại Den Haag, do đó thành phố này được mệnh danh là "thủ đô pháp luật thế giới." Hà Lan đứng thứ hai trong chỉ số tự do báo chí năm 2016 của Phóng viên không biên giới. Hà Lan có nền kinh tế hỗn hợp dựa trên thị trường, đứng thứ 17 về chỉ số tự do kinh tế năm 2013. Hà Lan có GDP PPP bình quân cao thứ 13 thế giới vào năm 2016 theo số liệu của IMF. Năm 2017, Báo cáo Hạnh phúc thế giới của Liên Hợp Quốc xếp Hà Lan đứng thứ sáu, phản ánh chất lượng sinh hoạt cao tại đây. Hà Lan là một nhà nước phúc lợi hào phóng, cung cấp chăm sóc y tế phổ quát, giáo dục công cộng và hạ tầng tốt, và nhiều phúc lợi xã hội.
Từ nguyên
Tên gọi "Hà Lan" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trước đó, toàn thể Hà Lan (Nederland) thường được gọi bằng định danh có từ lâu trước đó là "Holland" (nghĩa là đất rừng). Bằng tiếng Trung, "Ho-lland" được người Trung Quốc phiên âm là "Hé lán" và viết bằng chữ Hán là 荷蘭 (Hà Lan) hoặc 和蘭 (Hòa Lan). Hiện nay "Hà Lan" (荷蘭) được dùng phổ biến hơn ở cả tiếng Việt và tiếng Trung. Một cách gọi khác mà sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 và lớp 10 sử dụng là "Nê-đéc-lan", phiên âm trực tiếp từ "Nederland". Từ 下蘭 (Hạ Lan) có thể được dùng là dịch trực tiếp từ "Nederland" hay "Netherlands" có nghĩa là "Vùng đất thấp".
Tuy nhiên, "Holland" theo ý nghĩa nghiêm ngặt thì thuật ngữ này chỉ nói đến Noord-Holland và Zuid-Holland, là hai trong số 12 tỉnh của quốc gia này, chúng vốn là một tỉnh duy nhất và trước đó là Bá quốc Holland. Bá quốc Holland ban đầu là của người Frisia, xuất hiện sau khi giải thể Vương quốc Frisia, về sau nó trở thành lãnh địa quan trọng nhất về kinh tế và chính trị tại Các Vùng đất thấp (Nederlanden). Điều này cùng với tầm quan trọng của Holland trong việc hình thành Cộng hoà Hà Lan, Chiến tranh Tám mươi Năm và Chiến tranh Anh-Hà Lan trong các thế kỷ XVI, XVII và XVIII, khiến Holland đại diện cho toàn thể quốc gia, song hiện nay được nhìn nhận là không chính xác, không chính thức, hoặc đôi khi là lăng nhục, tuỳ theo ngữ cảnh, song vẫn được sử dụng rộng rãi như khi đề cập đến đội tuyển bóng đá quốc gia.
Khu vực được gọi là Các Vùng đất thấp (Nederlanden, gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) và quốc gia Hà Lan (Nederland) tương đồng về địa danh học. Các địa danh có Neder, Nieder, Nether và Nedre (trong các ngôn ngữ German) và Bas hay Inferior (trong các ngôn ngữ Roman) được sử dụng trong các địa điểm trên khắp châu Âu. Chúng thỉnh thoảng được sử dụng trong một quan hệ chỉ thị với một vùng đất cao hơn. Trong trường hợp Các Vùng đất thấp / Hà Lan, vị trí địa lý của vùng "hạ" ít nhiều nằm tại hạ lưu và gần biển. Tuy nhiên, vị trí địa lý của vùng cao hơn thì thay đổi lớn theo thời gian. Người La Mã phân chia giữa các tỉnh Hạ Germania (nay thuộc Bỉ và Hà Lan) tại hạ lưu và Thượng Germania (nay là một phần của Đức). Việc định danh "hạ" ám chỉ đến khu vực có từ thế kỷ X với Công quốc Hạ Lorraine, bao trùm phần lớn Các Vùng đất thấp.
Các công tước Bourgogne cai trị Các Vùng đất thấp vào thế kỷ XV, sử dụng thuật ngữ les pays de par deçàvùng đất ở trên đây cho Các Vùng đất thấp, tương phản với les pays de par delà~ vùng đất ngoài kia cho quê hương của họ: Bourgogne tại trung-đông nước Pháp hiện nay. Dưới quyền Nhà Habsburg, Les pays de par deçà phát triển thành pays d'embasvùng đất dưới đây, một từ mang tính chỉ thị liên quan đến các lãnh địa khác của gia tộc này tại châu Âu. Nó được dịch thành Neder-landen trong các văn bản chính thức tiếng Hà Lan đương đại. Theo một quan điểm khu vực, Niderlant cũng là khu vực giữa sông Meuse và hạ du sông Rhine vào hậu kỳ Trung cổ. Khu vực được gọi là Oberland (vùng đất cao) trong bối cảnh chỉ thị này được cho là bắt đầu ở khoảng chừng Köln nằm gần đó.
Từ giữa thế kỷ XVI trở đi, "Các Vùng đất thấp"Nederlanden và "Hà Lan"Nederland mất ý nghĩa chỉ thị ban đầu của chúng, và là những tên gọi được sử dụng phổ biến nhất. Chiến tranh Tám mươi năm (1568–1648) phân chia Các Vùng đất thấp thành Cộng hoà Hà Lan độc lập tại miền bắc (Latinh hoá là Belgica Foederata, "Nederland liên hiệp", nhà nước tiền thân của Hà Lan) và Miền nam Các Vùng đất thấp do Tây Ban Nha kiểm soát (Latinh hoá thành Belgica Regia, "Nederland hoàng gia", nhà nước tiền thân của Bỉ). Các Vùng đất thấp ngày nay là một định danh gồm có Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, song trong hầu hết các ngôn ngữ Roman, thuật ngữ "Các Vùng đất thấp" được sử dụng dành riêng cho Hà Lan.
Trong tiếng Anh, Hà Lan được viết là "The Netherlands" (danh từ số nhiều), còn tính từ sở hữu viết là "Dutch" thì lại là dạng biến hóa từ của "Deutsch" chỉ chung các dân tộc Đức từ thời xa xưa
Lịch sử
Sơ khởi
Dấu tích loài người cổ nhất (Neanderthal) được phát hiện trên vùng đất cao gần Maastricht, được cho là có niên đại 250.000 năm trước. Đến khi kết thúc kỷ băng hà, những người du cư thuộc văn hoá Hamburg (khoảng 13.000–10.000 TCN) thời đồ đá cũ cuối muộn tiến hành săn bắn tuần lộc trong khu vực bằng giáo, đến văn hoá Ahrensburg (khoảng 11.200–9.500 TCN) thì dùng cung tên. Xuồng cổ nhất trên thế giới được phát hiện tại Drenthe, của các bộ lạc có vẻ thuộc về văn hoá Maglemosia (khoảng 8000 TCN) thời đồ đá giữa.
Từ năm 800 TCN trở đi, văn hoá Hallstatt của người Celt thuộc thời đồ sắt trở nên có ảnh hưởng, thay thế văn hoá Hilversum (1800–800 TCN). Quặng sắt trở thành một thước đo thịnh vượng, và hiện diện khắp khu vực, bao gồm cả quặng sắt nâu. Những người thợ rèn qua lại giữa các khu dân cư và mang theo đồng điếu và sắt để chế tạo công cụ theo yêu cầu. Vorstengraf (mộ của quốc vương) tại Oss (700 TCN) được phát hiện trong một gò mộ, có kích cỡ lớn nhất trong thể loại này tại Tây Âu và có chứa một thanh kiếm sắt được dát vàng và san hô.
Khí hậu xấu đi tại Scandinavia vào khoảng năm 850 TCN, và tệ hơn nữa vào khoảng năm 650 TCN, điều này có thể đã khiến các bộ lạc German di cư từ phía bắc. Đến khi cuộc di cư này hoàn tất vào khoảng năm 250 TCN, đã nổi bật lên một vài nhóm văn hoá và ngôn ngữ nói chung. Người Ingaevones hay German Biển Bắc cư trú tại phần phía bắc của Các vùng đất thấp, sau đó họ phát triển thành người Frisii và người Sachsen (Saksen) ban đầu. Một nhóm thứ nhì gọi là người German Weser-Rhine (hay Istvaeones) bành trướng dọc trung du sông Rhine (Rijn) và Weser, và cư trú tại Các vùng đất thấp phía nam các sông lớn. Nhóm này gồm các bộ lạc cuối cùng phát triển thành người Frank Salia. Ngoài ra người Celt thuộc văn hoá La Tène (khoảng 450 TCN đến khi La Mã chinh phục) bành trướng trên một phạm vi rộng, bao gồm khu vực phía nam của Các vùng đất thấp. Một số học giả suy đoán rằng một bản sắc dân tộc và ngôn ngữ thứ ba, ngoài German và Celt, từng tồn tại trong khu vực cho đến thời La Mã, là văn hoá Nordwestblock thời đồ sắt, cuối cùng bị hấp thụ vào người Celt tại phía nam và các dân tộc German đến từ phía đông.
Trong Chiến tranh Gallia, khu vực phía nam và phía tây sông Rhine bị quân La Mã (Roma) chinh phục dưới quyền Julius Caesar từ 57 TCN đến 53 TCN. Julius Caesar miêu tả hai bộ lạc Celt chính sống tại khu vực nay là miền nam Hà Lan là Menapii và Eburones. Sông Rhine trở thành biên giới phía bắc của La Mã vào khoảng năm 12. Các thị trấn đáng chú ý xuất hiện dọc biên giới giữa La Mã và người German: Nijmegen và Voorburg. Trong giai đoạn đầu của tỉnh Gallia Belgica thuộc La Mã, khu vực phía nam biên giới trở thành bộ phận của tỉnh Germania Inferior. Khu vực phía bắc sông Rhine là nơi cư trú của người Frisii, nằm ngoài quyền cai trị của La Mã, trong khi các bộ lạc German là Batavi và Cananefates phục vụ trong kỵ binh La Mã. Người Batavi khởi nghĩa chống La Mã vào năm 69, song cuối cùng thất bại. Người Batavi sau đó hợp nhất với các bộ lạc khác thành bang liên người Frank Salia, có bản sắc xuất hiện vào nửa đầu của thế kỷ III. Người Frank Salia xuất hiện trong các văn bản La Mã với vai trò là đồng minh cũng như đối thủ. Trước áp lực từ bang liên của người Sachsen từ phía đông, họ chuyển qua sông Rhine vào lãnh thổ La Mã trong thế kỷ IV, từ căn cứ mới tại West-Vlaanderen và tây nam Hà Lan họ tập kích eo biển Manche. Quân La Mã bình định khu vực, song không trục xuất người Frank, và đến thời kỳ Julianus (358), người Frank Salia được cho phép định cư với tư cách foederati (phiên quốc) tại Toxandria. Sau khi điều kiện khí hậu xấu đi và người La Mã triệt thoát, người Frisii biến mất khỏi miền bắc Hà Lan, có lẽ bị buộc phải tái định cư trong lãnh thổ La Mã với tên gọi laeti vào khoảng 296. Vùng đất ven biển phần lớn vẫn không có người ở trong hai trăm năm sau.
Sơ kỳ trung cổ (411–1000)
Sau khi chính quyền La Mã trong khu vực bị sụp đổ, người Frank bành trướng lãnh thổ thành nhiều vương quốc. Đến thập niên 490, Clovis I chinh phục và thống nhất toàn bộ các lãnh thổ này tại miền nam Hà Lan trong Vương quốc Frank, và từ đó tiếp tục các cuộc chinh phục đến Gaule (Pháp). Trong cuộc bành trướng này, nhóm người Frank di cư về phía nam cuối cùng tiếp nhận tiếng Latinh thông tục của cư dân địa phương. Nhóm người Frank ở lại quê hương tại phía bắc (tức miền nam Hà Lan và Vlaanderen) duy trì nói tiếng Frank cổ, đến thế kỷ IX tiến hoá thành tiếng Hạ Franconia cổ hoặc tiếng Hà Lan cổ. Xuất hiện biên giới giữa khu vực nói tiếng Hà Lan và nói tiếng Pháp.
Về phía bắc của người Frank, điều kiện khí hậu tại bờ biển được cải thiện, và trong giai đoạn Di cư các vùng đất bị bỏ hoang lại có người định cư, hầu hết là người Sachsen song cũng có các nhóm liên hệ mật thiết với họ là người Angle, người Jute và người Frisii cổ. Nhiều người chuyển sang Anh và được gọi là người Anglo-Saxon, song những người ở lại được gọi là người Frisia và ngôn ngữ của họ được gọi là tiếng Frisia, đặt theo vùng đất từng có người Frisii cư trú. Tiếng Frisia được nói dọc toàn bộ bờ biển phía nam biển Bắc, và vẫn là ngôn ngữ có liên hệ mật thiết nhất với tiếng Anh trong số các ngôn ngữ còn tồn tại trên lục địa châu Âu. Đến thế kỷ VII, Vương quốc Frisia (650–734) xuất hiện với trung tâm quyền lực là Utrecht, còn Dorestad là một điểm giao thương phồn thịnh. Từ năm 600 đến khoảng năm 719, các thành phố thường là chiến trường giữa người Frisia và người Frank. Trong trận Boarn vào năm 734, người Frisia bị đánh bại sau một loạt cuộc chiến. Được người Frank chấp thuận, nhà truyền giáo người Anglo-Saxon Willibrord cải đạo Cơ Đốc cho người Frisia.
Đế quốc Caroling của người Frank mô phỏng Đế quốc La Mã và kiểm soát phần lớn Tây Âu. Tuy nhiên, đến năm 843 nó phân chia thành ba bộ phận là Đông Frank, Trung Frank và Tây Frank. Hầu hết lãnh thổ Hà Lan ngày nay là bộ phận của Trung Frank, song đây là một vương quốc yếu và phải hứng chịu nhiều nỗ lực phân chia và sáp nhập của các láng giềng mạnh hơn. Trung Frank gồm các lãnh thổ từ Frisia tại phía bắc đến Vương quốc Ý tại phía nam. Khoảng năm 850, Lotharius I của Trung Frank thừa nhận một người Viking là Rorik của Dorestad là người cai trị hầu hết Frisia. Đến khi Trung Frank bị phân chia vào năm 855, vùng đất phía bắc dãy Alpes được giao cho Lotharius II rồi được đặt tên là Lotharingia. Sau khi ông mất vào năm 869, Lotharingia bị phân chia thành Thượng Lotharingia và Hạ Lotharingia, Hạ Lotharingia gồm Các vùng đất thấp và về danh nghĩa trở thành bộ phận của Đông Frank vào năm 870, song trên thực tế nó nằm dưới quyền kiểm soát của người Viking, họ đột kích các thị trấn của người Frisia và Frank trên bờ biển Frisia và dọc các con sông. Các cuộc tấn công của người Viking khiến quyền thống trị của các lãnh chúa Pháp và Đức trong khu vực bị suy yếu. Kháng cự người Viking đến từ giới quý tộc địa phương, họ đạt được tầm vóc nhất định và đặt cơ sở cho việc giải thể Hạ Lotharingia thành các nhà nước bán độc lập. Một trong số các quý tộc địa phương này là Gerolf xứ Holland, ông đảm nhận quyền lãnh chúa tại Frisia sau khi ông giúp ám sát Godfrid, và quyền cai trị của người Viking kết thúc.
Trung kỳ Trung cổ (1000–1384)
Đế quốc La Mã Thần thánh (nhà nước kế thừa của Đông Frank và sau đó là Lotharingia) cai trị hầu hết vùng đất thấp trong thế kỷ X và XI, song không thể duy trì thống nhất chính trị. Các quý tộc có quyền lực tại địa phương đưa thành phố, bá quốc hoặc công quốc của họ thành các vương quốc cá nhân, ít có nhận thức về nghĩa vụ với hoàng đế. Holland, Hainaut, Vlaanderen, Gelre, Brabant và Utrecht ở trong tình trạng hầu như chiến tranh liên miên hoặc thành lập các liên minh cá nhân. Ngôn ngữ và văn hoá của hầu hết cư dân sống tại Bá quốc Holland ban đầu là của người Frisia. Do người Frank từ Vlaanderen và Brabant đến định cư, kết quả là khu vực nhanh chóng chuyển sang nói tiếng Hạ Franconia cổ (hay tiếng Hà Lan cổ). Phần còn lại của Frisia tại phía bắc (nay là Friesland và Groningen) tiếp tục duy trì độc lập của họ và có các thể chế riêng cũng như tức giận với việc áp đặt hệ thống phong kiến.
Khoảng năm 1000, do một số bước phát triển về nông nghiệp, kinh tế khu vực bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh, và năng suất cao hơn cho phép người lao động canh tác thêm đất đai hoặc trở thành thương nhân. Các thị trấn phát triển quanh các tu viện và thành trì, và một giai cấp trung lưu làm nghề buôn bán bắt đầu phát triển trong các khu vực đô thị này, đặc biệt là tại Vlaanderen và sau đó là Brabant. Các thành phố giàu có bắt đầu mua các đặc quyền nhất định cho mình từ quân chủ. Trong thực tiễn, điều này có nghĩa là Brugge và Antwerpen trở thành các nước cộng hoà bán độc lập có quyền lợi riêng và sau đó phát triển thành những thành phố và cảng quan trọng hàng đầu tại châu Âu.
Khoảng năm 1100, các nông dân từ Vlaanderen và Utrecht bắt đầu tiến hành tiêu nước và canh tác các vùng đất đầm lầy không có người ở tại miền tây Hà Lan, khiến Bá quốc Holland trở thành trung tâm quyền lực. Tước hiệu Bá tước Holland là vấn đề tranh chấp trong các cuộc chiến tranh Lưỡi câu và Cá tuyết () từ năm 1350 đến năm 1490. Phe Cá tuyết gồm các thành phố thịnh vượng hơn, còn phe Lưỡi câu gồm giới quý tộc bảo thủ. Các quý tộc này mời Công tước Philip III của Bourgogne – là người đồng thời giữ tước hiệu Bá tước xứ Vlaanderen – đến chinh phục Holland.
Hà Lan thuộc Bourgogne và Habsburg (1384–1581)
Hầu hết các thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp tại khu vực nay là Hà Lan và Bỉ thống nhất trong một liên minh cá nhân dưới quyền Philip III của Bourgogne vào năm 1433. Gia tộc Valois-Bourgogne và gia tộc Habsburg kế thừa họ cai trị Các vùng đất thấp trong giai đoạn từ năm 1384 đến năm 1581. Trước thời Bourgogne, người Hà Lan nhận dạng bản thân thông qua thị trấn họ sống hoặc công quốc hay bá quốc địa phương của họ. Trong giai đoạn Bourgogne, con đường hướng đến tính dân tộc bắt đầu. Những người cai trị mới bảo vệ các lợi ích mậu dịch của Hà Lan, ngành này sau đó phát triển nhanh chóng. Các hạm đội của Bá quốc Holland từng vài lần đánh bại hạm đội của Liên minh Hanse. Amsterdam phát triển và đến thế kỷ XV trở thành cảng giao thương chủ yếu tại châu Âu đối với lương thực từ vùng Baltic. Amsterdam phân phối lương thực đến các thành phố chính của Bỉ, miền bắc Pháp, và Anh. Hoạt động giao dịch này mang tính sống còn do Hà Lan không còn có thể sản xuất đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu nội địa. Việc tiêu nước khiến than bùn tại các vùng đất ngập nước trước kia giảm xuống mức quá thấp để duy trì tiêu nước.
Dưới quyền Karl V của Gia tộc Habsburg, là người cũng cai trị Đế quốc La Mã Thần thánh và là Quốc vương Tây Ban Nha, toàn bộ các thái ấp tại khu vực Hà Lan ngày nay thống nhất trong Mười bảy tỉnh, lãnh địa này cũng bao gồm hầu hết Bỉ và Luxembourg ngày nay, cũng như một số vùng đất lân cận nay thuộc Pháp và Đức. Năm 1568, Chiến tranh Tám mươi Năm giữa Mười bảy tỉnh và quân chủ Tây Ban Nha Felipe II của họ bắt đầu. Đến năm 1579, phần phía bắc của Mười bảy tỉnh thành lập Liên minh Utrecht, họ cam kết trợ giúp lẫn nhau trong việc phòng thủ chống quân Tây Ban Nha. Liên hiệp Utrecht được nhìn nhận là nền tảng của Hà Lan hiện đại. Năm 1581, các tỉnh miền bắc thông qua tuyên bố độc lập, theo đó các tỉnh chính thức phế truất Felipe II của Tây Ban Nha khỏi tư cách quân chủ cai trị tại các tỉnh miền bắc. Felipe II không để cho người Hà Lan thành công dễ dàng, và chiến tranh tiếp tục cho đến năm 1648, khi Tây Ban Nha dưới quyền Quốc vương Felipe IV công nhận độc lập của bảy tỉnh phía bắc trong Hoà ước Münster. Tuy nhiên, một bộ phận của các tỉnh miền nam cũng trở thành thuộc địa trên thực tế của quốc gia mới này.
Cộng hoà Hà Lan (1581–1795)
Sau khi tuyên bố độc lập, các tỉnh Holland, Zeeland, Groningen, Friesland, Utrecht, Overijssel và Gelderland hình thành một bang liên. Toàn bộ các công quốc, lãnh địa và bá quốc này đều có quyền tự trị và có chính phủ riêng. Staten-Generaal là chính phủ bang liên, đặt tại Den Haag và gồm đại biểu từ các tỉnh. Khu vực Drenthe có dân cư thưa thớt cũng là bộ phận của nước cộng hoà, song không được xem là một tỉnh. Ngoài ra, nước cộng hoà chiếm giữ một số vùng đất từng thuộc Vlaanderen, Brabant và Limburg trong Chiến tranh Tám mươi Năm, chúng được gọi là các Vùng đất chung (Generaliteitslanden). Cư dân các Vùng đất chung chủ yếu là tín đồ Công giáo La Mã, các khu vực này không có một cấu trúc chính phủ của mình, và được sử dụng làm một vùng đệm giữa nước Cộng hoà Hà Lan và lãnh thổ Miền nam Các vùng đất thấp do Tây Ban Nha kiểm soát.
Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan, kéo dài trong phần lớn thế kỷ XVII, Đế quốc Hà Lan phát triển thành một trong các cường quốc hàng hải và kinh tế chủ yếu của thế giới. Khoa học, quân sự và nghệ thuật (đặc biệt là hội họa) Hà Lan nằm trong nhóm được tôn vinh nhất thế giới. Đến năm 1650, Hà Lan sở hữu 16.000 thương thuyền. Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Tây Ấn Hà Lan thành lập các thuộc địa và trạm mậu dịch trên khắp thế giới. Người Hà Lan định cư tại Bắc Mỹ từ khi thành lập Tân Amsterdam tại phần phía nam của đảo Manhattan vào năm 1614. Người Hà Lan lập thuộc địa Cape tại Nam Phi vào năm 1652, lập thuộc địa Suriname tại Nam Mỹ, lập thuộc địa Đông Ấn Hà Lan (nay là Indonesia) tại châu Á, và sở hữu trạm mậu dịch với phương Tây duy nhất tại Nhật Bản là Dejima.
Nhiều sử gia kinh tế đánh giá Hà Lan là quốc gia tư bản hoàn thiện đầu tiên trên thế giới. Tại châu Âu thời cận đại, Hà Lan có thành phố mậu dịch giàu có nhất (Amsterdam) và sàn chứng khoán toàn thời gian đầu tiên. Óc sáng táo của các thương nhân dẫn đến xuất hiện các quỹ bảo hiểm và hưu trí, cũng như các hiện tượng kinh tế như chu kỳ bùng nổ-phá sản, bong bóng lạm phát tài sản, hội chứng hoa tulip 1636–1637, và nhà đầu cơ giá xuống đầu tiên trên thế giới là Isaac le Maire, ông làm giảm giá bằng cách bán phá giá cổ phiếu để rồi sau đó mua lại với giá thấp hơn. Năm 1672 – trong lịch sử Hà Lan được gọi là Rampjaar (năm thảm hoạ) – Cộng hoà Hà Lan đồng thời tham chiến với Pháp, Anh và ba giáo phận Đức. Trên biển, người Hà Lan ngăn chặn thành công hải quân của Anh và Pháp tiến vào bờ biển phía tây. Tuy nhiên, trên bộ Hà Lan gần như bị chiếm lĩnh trước các đội quân Pháp và Đức đến từ phía đông. Người Hà Lan đảo ngược tình thế bằng cách làm ngập nhiều phần của Holland, song không bao giờ có thể khôi phục vinh quanh như trước đó. Hà Lan lâm vào tình trạng suy thoái về tổng thể trong thế kỷ XVIII, khi họ phải cạnh tranh về kinh tế với Anh, và trong nước thì diễn ra kình địch trường kỳ giữa hai phái chủ yếu trong xã hội là thế lực cộng hoà (Staatsgezinden) và những người ủng hộ stadhouder (quốc trưởng) là thân vương xứ Oranje (Prinsgezinden).
Cộng hoà Batavia và vương quốc (1795–1890)
Nhờ ủng hộ quân sự của nước Pháp cách mạng, những người theo chế độ cộng hoà tại Hà Lan tuyên bố thành lập Cộng hoà Batavia, mô phỏng theo Cộng hoà Pháp và khiến Hà Lan trở thành một nhà nước đơn nhất vào ngày 19 tháng 1 năm 1795. Stadhouder (quốc trưởng) là Willem V xứ Oranje đào thoát sang Anh. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến năm 1810, nhà nước bù nhìn Vương quốc Hà Lan (Holland) được Napoléon Bonaparte lập ra và giao cho em trai ông là Louis Bonaparte cai quản để kiểm soát Hà Lan hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Louis Bonaparte cố gắng phục vụ lợi ích của Hà Lan thay vì của anh trai mình, và bị buộc phải thoái vị vào ngày 1 tháng 7 năm 1810. Hoàng đế Napoléon phái một đội quân đến và Hà Lan trở thành một bộ phận của Đế quốc Pháp cho đến mùa thu năm 1813 sau khi Napoléon thất bại trong trận Leipzig.
Willem Frederik là con trai của stadhouder cuối cùng, ông trở về Hà Lan vào năm 1813 và xưng là thân vương chủ quyền của Hà Lan. Hai năm sau, Đại hội Wien sáp nhập miền nam các Vùng đất thấp vào Hà Lan nhằm tạo ra một quốc gia mạnh trên biên giới phía bắc của Pháp. Willem Frederik đưa nước Hà Lan thống nhất này thành một vương quốc và xưng là Quốc vương Willem I. Ngoài ra, Willem I kế thừa chức Đại công tước Luxembourg trong vụ trao đổi với các tài sản của ông tại Đức. Tuy nhiên, miền nam các Vùng đất thấp đã tách biệt về văn hoá với miền bắc từ năm 1581, và họ tiến hành khởi nghĩa. Miền nam giành độc lập vào năm 1830 với quốc hiệu là Bỉ (được Hà Lan công nhận vào năm 1839), còn liên minh cá nhân giữa Hà Lan và Luxembourg bị cắt đứt vào năm 1890, khi Willem III mất trong khi không có người thừa kế là nam giới, còn luật kế vị của Luxembourg lại ngăn con gái ông là Nữ vương Wilhelmina trở thành nữ Đại công tước.
Cách mạng Bỉ tại chính quốc và Chiến tranh Java tại Đông Ấn Hà Lan khiến Hà Lan đến bên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, người Hà Lan áp đặt chính sách hệ thống canh tác (cultuurstelsel) tại Đông Ấn Hà Lan vào năm 1830, theo đó 20% đất của các làng được dành cho các cây trồng của chính phủ nhằm xuất khẩu. Chính sách này khiến người Hà Lan có được lượng của cải khổng lồ và khiến thuộc địa này có thể tự cung tự cấp. Mặt khác, các thuộc địa tại Tây Ấn (Guiana thuộc Hà Lan cùng Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc) dựa nhiều vào nô lệ châu Phi, ước tính có đến hơn nửa triệu người châu Phi. Hà Lan bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1863. Tuy thế, chế độ nô lệ tại Suriname chỉ hoàn toàn bị bãi bỏ vào năm 1873, do luật quy định rằng có 10 năm chuyển tiếp. Hà Lan cũng là một trong các quốc gia châu Âu cuối cùng tiến hành công nghiệp hoá, quá trình này diễn ra vào nửa cuối của thế kỷ XIX.
Hiện đại
Hà Lan duy trì được tính trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, một phần là nhờ việc nhập khẩu hàng hoá thông qua Hà Lan có ý nghĩa thiết yếu đối với tính sống còn của Đức, cho đến khi Hải quân Hoàng gia Anh phong toả vào năm 1916. Đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Quốc xã xâm chiếm Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Cuộc không kích Rotterdam buộc các thành phần chính của quân đội Hà Lan đầu hàng bốn ngày sau đó. Trong quá trình chiếm đóng, có trên 100.000 người Do Thái Hà Lan bị tập trung và chuyển đến các trại hành quyết của Đức Quốc xã. Các công nhân Hà Lan bị bắt đi lính để lao động cưỡng bách tại Đức, các thường dân kháng cự bị giết để trả thù cho các vụ tấn công vào binh sĩ Đức, và quốc gia bị cướp bóc thực phẩm. Tuy vậy, trên 20.000 phần tử phát xít Hà Lan gia nhập Waffen-SS, chiến đấu trên Mặt trận phía Đông. Ngày 8 tháng 12 năm 1941, chính phủ lưu vong Hà Lan tại Luân Đôn tuyên chiến với Nhật Bản, song không thể ngăn người Nhật chiếm đóng Đông Ấn Hà Lan. Năm 1944–45, Tập đoàn quân Canada số 1, gồm các binh sĩ Canada, Anh và Ba Lan, chịu trách nhiệm giải phóng phần lớn Hà Lan. Sau thế chiến, người Hà Lan chiến đấu trong chiến tranh thực dân chống lại Cộng hoà Indonesia mới thành lập.
Năm 1954, Hiến chương Vương quốc Hà Lan cải tổ cấu trúc chính trị của Hà Lan, đây là kết quả từ áp lực quốc tế về việc tiến hành phi thực dân hoá. Các thuộc địa của Hà Lan là Surinam, Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc, cùng với phần lãnh thổ tại châu Âu đều trở thành các quốc gia trong vương quốc, song Suriname độc lập vào năm 1975. Sau thế chiến, Hà Lan từ bỏ tính trung lập và đạt được các quan hệ mật thiết với các quốc gia láng giềng. Hà Lan là một trong các thành viên sáng lập của Benelux, NATO, Euratom và Cộng đồng Than Thép châu Âu, thể chế này sau đó tiến triển thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Liên minh châu Âu.
Chính phủ khuyến khích xuất cư nhằm giảm mật độ dân số, kết quả là nửa triệu người Hà Lan rời khỏi đất nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong các thập niên 1960 và 1970, Hà Lan có biến đổi lớn về xã hội và văn hoá, như ontzuiling nhanh chóng, nghĩa là suy tàn việc phân chia cũ theo ranh giới chính trị và tôn giáo. Thanh niên, đặc biệt là sinh viên, bác bỏ các tập tục truyền thống và thúc đẩy thay đổi trong các vấn đề như nữ quyền, đồng tính luyến ái, giải trừ quân bị và các vấn đề môi trường. Năm 2002, euro trở thành tiền tệ lưu hành. Năm 2010, Antille thuộc Hà Lan giải thể, các đảo Bonaire, Sint Eustatius và Saba đạt được quan hệ mật thiết hơn với Hà Lan.
Địa lý
Phần lãnh thổ tại châu Âu của Hà Lan nằm giữa các vĩ tuyến 50° và 54° Bắc, giữa các kinh tuyến 3° và 8° Đông. Hà Lan về mặt địa lý là một quốc gia rất thấp và bằng phẳng, có khoảng 26% diện tích là nơi ở của 21% dân số nằm dưới mực nước biển, và chỉ có khoảng 50% đất liền cao hơn mực nước biển trên 1 m. Tuy nhiên, Hà Lan có các vùng chân đồi tại cực đông nam với độ cao dưới 321 m, và có một số dãy đồi thấp tại trung tâm. Hầu hết các vùng nằm dưới mực nước biển là do nhân tạo, vì khai thác than bùn khiến cho độ cao giảm xuống hoặc là hình thành thông qua cải tạo đất. Kể từ cuối thế kỷ XVI, các khu vực quai đê lấn biển cỡ lớn được bảo tồn thông qua các hệ thống tiêu nước phức tạp gồm đê, kênh đào và trạm bơm. Gần 17% diện tích đất liền quốc gia được cải tạo từ biển và từ hồ.
Phần lớn Hà Lan lúc đầu được hình thành từ cửa sông của ba sông lớn tại châu Âu: Rhine (Rijn), Meuse (Maas) và Scheldt (Schelde), cùng các chi lưu của chúng. Phần tây nam của Hà Lan cho đến nay là một đồng bằng châu thổ của ba con sông trên, gọi là châu thổ Rhine-Meuse-Scheldt.
Hà Lan được phân chia thành phần phía bắc và phía nam qua sông Rhine, chi lưu lớn nhất của nó là Waal, và sông Meuse. Trong quá khứ, các sông này có chức năng của chướng ngại vật tự nhiên giữa các thái ấp và do đó trong lịch sử tạo ra một sự phân chia văn hoá, bằng chứng là một số điểm về ngữ âm học. Nhánh quan trọng khác của sông Rhine là sông IJssel, thoát nước ra hồ IJssel, tức Zuiderzee ('biển phía nam') cũ. Giống như các sông trên, con sông này tạo thành đường phân chia ngôn ngữ học, cư dân phía đông bắc sông nói các phương ngữ Hạ Sachsen Hà Lan (riêng tỉnh Friesland có ngôn ngữ riêng).
Nạn lụt
Trải qua nhiều thế kỷ, đường bờ biển của Hà Lan có thay đổi đáng kể do kết quả từ các tai hoạ tự nhiên và can thiệp của con người, đáng chú ý nhất về việc để mất đất liền trong cơn bão năm 1134, nó tạo ra quần đảo Zeeland tại phía tây nam. Năm 1287, trận lụt Thánh Lucia tác động đến Hà Lan và Đức, làm thiệt mạng trên 50.000 người trong một trận lụt có tính tàn phá hàng đầu trong lịch sử thành văn. Do nạn lụt nên việc canh tác gặp khó khăn, điều này khuyến khích ngoại thương, kết quả là Hà Lan tham gia sự vụ thế giới ngay từ thế kỷ XIV-XV. Trận lụt Thánh Elizabeth vào năm 1421 và việc quản lý yếu kém sau đó làm phá huỷ một vùng đất quai đê mới cải tạo, thay thế là vùng bãi bồi thủy triều Biesbosch rộng 72 km² tại nam-trung. Trận lụt biển Bắc vào tháng 2 năm 1953 làm sụp đổ một số đê tại tây nam của Hà Lan, khiến hơn 1.800 người chết đuối.
Chính phủ Hà Lan sau đó thi hành một chương trình quy mô lớn mang tên là "Deltawerken" (công trình châu thổ) nhằm bảo vệ quốc gia khỏi nạn lụt trong tương lai. Dự án hoàn thành phần lớn vào năm 1997 khi hoàn thành Maeslantkering. Một mục tiêu chính của dự án Delta là giảm nguy cơ lụt tại Zuid-Holland và Zeeland xuống còn một lần trong 10.000 năm (so với 1 lần trong 4000 năm của phần còn lại trong nước). Mục tiêu này đạt được bằng việc xây các con đê ngoài biển dài 3.000 km và 10.000 km các đê nội bộ, kênh đào và sông, đóng các cửa biển của tỉnh Zeeland. Các đánh giá nguy cơ mới theo định kỳ cho thấy các vấn đề cần phải gia cố đê. Dự án Delta được Hiệp hội Kỹ sư dân dụng Hoa Kỳ đánh giá là một trong bảy kỳ quan của thế giới hiện đại.
Tác động của các tai hoạ đã gia tăng về quy mô do hoạt động của con người, vì các vùng đàm lầy tương đối cao bị tiêu nước để sử dụng làm đất canh tác. Việc tiêu nước khiến lớp than bùn phì nhiêu bị thu hẹp và mặt đất hạ xuống, khi đó mực nước ngầm lại hạ thấp để bù vào việc mặt đất hạ, khiến lớp than bùn bên dưới thu nhỏ hơn nữa. Ngoài ra, từ thế kỷ XIX trở về trước, việc khai thác than bùn để làm nhiên liệu càng làm tình hình thêm trầm trọng. Hàng thế kỷ khai thác than bùn quy mô rộng và kiểm soát yếu kém khiến cho mặt đất vốn đã thấp lại bị hạ xuống vài mét. Ngay cả tại các vùng ngập nước, việc khai thác than bùn vẫn tiếp tục thông qua nạo vét.
Nhằm đề phòng lũ lụt, một loạt biện pháp phòng vệ chống nước được nghĩ ra. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các ngôi làng và nông gia được xây dựng trên các khu đồi nhân tạo gọi là terps. Sau đó, các terps này được liên kết bằng các đê. Trong thế kỷ XII, các cơ quan chính quyền địa phương mang tên "waterschappen" ("ban trị thủy") hoặc "hoogheemraadschappen" ("hội đồng nhà cao") bắt đầu xuất hiện, công việc của họ là duy trì mực nước và bảo vệ khu vực khỏi các trận lụt; các cơ quan này tiếp tục tồn tại cho đến nay. Đến thế kỷ XIII, các cối xay gió được sử dụng để bơm nước khỏi các khu vực thấp hơn mực nước biển. Các cối xay gió sau đó được sử dụng để tiêu nước hồ, tạo ra các vùng đất quai đê nổi tiếng.
Năm 1932, Afsluitdijk ("đê đóng kín") được hoàn thành, chặn Zuiderzee (biển phía nam) cũ khỏi biển Bắc và do đó tạo ra IJsselmeer (hồ IJssel). Nó trở thành một phần của công trình Zuiderzee có quy mô lớn hơn gồm có bốn vùng đất quai đê lấn biển với tổng diện tích là 2.500 km².
Hà Lan là một trong các quốc gia có thể phải chịu tổn thất nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, không chỉ vì nước biển dâng, mà còn do mô hình thời tiết thất thường có thể khiến nước sông tràn bờ.
Khí hậu
Hướng gió chi phối tại Hà Lan là tây nam, dẫn đến khí hậu hải dương ôn hoà với mùa hè ấm và mùa đông mát, có độ ẩm cao đặc trưng. Mô hình này đặc biệt chính xác đối với bờ biển Hà Lan, tại đây có khác biệt nhỏ hơn đáng kể về nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông, hay giữa ngày và đem so với nhiệt độ tại phần đông nam của đất nước.
Những ngày đóng băng, tức nhiệt độ cao nhất dưới 0 °C, thường xuất hiện từ tháng 12 đến tháng 2. Những ngày giá lạnh, tức nhiệt độ thấp nhất là 0 °C thì xuất hiện nhiều hơn, thường là từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 3. Nếu chọn độ cao là 10 cm trên mặt đất thay vì 150 cm, có thể đo được nhiệt độ như vậy vào giữa mùa hè. Trung bình, tuyết có thể xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 4, song thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong tháng 5 hoặc tháng 10.
Các ngày ấm, tức nhiệt độ cao nhất trên 20 °C, thường xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 10, song tại một số nơi trong nước các ngày ấm này cũng có thể xuất hiện trong tháng 3. Các ngày mùa hè, tức nhiệt độ cao nhất trên 25 °C, thường đo được tại De Bilt từ tháng 5 đến tháng 9, còn các ngày nhiệt đới với nhiệt độ cao nhất trên 30° là điều hiếm thấy và thường chỉ xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8.
Lượng giáng thủy trong năm được phân bổ tương đối đều giữa các tháng. Các tháng mùa hè và mùa thu có xu hướng nhận lượng giáng thủy ít hơn các tháng còn lại, chủ yếu là do cường độ mưa thay vì tần suất ngày mưa, đặc biệt là trong mùa hè. Số giờ nắng chịu tác động từ thực tế rằng do vĩ tuyến địa lý, độ dài của ngày thay đổi từ chỉ tám tiếng vào tháng 12 đến gần 17 tiếng vào tháng 6.
Tự nhiên
Hà Lan có 20 công viên quốc gia và hàng trăm khu bảo tồn tự nhiên khác, bao gồm các hồ, bãi thạch nam, rừng thưa, đụn cát và các môi trường khác. Hầu hết chúng thuộc quyền sở hữu của cơ quan quốc gia về lâm nghiệp và bảo tồn tự nhiên mang tên Staatsbosbeheer, hoặc là một tổ chức tư nhân mang tên Natuurmonumenten. Phần thuộc Hà Lan của biển Wadden tại phía bắc có các bãi bùn và đất ngập nước, và được công nhận là một di sản thế giới UNESCO vào năm 2009.
Oosterschelde nguyên là cửa đông bắc của sông Scheldt, và được xác định là một công viên quốc gia vào năm 2002, trở thành công viên quốc gia lớn nhất tại Hà Lan về diện tích với 370 km². Nó bao gồm chủ yếu là vùng nước mặn của Oosterschelde, song cùng có các bãi bùn, bãi cỏ và bãi cạn. Do đa dạng về sinh vật biển, bao gồm các loài độc đáo cấp khu vực, nên công viên là địa điểm phổ biến đối với môn lặn biển. Các hoạt động khác gồm có chèo thuyền, đánh cá, đi xe đạp, và ngắm chim.
Về mặt địa lý sinh vật, Hà Lan nằm trên các khu châu Âu Đại Tây Dương và Trung Âu của vùng Circumboreal thuộc giới Boreal. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, lãnh thổ Hà Lan thuộc vùng sinh thái rừng hỗn hợp Đại Tây Dương. Năm 1871, rừng tự nhiên cổ nguyên bản cuối cùng bị chặt hạ, và hầu hết rừng hiện nay là trồng một loại cây như thông Scots và các loài không phải là bản địa tại Hà Lan. Các khu rừng này được trồng trên các bãi thạch nam nhân tạo và cát trôi (bãi thạch nam chăn thả quá mức) (Veluwe).
Quần đảo Caribe
Curaçao, Aruba và Sint Maarten có vị thế các quốc gia cấu thành, còn Caribe Hà Lan là ba vùng đảo được xác định là các khu tự quản đặc biệt của Hà Lan. Các đảo này là bộ phận của Tiểu Antilles và có biên giới hàng hải với Pháp (Saint Barthélemy và Saint Martin), Anh (Anguilla), Venezuela, Saint Kitts và Nevis và Hoa Kỳ (Quần đảo Virgin thuộc Mỹ).
Bonaire là bộ phận của nhóm đảo ABC thuộc chuỗi đảo Leeward, nằm ngoài khơi bờ biển Venezuela. Chuỗi đảo Leeward có nguồn gốc hỗn hợp núi lửa và san hô. Saba và Sint Eustatius là bộ phận của nhóm đảo SSS. Chúng nằm về phía đông của Puerto Rico và quần đảo Virgin. Mặc dù thuộc về chuỗi đảo Leeward trong tiếng Anh, song tại địa phương họ được cho là thuộc chuỗi đảo Windward. Chuỗi đảo Windward đều có nguồn gốc núi lửa và địa hình lắm núi, có ít đất thích hợp cho nông nghiệp. Đỉnh cao nhất là núi Scenery với 887 m tại Saba. Đây là điểm cao nhất tại Hà Lan cũng như toàn thể Vương quốc Hà Lan.
Các đảo tại Caribe Hà Lan có khí hậu nhiệt đới, với thời tiết nóng quanh năm. Chuỗi đảo Leeward ấm hơn và khô hơn so với chuỗi đảo Windward. Vào mùa hè, chuỗi đảo Windward chịu tác động từ các cơn bão.
Chính trị
Hà Lan là quốc gia quân chủ lập hiến từ năm 1815, và nhờ các nỗ lực của Johan Rudolph Thorbecke nên có được thể chế dân chủ đại nghị từ năm 1848. Hà Lan được mô tả là một nhà nước dân chủ hiệp thương. Chính trị Hà Lan có đặc điểm là nỗ lực nhằm đạt được đồng thuận rộng rãi trong các vấn đề quan trọng, cả trong chính giới lẫn trong xã hội. Năm 2010, The Economist xếp hạng Hà Lan ở vị trí thứ 10 về chỉ số dân chủ.
Quân chủ là nguyên thủ quốc gia, Willem-Alexander là quốc vương từ năm 2013. Theo hiến pháp, chức vụ này có quyền lực hạn chế, có quyền được nhận báo cáo và được tham vấn trong các vấn đề chính quyền. Tuỳ theo cá tính và quan hệ giữa quốc vương và các bộ trưởng, quân chủ có thể gây ảnh hưởng ngoài quyền lực được hiến pháp quy định.
Quyền lực hành pháp thuộc về Hội đồng Bộ trưởng, đây là hội đồng thảo luận của nội các Hà Lan. Nội các thường gồm 13 đến 16 bộ trưởng và một số lượng thay đổi các quốc vụ khanh. Có từ một đến ba bộ trưởng là bộ trưởng không bộ. Người đứng đầu chính phủ là thủ tướng, người này thường là thủ lĩnh đảng lớn nhất trong liên minh cầm quyền. Thủ tướng là một primus inter pares, tức không có thêm quyền lực rõ ràng nào so với quyền lực của các bộ trưởng khác. Mark Rutte là thủ tướng từ năm 2010; thủ tướng luôn là thủ lĩnh của chính đảng lớn nhất kể từ năm 1973.
Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội (Staten-Generaal) lưỡng viện, tức cơ quan có quyền lập pháp. 150 thành viên của Chúng nghị viện (Tweede Kamer), tức hạ viện, được bầu cử trực tiếp theo cơ sở đại diện tỷ lệ danh sách đảng. Các cuộc bầu cử được tổ chức bốn năm một lần, hoặc trước thời hạn trong trường hợp nội các sụp đổ. Hội đồng cấp tỉnh (Provinciale Staten) được bầu cử trực tiếp bốn năm một lần. Các thành viên của các hội đồng cấp tỉnh bầu ra 75 thành viên của Tham nghị viện (Eerste Kamer), tức thượng viện, cơ cấu này có quyền bác bỏ luật, song không được đề xuất hay sửa đổi chúng. Cả hai viện đều cử thành viên đến Nghị viện Benelux, đây là một hội đồng tham vấn.
Các công đoàn và các tổ chức giới chủ được tham vấn trước trong việc lập chính sách trong các lĩnh vực tài chính, kinh tế và xã hội. Họ tham gia họp thường xuyên với chính phủ trong Hội đồng Xã hội-Kinh tế. Cơ cấu này khuyến nghị chính phủ và khuyến nghị của họ không thể bỏ qua một cách dễ dàng.
Hà Lan có truyền thống lâu dài về khoan dung xã hội. Trong thế kỷ XIX, khi Giáo hội Kháng cách Hà Lan là quốc giáo, thì Công giáo La Mã và các giáo phái Tin Lành khác cũng như Do Thái giáo được dung thứ song bị kỳ thị. Đến cuối thế kỷ XIX, truyền thống khoan dung tôn giáo này chuyển đổi thành một hệ thống tách biệt, theo đó các nhóm tôn giáo cùng tồn tại riêng biệt và chỉ tương tác ở cấp độ chính phủ. Truyền thống khoan dung ảnh hưởng đến các chính sách tư pháp hình sự của Hà Lan về ma tuý tiêu khiển, mại dâm, quyền lợi LGBT, an tử, phá thai, nằm vào hàng tự do nhất trên thế giới.
Chính đảng
Hà Lan có hệ thống đa đảng, không đảng nào nắm thế đa số trong nghị viện kể từ thế kỷ XIX, và các nội các liên minh được hình thành. Kể từ khi thi hành phổ thông đầu phiếu vào năm 1919, hệ thống chính trị Hà Lan chịu sự chi phối của ba nhóm chính đảng: Mạnh nhất là những người dân chủ Cơ Đốc giáo, hiện có đại diện là Kêu gọi Dân chủ Cơ Đốc giáo (Christen-Democratisch Appèl, CDA); thứ nhì là lực lượng dân chủ xã hội với đại diện là Công đảng (Partij van de Arbeid, PvdA); và thứ ba là lực lượng tự do với đại diện chủ yếu là Đảng Nhân dân Tự do và Dân chủ (Volkspartij voor Vrijheid en Democratie, VVD).
Các đảng này hợp tác trong các nội các liên minh, trong đó lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo luôn là một đối tác, hoặc là trong một liên minh trung-tả gồm lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo và dân chủ xã hội, hoặc là một liên minh trung-hữu gồm lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo và tự do. Trong thập niên 1970, hệ thống đảng phái trở nên biến động hơn, các đảng dân chủ Cơ Đốc giáo bị mất ghế, trong khi các đảng mới lại giành được thành công, như là D66. Trong bầu cử năm 1994, CDA để mất thế chi phối.
Tháng 2 năm 2010, nội các sụp đổ do PvdA từ chối gia hạn can thiệp của lực lượng Hà Lan tại Uruzgan, Afghanistan. Trong bầu cử vào tháng 6 cùng năm, đảng lớn nhất trước đó là CDA có kết quả thảm hại, VVD trở thành đảng lớn nhất với 31 ghế, tiếp theo là PvdA với 30 ghế. Đảng giành được thêm nhiều ghế nhất là Đảng Tự do (PVV) của Geert Wilders. VVD và PvdA giành được nhiều ghế nhất trong tổng tuyển cử vào tháng 12 năm 2012, họ lập chính phủ liên minh vào tháng 11 năm 2012. Trong tổng tuyển cử vào tháng 3 năm 2017, VVD duy trì là đảng lớn nhất, PvdA để mất số ghế rất lớn, PVV giành được vị trí thứ hai Sau 208 ngày đàm phán, VVD, D66, CDA và Liên minh Cơ Đốc giáo (CU) đồng ý thành lập chính phủ liên minh.
Hành chính
Hà Lan được phân chia thành 12 tỉnh, mỗi tỉnh nằm dưới quyền của một uỷ viên của quốc vương (Commissaris van de Koning), riêng tại tỉnh Limburg chức vụ này gọi là thống đốc (Gouverneur) song có nhiệm vụ tương tự. Các tỉnh được chia tiếp thành các khu tự quản (gemeenten) với số lượng là 380.
Hà Lan cũng được chia thành 21 khu vực trị thủy, chịu sự quản lý của một ban trị thủy (waterschap hoặc hoogheemraadschap), mỗi ban có quyền hạn trên các vấn đề liên quan đến quản lý nước. Việc thành lập các ban trị thủy có từ trước khi lập quốc, ban đầu tiên hình thành vào năm 1196. Các ban trị thủy của Hà Lan nằm trong số các thực thể dân chủ lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn tồn tại. Bầu cử trực tiếp các ban trị thủy được tiến hành bốn năm một lần.
Ba lãnh thổ đảo tại Caribe được gọi chung là Caribe Hà Lan, họ có vị thế là thực thể công cộng (openbare lichamen) thay vì là các khu tự quản. Họ không phải là bộ phận của tỉnh nào.
Một số lãnh thổ tách rời của Bỉ nằm lọt trong lãnh thổ Hà Lan và các lãnh thổ tách rời này lại bao quanh một số khu đất thuộc tỉnh Noord-Brabant, tuy nhiên do Hà Lan và Bỉ đều thuộc Khu vực Schengen nên công dân hai bên có thể qua lại các vùng tách rời này.
Đối ngoại
Lịch sử chính sách đối ngoại của Hà Lan có đặc điểm là tính trung lập. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, Hà Lan trở thành một thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, đáng chú ý nhất là Liên Hợp Quốc, NATO và Liên minh châu Âu. Kinh tế Hà Lan rất mở và dựa nhiều vào ngoại thương. Chính sách đối ngoại của Hà Lan hiện nay dựa trên bốn cam kết cơ bản: Hợp tác Đại Tây Dương, nhất thể hoá châu Âu, phát triển quốc tế và luật pháp quốc tế. Một trong các vấn đề quốc tế gây tranh luận nhiều quanh Hà Lan là chính sách tự do đối với các loại ma tuý nhẹ. Trong và sau thời kỳ hoàng kim Hà Lan, người Hà Lan gây dựng một đế quốc thương mại và thực dân. Các cựu thuộc địa quan trọng nhất của Hà Lan hiện là Suriname và Indonesia. Các quan hệ lịch sử kế thừa từ lịch sử thực dân này vẫn có ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Hà Lan, và nhiều người từ các quốc gia này thường trú tại Hà Lan.
Chính sách an ninh của Hà Lan chủ yếu dựa vào quyền thành viên trong NATO, và có nhiều vũ khí hạt nhân của đồng minh được đặt tại Hà Lan. Ngày 10 tháng 6 năm 2013, cựu thủ tướng Ruud Lubbers xác nhận sự tồn tại của 22 vũ khí hạt nhân tại căn cứ không quân Volkel thuộc tỉnh Noord-Brabant. Hà Lan cũng theo đuổi hợp tác quốc phòng trong Liên minh châu Âu, cả đa phương dưới nền tảng Liên minh Tây Âu và Chính sách An ninh và Phòng thủ châu Âu, và song phương như quân đoàn Đức-Hà Lan. Trong những năm gần đây, Hà Lan trở thành nước đóng góp quan trọng cho các nỗ lực duy trì hoà bình trên khắp thế giới, như tại Bosnia và Herzegovina.
Hà Lan tán thành mạnh mẽ nhất thể hoá châu Âu, và hầu hết các khía cạnh trong chính sách ngoại giao, kinh tế và thương mại của nước này được điều phối thông qua Liên minh châu Âu. Liên minh thuế quan hậu chiến giữa Hà Lan với Bỉ và Luxembourg (Benelux) mở đường cho việc hình thành Cộng đồng châu Âu (tiền thân của Liên minh châu Âu). Benelux bãi bỏ kiểm soát biên giới nội bộ, điều này trở thành một hình mẫu cho Hiệp ước Schengen trên quy mô lớn hơn. Hà Lan là nòng cốt trong Hiệp ước Maastricht năm 1992 và là nhà kiến tạo hiệp định Amsterdam ký kết vào năm 1998. Hà Lan do đó giữ vai trò quan trọng trong nhất thể hoá chính trị và tiền tệ châu Âu.
Truyền thống uyên bác về pháp luật khiến Hà Lan trở thành trụ sở của Tòa án Công lý Quốc tế; Toà án Yêu sách Iran-Hoa Kỳ; Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ; Tòa án Hình sự Quốc tế Rwanda; Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC). Ngoài ra, Hà Lan còn có trụ sở của tổ chức cảnh sát châu Âu Europol; và Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học.
Hà Lan nằm vào hàng các quốc gia viện trợ đứng đầu thế giới, là một trong năm quốc gia toàn cầu đáp ứng mục tiêu ODA lâu dài của Liên Hợp Quốc. Quốc gia này có đóng góp lớn về viện trợ thông qua các kênh đa phương, đặc biệt là Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế, các chương trình của Liên minh châu Âu. Một lượng lớn viện trợ của Hà Lan cũng được chuyển qua các các tổ chức tư nhân (đồng tài trợ) có gần như toàn quyền trong lựa chọn các dự án.
Quân sự
Hà Lan có một trong các lực lượng quân đội thường trực lâu năm nhất tại châu Âu; được thành lập lần đầu bởi Maurits xứ Nassau. Quân đội Hà Lan được sử dụng trên khắp Đế quốc Hà Lan, và sau thất bại của Napoléon, quân đội Hà Lan chuyển sang chế độ quân dịch. Quân đội được triển khai trong Cách mạng Bỉ năm 1830 song không thành công. Sau năm 1830, họ chủ yếu được triển khai tại các thuộc địa của Hà Lan. Hà Lan duy trì trung lập trong các cuộc chiến tranh tại châu Âu cho đến khi bị xâm lược trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và nhanh chóng thất thủ trước Wehrmacht Đức vào tháng 5 năm 1940.
Hà Lan từ bỏ tình trạng trung lập vào năm 1948 khi ký kết Hiệp ước Bruxelles vào năm 1949. Quân đội Hà Lan do đó là bộ phận của NATO trong chiến tranh lạnh tại châu Âu, được triển khai đến một số căn cứ tại Tây Đức. Trên 3.000 binh sĩ Hà Lan được phân vào Sư đoàn bộ binh số 2 của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1996, chế độ quân dịch bị đình chỉ, và quân đội Hà Lan lại chuyển sang chế độ chuyên nghiệp. Kể từ thập niên 1990, quân đội Hà Lan từng tham gia Chiến tranh Bosnia và Chiến tranh Kosovo, và nắm giữ một tỉnh của Iraq sau thất bại của Saddam Hussein, và tham gia trong chiến tranh tại Afghanistan.
Quân đội Hà Lan gồm có bốn nhánh, đều mang tiền tố Koninklijke (hoàng gia): Koninklijke Landmacht (KL) tức Lục quân Hoàng gia Hà Lan; Koninklijke Marine (KM) tức Hải quân Hoàng gia Hà Lan, bao gồm hàng không Hải quân và thủy quân lục chiến; Koninklijke Luchtmacht (KLu) tức Không quân Hoàng gia Hà Lan; Koninklijke Marechaussee (KMar) tức Đội hiến binh Hoàng gia, chịu trách nhiệm quân cảnh và kiểm soát biên giới.
Korps Commandotroepen là lực lượng hành quân đặc biệt của Lục quân Hà Lan, mở cửa cho nữ giới song do yêu cầu thể chất cực kỳ cao để huấn luyện ban đầu nên nữ giới hầu như không thể trở thành một đặc công. Bộ Quốc phòng Hà Lan sử dụng trên 70.000 nhân viên, bao gồm trên 20.000 nhân viên dân sự và trên 50.000 nhân viên quân sự tính đến năm 2011. Trong tháng 4 năm 2011, chính phủ tuyên bố một đợt tinh giản trong quân đội do cắt giảm chi tiêu chính phủ, bao gồm việc giảm số lượng xe tăng, chiến đấu cơ, tàu hải quân và quan chức cấp cao.
Kinh tế
Hà Lan có nền kinh tế phát triển, giữ một vai trò đặc biệt trong kinh tế châu Âu từ nhiều thế kỷ. Kể từ thế kỷ XVI, các ngành đóng tàu, ngư nghiệp, nông nghiệp, mậu dịch và ngân hàng là các lĩnh vực dẫn đầu của kinh tế Hà Lan. Hà Lan có tự do kinh tế ở mức độ cao, đứng thứ hai trong Báo cáo Thuận lợi Mậu dịch Toàn cầu năm 2016, và đứng thứ 5 về tính cạnh tranh theo đánh giá của Học viện Phát triển Quản lý Quốc tế Thuỵ Sĩ vào năm 2017. Ngoài ra, Hà Lan xếp thứ ba trong chỉ số sáng tạo toàn cầu GII năm 2017. Trong bảng xếp hạng chỉ số tự do kinh tế năm 2016, Hà Lan đứng thứ 17/178 quốc gia.
, các đối tác mậu dịch chủ chốt của Hà Lan là Đức, Bỉ, Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Trung Quốc và Nga. Hà Lan là một trong mười quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Thực phẩm là ngành lớn nhất, các ngành lớn khác là hoá chất, luyện kim, chế tạo máy, hàng điện tử, mậu dịch, dịch vụ và du lịch. Một số công ty Hà Lan có quy mô quốc tế là Randstad, Unilever, Heineken, KLM; trong lĩnh vực dịch vụ có ING, ABN AMRO, Rabobank; về hoá học có DSM, AKZO; về lọc dầu có Royal Dutch Shell; về máy móc điện tử có Philips, ASML; về điều hướng ô tô có TomTom).
Hà Lan có GDP danh nghĩa lớn thứ 18 thế giới, và GDP danh nghĩa bình quân đứng thứ 13 thế giới vào năm 2016 theo số liệu của IMF. Từ năm 1997 đến năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trung bình là gần 4%, hơn nhiều mức trung bình của châu Âu. Tăng trưởng chậm lại đáng kể từ năm 2001 đến năm 2005 do suy thoái kinh tế toàn cầu, song tăng tốc lên 4,1% vào quý thứ ba của năm 2007. Trong quý 3 và 4 năm 2011, kinh tế Hà Lan lần lượt giảm 0,4% và 0,7%, do khủng hoảng nợ công châu Âu, trong khi vào quý 4 kinh tế khu vực đồng euro giảm 0,3%. Trong tháng 5 năm 2013, mức lạm phát là 2,8%/năm. Trong tháng 4 năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp là 8,2% (hoặc 6,7% theo định nghĩa của ILO). Trong tháng 4 năm 2017, con số này giảm xuống 5,1%. Hà Lan có hệ số GINI tương đối thấp. UNICEF xếp hạng Hà Lan ở vị trí thứ nhất về phúc lợi trẻ em trong số các quốc gia giàu có, cả trong năm 2007 và năm 2013.
Amsterdam là thủ đô tài chính và kinh doanh của Hà Lan. Sàn giao dịch chứng khoán Amsterdam (AEX) là bộ phận của Euronext, đây là sàn giao dịch chứng khoán cổ nhất trên thế giới và nằm trong số các thị trường chứng khoán lớn nhất châu Âu. Sàn nằm gần Quảng trường Dam tại trung tâm thành phố. Hà Lan là thành viên sáng lập euro, thay thế đơn vị tiền tệ cũ là "gulden". Tại Caribe Hà Lan, đô la Mỹ được sử dụng thay cho euro.
Vị trí của Hà Lan cho phép họ có ưu thế tiếp cận thị trường Anh và Đức, cùng với cảng Rotterdam lớn nhất châu Âu. Các bộ phận quan trọng khác của nền kinh tế là ngoại thương (chủ nghĩa thực dân Hà Lan bắt đầu với các doanh nghiệp tư nhân hợp tác như Công ty Đông Ấn Hà Lan), ngân hàng và giao thông. Hà Lan thành công trong việc giải quyết các vấn đề tài chính công và đình trệ việc làm trước các đối tác của họ tại châu Âu. Amsterdam là địa điểm du lịch nhộn nhịp thứ năm tại châu Âu với trên 4,2 triệu du khách quốc tế theo số liệu năm 2009. Kể từ khi mở rộng Liên minh châu Âu, có lượng lớn công nhân di cư đến Hà Lan từ các quốc gia Trung và Đông Âu.
BrabantStad là một quan hệ đối tác giữa các khu tự quản Breda, Eindhoven, Helmond, 's-Hertogenbosch và Tilburg và tỉnh Noord-Brabant. BrabantStad là vùng kinh tế tăng trưởng nhanh nhất tại Hà Lan, với Brabantse Stedenrij (vùng thành phố đa trung tâm) là một trong các vùng hàng đầu toàn quốc, chỉ đứng sau khu thành thị lớn Randstad (Amsterdam, Rotterdam, Den Haag và Utrecht). Quan hệ đối tác tại Noord-Brabant nhắm mục tiêu hình thành một mạng lưới đô thị và biến tỉnh này có vị thế nổi bật là một vùng tri thức hàng đầu tại châu Âu. Với tổng dân số 1,5 triệu và 20% sản lượng công nghiệp của Hà Lan, BrabantStad là một trong các vùng quan trọng về kinh tế của nước này. Một phần tư số công việc trong vùng là về kỹ thuật, và công nghệ thông tin-truyền thông.
Trong số toàn bộ các đơn xin cấp bằng sáng chế của châu Âu trong lĩnh vực vật lý học và điện tử, có khoảng 8% đến từ tỉnh Noord-Brabant. Trong vùng mở rộng, BrabantStad là bộ phận của tam giác Eindhoven-Leuven-Aachen (ELAT). Hiệp định hợp tác kinh tế giữa ba thành phố tại ba quốc gia tạo ra một trong các vùng sáng tạo nhất trong Liên minh châu Âu (xét theo tiền đầu tư vào công nghệ và kinh tế tri thức). Thành công kinh tế của vùng này có ý nghĩa quan trọng đối với tính cạnh tranh quốc tế của Hà Lan; Amsterdam, Rotterdam, và Eindhoven cùng nhau tạo thành nền tảng cho kinh tế Hà Lan. Hà Lan tiếp tục là một trong các quốc gia hàng đầu châu Âu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, và là một trong những quốc gia đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ.
Khí đốt
Kể từ thập niên 1950, Hà Lan phát hiện được trữ lượng khí đốt tự nhiên khổng lồ. Việc bán khí đốt tự nhiên mang lại doanh thu khổng lồ cho Hà Lan trong nhiều thập niên, thêm vào hàng trăm tỉ euro cho ngân sách chính phủ. Tuy nhiên, của cải từ nguồn năng lượng khổng lồ có tác động không lường trước được đến tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế khác, dẫn đến thuyết căn bệnh Hà Lan. Hà Lan được ước tính sở hữu 25% trữ lượng khí đốt tự nhiên trong Liên minh châu Âu.
Ngoài than đá và khí đốt, Hà Lan không còn tài nguyên khai khoáng nào, và mỏ than cuối cùng bị đóng cửa vào năm 1974. Mỏ khí Groningen là một trong các mỏ khí đốt tự nhiên lớn nhất trên thế giới, nằm gần Slochteren. Việc khai thác này tạo được doanh thu 159 tỉ euro từ giữa thập niên 1970 đến năm 2009. Mỏ hoạt động dưới quyền của công ty quốc doanh Gasunie và khai thác chung bởi chính phủ, Royal Dutch Shell, và Exxon Mobil thông qua NAM (Nederlandse Aardolie Maatschappij). Việc khai thác khí đốt dẫn đến gia tăng chấn động mặt đất mạnh, một số trận có cường độ lên tới 3,6 độ theo thang cường độ Richter. Chi phí để sửa chữa thiệt hại, cải thiện kết cấu của các toà nhà, và bồi thường cho giá trị nhà bị suy giảm ước tính là 6,5 tỉ euro. Khoảng 35.000 ngôi nhà được cho là bị ảnh hưởng.
Nông nghiệp
Khu vực nông nghiệp của Hà Lan được cơ giới hoá cao độ, và tập trung mạnh vào xuất khẩu quốc tế. Ngành này sử dụng khoảng 4% lực lượng lao động của Hà Lan song tạo ra thặng dư lớn cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và đóng góp 21% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Hà Lan. Hà Lan xếp thứ hai thế giới về giá trị xuất khẩu nông nghiệp, chỉ sau Hoa Kỳ. với nguồn thu xuất khẩu là 80,7 tỉ euro vào năm 2014, tăng so với 75,4 tỉ euro vào năm 2012.
Trong một số thời điểm gần đây, Hà Lan từng cung cấp một phần tư tổng cà chua xuất khẩu trên thế giới, và việc buôn bán một phần ba xuất khẩu của thế giới về ớt, cà chua và dưa chuột là thông qua Hà Lan. Hà Lan cũng xuất khẩu một phần mười lăm táo tây của thế giới.
Ngoài ra, một phần đáng kể xuất khẩu nông sản của Hà Lan là cây tươi cắt, hoa, và củ hoa, chiếm hai phần ba tổng xuất khẩu toàn thế giới.
Giao thông
Tính lưu động trên các tuyến đường bộ của Hà Lan tăng trưởng liên tục kể từ thập niên 1950 và nay vượt trên 200 tỉ km qua lại mỗi năm, three quarters of which are done by car. Khoảng một nửa số hành trình tại Hà Lan được tiến hành bằng ô tô, 25% bằng xe đạp, 20% bằng cách đi bộ, và 5% sử dụng giao thông công cộng. Tổng chiều dài mạng lưới đường bộ là 139.295 km, gồm có 2.758 km đường cao tốc, Hà Lan có một trong các mạng lưới đường bộ dày đặc nhất trên thế giới, hơn nhiều so với Đức hay Pháp song thấp hơn Bỉ.
Khoảng 13% toàn bộ quãng đường được đi bằng phương tiện công cộng, đa số là dùng tàu hoả. Giống như nhiều quốc gia châu Âu khác, mạng lưới đường sắt Hà Lan gồm 3.013 km cũng khá dày đặc. Mạng lưới hầu hết tập trung vào dịch vụ đường sắt chở khách và liên kết gần như toàn bộ các thành thị chính. Các tuyến đường ray thường xuyên hoạt động, có một hoặc hai chuyến mỗi giờ trên các tuyến nhỏ, hai đến bốn chuyến mỗi giờ ở các tuyến trung bình, và đến tám chuyến mỗi giờ tại các tuyến nhộn nhịp nhất.
Đạp xe là một cách thức giao thông rộng khắp tại Hà Lan. Số km hành trình của xe đạp tương đương với tàu hoả. Người Hà Lan được ước tính sở hữu ít nhất 18 triệu xe đạp, nghĩa hơn mỗi người có hơn một xe, gấp đôi so với khoảng 9 triệu ô tô trên đường. Năm 2013, Liên đoàn người đi xe đạp châu Âu xếp hạng Hà Lan và Đan Mạch là các quốc gia thân thiện nhất với xe đạp tại châu Âu, song người Hà Lan (36%) xếp trên người Đan Mạch (23%) về việc xe đạp là cách thức thường xuyên nhất trong giao thông ngày bình thường. Hạ tầng cho việc đạp xe có tính toàn diện. Các tuyến đường nhộn nhịp có khoảng 35.000 km đường đi dành riêng cho xe đạp, được tách biệt về tự nhiên khỏi giao thông cơ giới. Các nút giao nhộn nhịp thường có các thiết bị đèn giao thông dành cho xe đạp. Tồn tại các cơ sở hạ tầng gửi xe đạp cỡ lớn, đặc biệt là trung trung tâm thành phố và tại các nhà ga đường sắt.
Rotterdam là cảng lớn nhất tại châu Âu, các sông Meuse và Rhine tạo ra con đường tiếp cận lý tưởng đến vùng thượng du nội lục xa đến Basel, Thuỵ Sĩ, và đến Pháp. , Rotterdam là cảng container lớn thứ tám trên thế giới, chuyên chở 440,5 triệu tấn hàng hoá mỗi năm. Các chức năng chính của cảng là công nghiệp hoá dầu và chuyên chở chung, và trung chuyển tàu. Cảng là một điểm trung chuyển quan trọng đối với hàng rời và giữa lục địa châu Âu với hải ngoại. Từ Rotterdam, hàng hoá được chuyên chở bằng tàu, sà lan sông, tàu hoả hoặc đường bộ. Năm 2007, tuyến đường sắt chở hàng nhanh Betuweroute giữa Rotterdam với Đức được hoàn thành.
Sân bay Schiphol nằm ngay tây nam của Amsterdam, là cảng hàng không quốc tế chính của Hà Lan, và là sân bay nhộn nhịp thứ ba tại châu Âu về lượng hành khách. Năm 2016, các sân bay của Royal Schiphol Group chuyên chở 70 triệu hành khách.
Nằm trong cam kết của mình về tính bền vững môi trường, chính phủ Hà Lan khởi xướng một kế hoạch thiết lập trên 200 trạm nạp điện cho các phương tiện chạy bằng điện trên khắp đất nước đến năm 2015. Việc triển khai được tiến hành bởi công ty năng lượng và tự động hoà ABB có trụ sở tại Thuỵ Sĩ và công ty khởi nghiệp Hà Lan Fastned, nhắm mục tiêu cung cấp ít nhất một trạm trong bán kính 50 km từ mọi gia đình tại Hà Lan.
Nhân khẩu
Dân số Hà Lan ước tính đạt 17.093.000 vào tháng 1 năm 2017. Đây là quốc gia có mật độ dân số cao nhất tại châu Âu nếu không kể các thành bang như Monaco hay Thành Vatican. Từ năm 1900 đến năm 1950, dân số Hà Lan tăng gần gấp đôi từ 5,1 lên 10 triệu. Từ năm 1950 đến năm 2000, dân số tiếp tục gia tăng, lên đến 15,9 triệu, song với tốc độ thấp hơn. Tốc độ gia tăng vào năm 2013 ước tính là 0,44%.
Tỷ suất sinh tại Hà Lan là 1,78 trẻ mỗi phụ nữ theo ước tính năm 2013, cao hơn so với nhiều quốc gia châu Âu khác, song dưới mức thay thế là 2,1 trẻ mỗi phụ nữ. Tuổi thọ dự tính khi sinh của Hà Lan ở mức cao, với 83,21 năm đối với trẻ gái và 78,93 đối với trẻ trai sơ sinh theo ước tính vào năm 2013.). Hà Lan có tỷ lệ di cư là 1,99 người di cư mỗi 1.000 cư dân một năm.
Đa số cư dân Hà Lan thuộc dân tộc Hà Lan. Theo ước tính vào năm 2005, thành phần dân tộc là 80,9% người Hà Lan, 2,4% người Indonesia, 2,4% người Đức, 2,2% người Thổ Nhĩ Kỳ, 2,0% người Suriname, 1,9% người Maroc, 0,8% người Antilles và Aruba, và 7,4% thuộc các nhóm khác. Có khoảng 150.000 đến 200.000 người sống tại Hà Lan là ngoại kiều, hầu hết tập trung tại và xung quanh Amsterdam và Den Haag, nay chiếm khoảng 10% dân số các thành phố này.
Người Hà Lan là dân tộc cao nhất trên thế giới, chiều cao trung bình là 1,81 m đối với nam giới trưởng thành và 1,67 m đối với nữ giới trưởng thành theo số liệu năm 2009. Cư dân miền nam trung bình thấp hơn 2 cm so với cư dân miền bắc.
Theo Eurostat, vào năm 2010 có 1,8 triệu cư dân sinh tại nước ngoài tại Hà Lan, tương ứng với 11,1% dân số. Trong số đó, 1,4 triệu người (8,5%) sinh ngoài Liên minh châu Âu và 0,428 triệu người (2,6%) sinh tại các quốc gia trong Liên minh châu Âu. Vào ngày 21 tháng 11 năm 2016, có 3,8 triệu cư dân Hà Lan có ít nhất một cha/mẹ sinh tại nước ngoài ("nguồn gốc di dân"). Trên một nửa người trẻ tuổi tại Amsterdam và Rotterdam có nguồn gốc ngoài phương tây. Người Hà Lan hoặc các hậu duệ của người Hà Lan cũng hiện diện trên khắp thế giới, đáng chú ý là tại Canada, Úc, Nam Phi và Hoa Kỳ. Theo điều tra năm 2006 tại Hoa Kỳ, có trên 5 triệu người Mỹ cho biết rằng họ có nguồn gốc Hà Lan thuần chủng hoặc một phần. Có gần 3 triệu người Afrikaner gốc Hà Lan sống tại Nam Phi. Năm 1940, có 290.000 người châu Âu và người lai Á-Âu tại Indonesia, song hầu hết rời khỏi nước này sau đó.
Hà Lan là một quốc gia có mật độ dân số cao, với trên 400 người/km² còn nếu chỉ tính mặt đất thì con số này là trên 500 người/km². Randstad là chùm đô thị lớn nhất Hà Lan, nằm tại phía tây của đất nước và có bốn thành phố lớn: Amsterdam thuộc tỉnh Noord-Holland, Rotterdam và Den Haag thuộc tỉnh Zuid-Holland, và Utrecht thuộc tỉnh Utrecht. Randstad có khoảng 7 triệu cư dân và là vùng đại đô thị lớn thứ năm tại châu Âu. Theo Cục Thống kê Trung ương Hà Lan, vào năm 2015, có 28% cư dân Hà Lan có thu nhập khả dụng trên 40.000 euro (không bao gồm chi tiêu vào y tế hay giáo dục).
Các vùng đô thị chức năng
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hà Lan, được đại đa số cư dân nói. Bên cạnh tiếng Hà Lan, tiếng Tây Frisia được công nhận là một ngôn ngữ chính thức thứ hai tại tỉnh Friesland. Tiếng Tây Frisia có vị thế chính thức đối với thư tín của chính phủ trong tỉnh này. Tại phần châu Âu của vương quốc có hai ngôn ngữ khu vực khác được công nhận theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ khu vực và thiểu số, là tiếng Hạ Sachsen (Nedersaksisch) gồm một số phương ngữ được nói tại miền bắc và miền đông, như phương ngữ Twente tại vùng Twente, và phương ngữ Drenthe tại tỉnh Drenthe; và tiếng Limburg gồm các dạng tại Hà Lan của các ngôn ngữ Franconia Meuse-Rhine được nói tại tỉnh Limburg. Các phương ngữ được nói nhiều nhất tại Hà Lan là Brabant-Holland.
Tiếng Ripuaria được nói tại Kerkrade và Vaals lần lượt dưới dạng phương ngữ Kerkrade và phương ngữ Vaals song không được công nhận là một ngôn ngữ khu vực của Hà Lan, các phương ngữ này thỉnh thoảng được xem là một phần hoặc có liên hệ với tiếng Limburg.
Tiếng Anh có vị thế chính thức tại các khu tự quản đặc biệt Saba và Sint Eustatius tại Caribe, được nói phổ biến trên các đảo này. Papiamento có vị thế chính thức tại khu tự quản đặc biệt Bonaire tại Caribe. Tiếng Yiddish và tiếng Digan được công nhận là các ngôn ngữ phi lãnh thổ vào năm 1996.
Người Hà Lan có truyền thống học ngoại ngữ, điều này được chính thức hoá trong luật giáo dục Hà Lan. Khoảng 90% tổng dân số Hà Lan cho biết rằng họ có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, 70% bằng tiếng Đức, và 29% bằng tiếng Pháp. Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong toàn bộ các trường trung học. Trong hầu hết các trường sơ trung học (vmbo), một ngoại ngữ hiện đại khác là môn học bắt buộc trong hai năm đầu. Trong các trường cao trung học (HAVO và VWO), hai ngoại ngữ hiện đại khác là môn bắt buộc trong ba năm đầu, chỉ trong ba năm cuối của VWO thì mới giảm xuống còn bắt buộc một ngoại ngữ. Ngoài tiếng Anh, các ngôn ngữ tiêu chuẩn hiện đại là tiếng Pháp và Đức, song các trường có thể thay thế một trong các ngôn ngữ này bằng tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập hoặc Nga. Ngoài ra, các trường học tại Friesland giảng dạy và có kỳ thi tiếng Tây Frisia, và các trường trên toàn quốc giảng dạy và có kỳ thi tiếng Hy Lạp cổ đại và tiếng Latinh cho các trường trung học (gọi là Gymnasium hoặc VWO+).
Tôn giáo
Cơ Đốc giáo là tôn giáo chi phối tại Hà Lan cho đến cuối thế kỷ XX. Mặc dù Hà Lan vẫn có tính đa dạng về tôn giáo, song diễn ra xu hướng suy thoái gắn bó với tôn giáo. Năm 2015, Cục Thống kê Hà Lan thu thập thông tin thống kê về Hà Lan, kết quả là 50,1% tổng dân số công khai rằng họ không theo tôn giáo. Tín đồ Cơ Đốc giáo chiếm 43,8% tổng dân số, trong đó Công giáo La Mã với 23,7%, Tin Lành với 15,5% và các giáo phái Cơ Đốc khác là 4,6%. Tín đồ Hồi giáo chiếm 4,9% tổng dân số và các tôn giáo khác (như Do Thái giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo) chiếm 1,1% còn lại.
Theo phỏng vấn chuyên sâu độc lập của Đại học Radboud và Đại học Vrije Amsterdam vào năm 2006, 34% người Hà Lan được xác định là tín đồ Cơ Đốc giáo, đến năm 2015 giảm xuống còn gần 25% dân số trung thành với một giáo phái Cơ Đốc (11,7% Công giáo La Mã, 8,6% Giáo hội Tin Lành Hà Lan, 4,2% các giáo phái Cơ Đốc nhỏ khác), 5% là người Hồi giáo và 2% trung thành với Ấn Độ giáo hay Phật giáo, khoảng 67,8% dân số vào năm 2015 không liên kết tôn giáo, tăng từ 61% vào năm 2006, 53% vào năm 1996, 43% vào năm 1979 và 33% vào năm 1966. SCP dự tính số lượng người Hà Lan không liên kết tôn giáo đạt 72% vào năm 2020.
Hiến pháp Hà Lan đảm bảo quyền tự do trong giáo dục, nghĩa là toàn bộ các trường học tôn trọng tiêu chuẩn chất lượng chung đều được nhận tài trợ như nhau của chính phủ. Điều này bao gồm các trường học dựa trên các nguyên tắc tôn giáo thuộc các nhóm tôn giáo (đặc biệt là Công giáo La Mã và các nhóm Tin Lành). Ba chính đảng trong Quốc hội Hà Lan là dựa trên đức tin Cơ Đốc. Một số ngày lễ tôn giáo Cơ Đốc là ngày nghỉ lễ quốc gia (Giáng sinh, Phục sinh, Hiện xuống và Thăng thiên). Vào cuối thế kỷ XIX, thuyết vô thần bắt đầu nổi lên khi chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội phát triển; trong thập niên 1960 và 1970 Tin Lành và Công giáo bắt đầu suy thoái đáng kể. Tuy nhiên, Hồi giáo phát triển đáng kể do nhập cư, và kể từ năm 2000 có sự gia tăng nhận thức về tôn giáo, chủ yếu là do chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan..
Theo một nghiên cứu vào tháng 12 năm 2014 của Đại học VU Amsterdam thì lần đầu tiên số người theo thuyết vô thần (25%) đông hơn người theo thuyết hữu thần (17%) tại Hà Lan. Đa số dân chúng theo thuyết bất khả tri (31%) hoặc chút ít (27%).
Năm 2015, đại đa số cư dân Hà Lan (82%) cho biết họ chưa từng hoặc gần như chưa từng đến nhà thờ, và 59% nói rằng họ chưa từng đến nhà thờ dưới bất kể hình thức nào. Trong số những người được hỏi, 24% nhận mình là người vô thần, tăng 11% so với nghiên cứu vào năm 2006. Sự gia tăng dự tính về tính tinh thần (ietsisme) sẽ ngưng lại theo nghiên cứu vào năm 2015. Năm 2006, 40% số người trả lời tự nhận có tinh thần, đến năm 2015 con số này giảm còn 31%. Số lượng người tin vào sự tồn tại của một quyền lực bề trên giảm từ 36% xuống 28% trong cùng giai đoạn.
Cơ Đốc giáo hiện là tôn giáo lớn nhất tại Hà Lan. Các tỉnh Noord-Brabant và Limburg có truyền thống mạnh mẽ tin theo Công giáo La Mã, và một số cư dân tại đó vẫn nhìn nhận Giáo hội Công giáo là nền tảng cho bản sắc văn hoá của họ. Tin Lành tại Hà Lan bao gồm một số giáo hội, lớn nhất trong số đó là Giáo hội Tin Lành Hà Lan (PKN), đây là một giáo hội thống nhất có định hướng Cải cách và Luther. Giáo hội này được thành lập vào năm 2004 với việc hợp nhất Giáo hội Cải cách Hà Lan, Các giáo hội Cải cách tại Hà Lan và một giáo hội Luther nhỏ hơn. Một số giáo hội Cải cách chính thống và tự do không hợp nhất với PKN. Mặc dù tín đồ Cơ Đốc giáo nay là thiểu số tại Hà Lan, song Hà Lan có một vành đai Kinh Thánh từ Zeeland đến phần phía bắc của tỉnh Overijssel, tại đó các đức tin Tin Lành (đặc biệt là Cải cách) vẫn mạnh mẽ, và thậm chí chiếm đa số tại các hội đồng tự quản.
Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Hà Lan, và vào năm 2012 tôn giáo này có khoảng 825.000 tín đồ (5% dân số). Số lượng người Hồi giáo bắt đầu gia tăng từ năm 1960 do có lượng lớn công nhân di cư. Con số này bao gồm di dân từ các cựu thuộc địa Hà Lan như Suriname và Indonesia, song chủ yếu là công nhân di cư từ Thổ Nhĩ Kỳ và Maroc. Trong thập niên 1990, người Hồi giáo tị nạn đến từ các quốc gia như Bosnia và Herzegovina, Iran, Iraq, Somalia và Afghanistan.
Các tôn giáo khác chiếm khoảng 6% dân chúng Hà Lan. Ấn Độ giáo có khoảng 215.000 tín đồ, hầu hết là người Suriname gốc Ấn Độ. Ngoài ra, còn có số lượng đáng kể người nhập cư theo Ấn Độ giáo đến từ Ấn Độ và Sri Lanka, và một số tín đồ phương Tây của các phong trào tôn giáo mới có định hướng Ấn Độ giáo như Hare Krishna. Hà Lan có khoảng 250.000 tín đồ Phật giáo hoặc những người gắn bó mạnh mẽ với tôn giáo này, nhiều người thuộc dân tộc Hà Lan. Có khoảng 45.000 người Do Thái tại Hà Lan.
Giáo dục
Giáo dục tại Hà Lan có tính chất nghĩa vụ đối với trẻ từ 5 đến 15 tuổi. Toàn bộ trẻ em tại Hà Lan thường theo học tiểu học từ 4 đến 12 tuổi. Tiểu học gồm có tám năm, và dựa trên một bài kiểm tra năng lực, khuyến nghị của giáo viên năm lớp tám và ý kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh, sẽ có một lựa chọn về một trong ba hướng giáo dục trung học (sau khi hoàn thành một chương trình, học sinh vẫn có thể tiếp tục vào năm áp chót của chương trình kế tiếp):
Voorbereidend middelbaar beroepsonderwijs (VMBO) có bốn bậc học và chia thành một vài mức. Người hoàn thành VMBO với mức độ nghề nghiệp thấp được cấp quyền theo học MBO. MBO là một hình thức giáo dục chủ yếu tập trung vào giảng dạy một nghề nghiệp thực tiễn, hoặc một bằng nghề nghiệp. Với bằng MBO, sinh viên có thể nộp đơn theo học HBO.
Hoger algemeen voortgezet onderwijs (HAVO) gồm năm bậc học và cho phép nhập học HBO. HBO là các trường đại học giáo dục nghề nghiệp (khoa học ứng dụng) cấp bằng cử nhân chuyên nghiệp; tương tự như các bằng bách khoa. Một bằng HBO cho phép tiếp cận hệ thống đại học.
Voorbereidend wetenschappelijk onderwijs (VWO) (gồm atheneum và gymnasium) có 6 năm học và chuẩn bị cho học tập tại một đại học (nghiên cứu).
Các đại học cung cấp chương trình cử nhân ba năm, tiếp theo là chương trình thạc sĩ 1-3 năm, sau đó có thể theo một chương trình tiến sĩ bốn năm. Các ứng cử viên tiến sĩ tại Hà Lan thường là nhân viên không biên chế của một đại học. Toàn bộ các đại học tại Hà Lan do nhà nước sở hữu và điều hành, và có một khoảng học phí khoảng 2.000 euro mỗi năm đối với sinh viên đến từ Hà Lan và Liên minh châu Âu.
Giáo dục bậc đại học tại Hà Lan gồm hai loại hình thể chế là các đại học khoa học ứng dụng (HBO) dành cho những người tốt nghiệp HAVO, VWO và MBO, và các đại học nghiên cứu (universiteiten; WO) chỉ dành cho những người tốt nghiệp VWO và HBO (bao gồm tốt nghiệp HBO propaedeuse). HBO bao gồm các thể chế tổng hợp hoặc các thể chế chuyên về một lĩnh vực cụ thể, như nông nghiệp, nghệ thuật thị giác và trình diễn, hoặc đào tạo giáo dục, trong khi Wo gồm 12 đại học tổng hợp cùng ba đại học kỹ thuật.
Kể từ tháng 9 năm 2002, hệ thống giáo dục bậc đại học tại Hà Lan được tổ chức theo một hệ thống ba chu kỳ gồm cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ, nhằm thích hợp và tiêu chuẩn hoá giảng dạy trong cả HBO và WO theo tiến trình Bologna. Trong cùng thời gian, hệ thống ECTS được chấp thuận làm cách thức định lượng khối lượng công việc của sinh viên. Bất chấp những thay đổi này, hệ thống lưỡng thể có khác biệt giữa giáo dục định hướng nghiên cứu và giáo dục bậc cao định hướng nghề nghiệp vẫn tồn tại trên thực tế. Chương trình tiến sĩ chỉ được cung cấp từ các đại học nghiên cứu, quá trình nghiên cứu sinh tiến sĩ được gọi là "thăng cấp" (promotie). Bằng tiến sĩ chủ yếu là một bằng nghiên cứu, một luận văn dựa trên nghiên cứu gốc cần phải được viết và bảo vệ công khai. Nghiên cứu này thường được tiến hành khi họ làm việc tại một trường đại học với vị thế promovendus (trợ lý nghiên cứu).
Y tế
Năm 2016, Hà Lan duy trì vị trí số một trong Chỉ số người thụ hưởng y tế châu Âu (EHCI), là chỉ số so sánh các hệ thống y tế tại châu Âu. Hà Lan thuộc ba quốc gia đầu tiên trong các báo cáo công bố kể từ năm 2005. Trong số 48 tiêu chí như quyền lợi, thông tin, khả năng tiếp cận và kết quả, Hà Lan đảm bảo vị trí đứng đầu trong sáu năm liên tục. Hà Lan xếp thứ nhất trong một nghiên cứu vào năm 2009 về so sánh các hệ thống y tế của Hoa Kỳ, Úc, Canada, Đức và New Zealand.
Hầu hết bệnh viện tại Hà Lan do tư nhân điều hành, thuộc các tổ chức phi lợi nhuận, song hầu hết nhà cung cấp bảo hiểm y tế là các công ty vì lợi nhuận. Có khoảng 90 tổ chức bệnh viện tại Hà Lan, một số điều hành nhiều bệnh viện trên thực tế, thường là do hợp nhất các bệnh viện độc lập vào trước đó. Hà Lan có một mạng lưới 160 trung tâm chăm sóc sơ cấp cấp tính luôn mở cửa, do vậy mọi người có thể tiếp cận dễ dàng. Phân tích của Viện Quốc gia về Y tế công cộng và Môi trường Hà Lan cho thấy rằng 99,8% cư dân có thể được vận chuyển đến một đơn vị cấp cứu hoặc bệnh viện cung cấp sản khoa cấp cứu trong vòng 45 phút vào năm 2015.
Kể từ khi có một cuộc cải cách lớn về hệ thống y tế vào năm 2006, hệ thống của Hà Lan nhận được thêm nhiều điểm mỗi năm. Theo HCP (Health Consumer Powerhouse), Hà Lan có 'một hệ thống lộn xộn', nghĩa là bệnh nhân có mức độ tự do lớn về nơi mua bảo hiểm y tế, cho đến nơi họ nhận dịch vụ y tế. Tuy nhiên khác biệt giữa Hà Lan và các quốc gia khác chính là sự hỗn loạn này được quản lý. Các quyết định y tế được tiến hành thông qua đối thoại giữa bệnh nhân và chuyên gia y tế.
Bảo hiểm y tế tại Hà Lan là điều bắt buộc. Y tế tại Hà Lan được bao phủ bởi hai hình thức bảo hiểm luật định: Zorgverzekeringswet (Zvw), thường gọi là "bảo hiểm cơ bản", bao gồm chăm sóc y tế thông thường. Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten (AWBZ) bao gồm điều dưỡng và chăm sóc y tế dài hạn. Trong khi cư dân Hà Lan được tự động nhận bảo hiểm AWBZ từ chính phủ, thì mọi người phải mua bảo hiểm y tế cơ bản cho mình (basisverzekering), ngoại trừ những người dưới 18 được tự động gắn liền theo tiền đóng bảo hiểm của cha mẹ.
Y tế tại Hà Lan có thể chia thành một vài cách thức: Ba cấp bậc là chăm sóc y tế thân thể và tinh thần, 'điều trị' (ngắn hạn), 'chăm sóc' (dài hạn). Các bác sĩ gia đình (huisartsen, có thể so sánh với bác sĩ đa khoa) tạo thành bộ phận lớn nhất của cấp bậc đầu tiên. Tham khảo một thành viên trong cấp đầu tiên là điều bắt buộc để tiếp cận cấp thứ hai và thứ ba. Hệ thống chăm sóc y tế Hà Lan khá hiệu quả so với các quốc gia phương Tây khác song không phải là có hiệu quả chi phí nhất.
Y tế tại Hà Lan là một hệ thống kép, có hiệu lực từ tháng 1 năm 2006. Điều trị dài hạn, đặc biệt là các bệnh liên quan đến nằm viện bán thường xuyên, và các chi phí tàn tật như xe lăn, được che phủ bởi một loại bảo hiểm bắt buộc do nhà nước kiểm soát. Điều này được quy định trong Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten ("Luật tổng quát về Chi phí y tế đặc biệt") có hiệu lực lần đầu vào năm 1968. Năm 2009, loại bảo hiểm này chi trả 27% tổng chi phí chăm sóc y tế. Đối với toàn bộ điều trị y tế ngắn hạn, có một hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc, với các công ty bảo hiểm y tế tư nhân. Các công ty bảo hiểm y tế này buộc phải cung cấp một gói được định rõ các điều trị được bảo hiểm. Loại bảo hiểm này chi trả 41% toàn bộ phí tổn chăm sóc y tế trên toàn quốc. Các nguồn chi trả y tế khác là thuế (14%), chi trả tiền mặt (9%), các gói bảo hiểm y tế tự nguyện (4%) và các nguồn khác (4%). Khả năng chi trả được đảm bảo thông qua một hệ thống các khoản trợ cấp liên quan đến thu nhập và tiền đóng bảo hiểm cá nhân liên quan đến thu nhập do cá nhân và giới chủ chi trả.
Văn hoá
Hà Lan là quốc gia của các triết gia Erasmus thành Rotterdam và Spinoza. Toàn bộ các tác phẩm chính của Descartes được thực hiện tại Hà Lan. Nhà khoa học Hà Lan Christiaan Huygens (1629–1695) khám phá vệ tinh Titan của Sao Thổ và là nhà vật lý học đầu tiên sử dụng các công thức toán học. Antonie van Leeuwenhoek là người đầu tiên quan sát và mô tả sinh vật đơn bào bằng một kính hiển vi. Kiến trúc truyền thống Hà Lan đặc biệt có giá trị tại Amsterdam, Delft và Leiden, với các toà nhà từ thế kỷ XVII và XVIII dọc theo các kênh. Kiến trúc làng nhỏ với các nhà bằng gỗ hiện diện tại Zaandam và Marken. Cối xay gió, hoa tulip, guốc gỗ, pho mát, đồ gốm Delft, và cần sa nằm trong số những vật thể được du khách liên tưởng với Hà Lan.
Hà Lan có lịch sử lâu dài về khoan dung xã hội và nay được nhìn nhận là một quốc gia tự do, xét về chính sách ma tuý của nước này và việc họ hợp pháp hoá an tử. Năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới. Hà Lan có danh tiếng là quốc gia đi đầu về quản lý môi trường và dân cư. Năm 2015, Amsterdam và Rotterdam lần lượt đứng thứ 4 và thứ 5 trong chỉ số thành phố thành phố bền vững Arcadis. Tính bền vững là một khái niệm quan trọng đối với người Hà Lan, mục tiêu của chính phủ Hà Lan là có một hệ thống năng lượng bền vững, đáng tin cậy và giá cả phải chăng đến năm 2050, khi đó phát thải sẽ giảm một nửa và 40% điện năng đến từ các nguồn bền vững. Chính phủ đang đầu tư hàng tỉ euro vào tính hiệu quả năng lượng, năng lượng bền vững và giảm phát thải . Vương quốc cũng khuyến khích các công ty Hà Lan xây dựng các hạ tầng bền vững, với hỗ trợ tài chính của nhà nước cho các công ty hoặc cá nhân hoạt động trong việc biến quốc gia trở nên bền vững hơn.
Mỹ thuật
Hội họa Thời kỳ hoàng kim Hà Lan nằm vào hàng được tôn vinh nhất thế giới đương thời, trong thế kỷ XVII. Đây là thời của "các bậc thầy Hà Lan" như Rembrandt van Rijn, Johannes Vermeer, Jan Steen, Jacob van Ruisdael. Rembrandt thường được nhận định là một trong các nghệ sĩ thị giác vĩ đại nhất trong lịch sử, các tác phẩm của ông mô tả đa dạng về phong cách và chủ đề, từ chân dung và tự hoạ đến phong cảnh, cảnh tượng kinh thánh hay thần thoại. Từ thập niên 1620, hội họa Hà Lan tách biệt dứt khoát khỏi phong cách Baroque để bước sang một phong cách miêu tả hiện thực hơn, quan tâm rất nhiều đến thế giới thực. Các loại tranh gồm có tranh lịch sử, chân dung, phong cảnh, cảnh đô thị, tĩnh vật và thể loại. Trong bốn loại tranh cuối nêu trên, các họa sĩ Hà Lan lập ra các phong cách được giới mỹ thuật châu Âu dựa vào trong hai thế kỷ sau đó. Các bức tranh tường có một ẩn ý đạo đức. Các chủ đề được ưa thích về phong cảnh Hà Lan là những đụn cát dọc theo bờ biển phía tây, các sông với các bãi cỏ liền kề rộng rãi và là nơi chăn gia súc, và thường có một bóng hình thành phố ở phía xa. Thời kỳ hoàng kim không bao giờ khôi phục được từ sau khi Pháp xâm chiếm vào năm 1672, song có một giai đoạn hoàng hôn kéo dài cho đến khoảng năm 1710.
Trường phái Haag xuất hiện vào khoảng lúc bắt đầu thế kỷ XIX, thể hiện toàn bộ những gì tối nhất hoặc sáng nhất trong cảnh quan Hà Lan, những gì âm u nhất hoặc trong trẻo nhất trong khí quyển. Trường phái ấn tượng Amsterdam thịnh hành vào giữa thế kỷ XIX, cùng thời kỳ với trường phái ấn tượng Pháp. Các họa sĩ dùng các nét vẽ nhanh và rõ để ghi dấu lên bức vẽ. Họ tập trung vào miêu tả sinh hoạt thường nhật của thành phố. Amsterdam cuối thế kỷ XIX là một trung tâm nhộn nhịp về mỹ thuật và văn học. Vincent van Gogh là một họa sĩ hậu ấn tượng, các tác phẩm của ông được chú ý vì vẻ đẹp thô, tính chân thật biểu cảm và màu sắc rõ nét, có ảnh hưởng sâu rộng đến mỹ thuật thế kỷ XX. Trong thế kỷ XX, Hà Lan sản sinh nhiều họa sĩ như Roelof Frankot, Salomon Garf, Pyke Koch. Khoảng năm 1905-1910, pha màu theo phép xen kẽ phát triển thịnh vượng. Từ năm 1911 đến năm 1914, toàn bộ các phong trào mỹ thuật mới nhất lần lượt truyền đến Hà Lan, bao gồm trường phái lập thể, trường phái vị lai và trường phái biểu hiện. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, De Stijl (phong cách) được dẫn dắt bởi Piet Mondrian và xúc tiến mỹ thuật thuần tuý, chỉ bao gồm các đường dọc và ngang, sử dụng các màu cơ bản.
Kiến trúc
Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVII, do kinh tế thịnh vượng nên các thành phố được mở mang rất nhiều. Các toà thị chính và nhà kho mới được xây dựng, và nhiều kênh đào mới được hình thành trong và quanh các thành phố như Delft, Leiden và Amsterdam để nhằm mục đích phòng thủ và vận chuyển. Nhiều thương gia giàu có sở hữu một ngôi nhà mới dọc các kênh đào này, các ngôi nhà này thường rất hẹp và có mặt tiền được trang trí nhằm thích hợp với địa vị mới của gia chủ. Nguyên nhân khiến các ngôi nhà này hẹp là do bị đánh thuế chiều rộng mặt tiền. Kiến trúc của nền cộng hoà đầu tiên tại phía bắc châu Âu ghi dấu với tính nhã nhặn và giản dị, và là phương thức phản ánh các giá trị dân chủ. Nhìn chung, kiến trúc tại các Vùng đất thấp, cả tại miền nam chịu ảnh hưởng của phản cải cách và miền bắc do Tin Lành chi phối, vẫn đầu tư mạnh mẽ vào các dạng phục hưng và kiểu cách của miền bắc Ý. Dạng mộc mạc hơn được tiến hành tại Cộng hoà Hà Lan rất phù hợp đối với các mô hình xây dựng lớn: Các cung điện cho Nhà Oranje và các toà nhà dân sự mới, không chịu ảnh hưởng từ phong cách phản cải cách đang tạo ra một số tiến bộ tại Antwerpen. Đến cuối thế kỷ XIX, có một dòng Tân Goth đáng chú ý hoặc Phục hưng Goth trong các kiến trúc nhà thờ cũng như công cộng, đáng chú ý là Pierre Cuypers, ông lấy cảm hứng từ kiến trúc sư người Pháp Viollet le Duc. Bảo tàng Rijksmuseum (1876–1885) và ga Amsterdam Centraal (1881–1889) nằm trong các toà nhà chính của ông.
Trong thế kỷ XX, các kiến trúc sư Hà Lan đóng vai trò dẫn đầu trong phát triển kiến trúc hiện đại. Ngoài kiến trúc duy lý đầu thế kỷ XX của Berlage, là người thiết kế Beurs van Berlage, còn có ba nhóm riêng biệt khác phát triển trong thập niên 1920, mỗi nhóm có quan điểm riêng về phương hướng của kiến trúc hiện đại. Các kiến trúc sư theo trường phái biểu hiện như M. de Klerk and P.J. Kramer tại Amsterdam. Trường phái chức năng có Mart Stam, L.C. van der Vlugt, Willem Marinus Dudok và Johannes Duiker, họ có quan hệ tốt với nhóm theo chủ nghĩa tân thời quốc tế CIAM. Nhóm thứ ba xuất hiện từ phong trào De Stijl, trong số họ có J.J.P Oud và Gerrit Rietveld, hai người này về sau xây dựng theo một phong cách chức năng. Trong các thập niên 1950 và 1960, một thế hệ kiến trúc sư mới như Aldo van Eyck, J.B. Bakema và Herman Hertzberger, gọi là ‘thế hệ Forum’ (theo tạp chí Forum) hình thành một liên kết với các nhóm quốc tế như Team 10. Từ thập niên 1980 đến nay, Rem Koolhaas với hãng Office for Metropolitan Architecture (OMA) của ông trở thành một trong các kiến trúc sư hàng đầu thế giới. Cùng với ông, hình thành một thế hệ kiến trúc sư Hà Lan mới làm việc trong truyền thống hiện đại.
Văn học
Cho đến cuối thế kỷ XI, văn học Hà Lan giống như văn học tại những nơi khác của châu Âu vẫn hầu như là theo hình thức truyền khẩu bằng thể loại thơ. Trong thế kỷ XII và XIII, các nhà văn bắt đầu viết các truyện anh hùng kị sĩ và tiểu sử các thánh cho giới quý tộc. Từ thế kỷ XIII, văn học trở nên mô phạm hơn và phát triển một đặc tính quốc gia sơ khai do nó được viết cho giai cấp tư sản. Văn học Hà Lan diễn ra một biến đổi khi kết thúc thế kỷ XIII, các thị trấn vùng Vlaanderen nay thuộc Bỉ và vùng Holland nay thuộc Hà Lan trở nên thịnh vượng và một cách diễn đạt văn học khác bắt đầu. Khoảng năm 1440, các phường hội văn chương gọi là rederijkerskamers ("phòng tu từ học") xuất hiện và thường mang sắc thái của tầng lớp trung lưu. Những phòng sớm nhất trong số này hầu như hoàn toàn tham gia vào chuẩn bị các vở kịch tôn giáo và kịch thần bí cho nhân dân. Anna Bijns (khoảng 1494–1575) là một nhân vật quan trọng, ông viết bằng tiếng Hà Lan hiện đại. Cải cách Tin Lành xuất hiện trong văn học Hà Lan bằng một bộ sưu tập các bản dịch Thánh Vịnh vào năm 1540 và bằng một bản dịch Tân Ước vào năm 1566 sang tiếng Hà Lan. Nổi tiếng nhất trong số các nhà văn Hà Lan là nhà biên kịch và nhà thơ Công giáo Joost van den Vondel (1587–1679). Pieter Corneliszoon Hooft (1581-1647) là thành viên nổi bật nhất trong nhóm Muiderkring, viết các bài thơ mục đồng và trữ tình.
Vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, các Vùng đất thấp trải qua biến động lớn về chính trị, các nhà văn nổi bật trong giai đoạn này là Willem Bilderdijk (1756–1831), Hiëronymus van Alphen (1746–1803) và Rhijnvis Feith (1753–1824). Piet Paaltjens (bút danh của François Haverschmidt, 1835–1894) là một trong rất ít nhà thơ đáng đọc vào thế kỷ XIX, là đại diện tại Hà Lan của lối viết lãng mạn với Heine là điển hình. Một phong trào mới mang tên Tachtigers hay "phong trào 80" theo thập kỷ nó xuất hiện. Multatuli viết về việc đối xử tồi với người bản địa tại thuộc địa Đông Ấn Hà Lan. Một trong các nhà văn lịch sử nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX là Johan Huizinga, được bên ngoài biết đến và được dịch sang các ngôn ngữ khác, tác phẩm của ông được liệt vào trong một vài danh sách bộ sách thiết yếu. Trong thập niên 1920, xuất hiện một nhóm nhà văn mới tách mình khỏi phong cách hoa mỹ của Phong trào 80, dẫn đầu là Nescio (J.H.F. Grönloh, 1882–1961). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có Anne Frank (với nhật ký của cô bé), cùng nhà văn tiểu thuyết hình sự và nhà thơ Jan Campert. Các nhà văn sống qua sự tàn bạo của Chiến tranh thế giới thứ hai đã phản ánh trong tác phẩm của họ về thay đổi trong nhận chức thực tiễn. Nhiều người nhìn lại các trải nghiệm của họ theo cách Anne Frank đã làm trong nhật ký của cô bé, như trong trường hợp Het bittere kruid (cỏ đắng) của Marga Minco, và Kinderjaren (thời thơ ấu) của Jona Oberski. Sự phục hồi, trong lịch sử văn học được mô tả là "ontluisterend realisme" (chủ nghĩa hiện thực sửng sốt), chủ yếu có liên hệ với ba tác giả Gerard Reve, W.F. Hermans và Anna Blaman. Reve và Hermans thường được trích dẫn cùng với Harry Mulisch là ba tác giả lớn của văn học Hà Lan thời hậu chiến.
Âm nhạc
Hà Lan có truyền thống âm nhạc đa dạng, âm nhạc truyền thống Hà Lan là một thể loại được gọi là "Levenslied", nghĩa là tiếng hát của đời sống, có đặc trưng là giai điệu và nhịp điệu đơn giản, với cấu trúc đơn giản trong các cặp câu và đoạn điệp khúc. Chủ đề có thể nhẹ nhàng, song thường sẽ là đa cảm và gồm có tình yêu, cái chết và nỗi cô đơn. Các nhạc cụ truyền thống như phong cầm và đàn thùng là một yếu tố chủ yếu trong âm nhạc levenslied, song vào những năm gần đây có nhiều nghệ sĩ cũng sử dụng synthesizer và guitar. Các nghệ sĩ trong thể loại này có thể kể đến như Jan Smit, Frans Bauer và André Hazes.
Nhạc rock và pop đương đại Hà Lan (Nederpop) có nguồn gốc từ thập niên 1960, nó chịu ảnh hưởng mạnh từ âm nhạc đại chúng Mỹ và Anh. Trong các thập niên 1960 và 1970, phần lời hầu hết viết bằng tiếng Anh và một số bài hát được trình diễn bằng nhạc cụ. Các ban nhạc như Shocking Blue, Golden Earring, Tee Set, George Baker Selection và Focus đạt được thành công ở tầm quốc tế. Đến thập niên 1980, ngày càng nhiều nhạc sĩ pop bắt đầu làm việc bằng tiếng Hà Lan, một phần là do được truyền cảm hứng từ thành công vang dội của ban nhạc Doe Maar. Ngày nay, nhạc rock và pop Hà Lan phát triển mạnh trong cả hai ngôn ngữ, một số nghệ sĩ cũng ghi âm bằng cả hai ngôn ngữ.
Các ban nhạc symphonic metal là Epica, Delain, ReVamp, The Gathering, Asrai, Autumn, Ayreon và Within Temptation cùng ca sĩ nhạc jazz và pop Caro Emerald có thành công ở tầm quốc tế. Các ban nhạc metal như Hail of Bullets, God Dethroned, Izegrim, Asphyx, Textures, Present Danger, Heidevolk và Slechtvalk là khách mời phổ biến tại các nhạc hội metal lớn nhất châu Âu. Các ngôi sao ca nhạc Hà Lan đương đại gồm có ca sĩ nhạc pop Anouk, ca sĩ nhạc country pop Ilse DeLange, ban nhạc dân gian hát bằng phương ngữ Nam Gelderland và Limburg Rowwen Hèze, ban nhạc rock BLØF và bộ đôi Nick & Simon.
Vào đầu thập niên 1990, các nghệ sĩ nhạc house Hà Lan và Bỉ cùng tiến hành dự án Eurodance 2 Unlimited. Họ bán được 18 triệu bản, hai ca sĩ trong ban nhạc là các nghệ sĩ âm nhạc Hà Lan thành công nhất cho đến nay. Các ban nhạc Hà Lan khác thành công quốc tế là 2 Brothers On The 4th Floor và Vengaboys. Vào giữa thập niên 1990, nhạc rap và hip hop tiếng Hà Lan (Nederhop) cũng thăng hoa và trở nên phổ biến tại Hà Lan và Bỉ. Các nghệ sĩ có nguồn gốc Bắc Phi, Caribe hoặc Trung Đông có ảnh hưởng mạnh trong thể loại này.
Kể từ thập niên 1990, nhạc dance điện tử Hà Lan (EDM) trở nên phổ biến rộng rãi trên thế giới với nhiều dạng như trance, techno và gabber hay hardstyle. Một số DJ vào hàng nổi tiếng nhất thế giới tới từ Hà Lan, như Armin van Buuren, Tiësto, Hardwell, Martin Garrix, Nicky Romero và Afrojack; bốn người đầu tiên kể trên nằm vào hàng giỏi nhất thế giới theo DJ Mag Top 100 DJs. Các DJ cũng đóng góp cho nhạc pop dòng chính do họ thường xuyên cộng tác và sản xuất cho các nghệ sĩ quốc tế nổi tiếng. Amsterdam Dance Event (ADE) là nhạc hội điện tử hàng đầu thế giới và là lễ hội câu lạc bộ lớn nhất đối với nhiều phân loại điện tử.
Về âm nhạc cổ điển, Jan Sweelinck được đánh giá là nhà soạn nhạc Hà Lan nổi tiếng nhất, còn Louis Andriessen nằm trong số các nhà soạn nhạc cổ điển người Hà Lan nổi tiếng nhất đang sống. Ton Koopman là một nhạc trưởng, nghệ sĩ đàn ống và harpsichord người Hà Lan, đồng thời là giáo sư Trường Âm nhạc Hoàng gia Den Haag. Các nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng là Janine Jansen và André Rieu. André Rieu cùng với Dàn nhạc Johann Strauss của ông trình diễn trong các cuộc lưu diễn hoà nhạc trên toàn cầu, quy mô và doanh thu của chúng có thể sánh với các màn biểu diễn nhạc rock và pop lớn nhất thế giới. Tác phẩm cổ điển Hà Lan nổi tiếng nhất là "Canto Ostinato" của Simeon ten Holt, một tác phẩm giản lược cho các nhạc cụ đa chức năng. Nghệ sĩ đàn hạc Lavinia Meijer vào năm 2012 phát hành một tuyển tập với các tác phẩm của Philip Glass được bà chuyển đổi cho đàn hạc. Concertgebouw (hoàn thành vào năm 1888) tại Amsterdam là cứ điểm của Dàn nhạc Concertgebouw Hoàng gia, được cho là một trong các dàn nhạc hay nhất thế giới.
Điện ảnh
Phim đầu tiên của Hà Lan là phim hài hề tếu Gestoorde hengelaar (1896) của M.H. Laddé.. Mặc dù ngành phim Hà Lan tương đối nhỏ, song có một số giai đoạn tích cực khi ngành làm phim Hà Lan thịnh vượng. Giai đoạn bùng nổ đầu tiên đến vào Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Hà Lan là một trong các quốc gia trung lập. Các xưởng phim như Hollandia sản xuất một loạt phim truyện. Một làn sóng thứ thì xuất hiện trong thập niên 1930, khi việc xuất hiện phim nói dẫn đến những lời kêu gọi sản xuất phim nói tiếng Hà Lan, kết quả là bùng nổ về sản xuất. Để thích ứng với sự phát triển nhanh chóng, ngành phim Hà Lan trông cậy vào những người ngoại quốc có kinh nghiệm về kỹ thuật phim âm thanh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ngành phim tư nhân Hà Lan gần như phải ngưng lại, tuy nhiê người Đức đã hỗ trợ nhiều phim tuyên truyền quy mô nhỏ với nội dung ủng hộ Đức Quốc xã.
Phim tài liệu Hà Lan nổi tiếng thế giới từ lâu, các đạo diễn Hà Lan nổi tiếng nhất có xuất phát điểm từ phim tài liệu, đặc biệt là những người bắt đầu sự nghiệp trước Chiến tranh thế giới thứ hai, như Joris Ivens và Bert Haanstra. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 1970, sản xuất phim tài liệu với mục đích phát hành tại rạp bị suy thoái, có lẽ là do chuyển hướng sang phim tài liệu truyền hình. Trong những năm ngay sau chiến tranh, hầu hết các nỗ lực được dành cho tái thiết quốc gia, và phim không phải là một ưu tiên. Vào cuối thập niên 1950, ngành phim Hà Lan được chuyên nghiệp hoá. Phim tài liệu vẫn giữ một vai trò quan trọng trong ngành làm phim Hà Lan. Liên hoan phim tài liệu quốc tế Amsterdam được tổ chức vào tháng 11 hàng năm, và được xem là một trong các liên hoan phim tài liệu lớn nhất thế giới.
Đến cuối thập niên 1960, thế hệ đầu tiên các nhà làm phim Hà Lan tốt nghiệp từ Học viện Điện ảnh Hà Lan bắt đầu gây dựng tên tuổi. Đạo diễn nổi tiếng trong giai đoạn này là Fons Rademakers, Rademakers học nghề từ Vittorio De Sica và Jean Renoir và đem các kiến thức mới về phim nghệ thuật nước ngoài về nước. Một giai đoạn thành công lâu dài hơn của điện ảnh Hà Lan đến trong thập niên 1970, dẫn đầu là Paul Verhoeven. Năm bộ phim của Verhoeven trong thập niên là Wat zien ik? (1971), Turks Fruit (1973), Keetje Tippel (1975), Soldaat van Oranje (1977) và Spetters (1980) - đạt kỷ lục phòng vé. Turks Fruit và Soldaat van Oranje cũng thành công ở nước ngoài, và khiến Verhoeven có sự nghiệp tại Hollywood. Năm 2006, Verhoeven làm phim Black Book (Zwartboek), đây là phim nói tiếng Hà Lan đầu tiên của ông kể từ The Fourth Man (1983). Các dạo diễn thành công khác trong giai đoạn này là Wim Verstappen và Pim de la Parra. Sau năm 1980, ít phim Hà Lan có thể đủ sức đưa hàng triệu người đến các rạp chiếu phim, do suy giảm mức độ quan tâm và sự phổ biến của hệ thống video gia đình.
Đến giữa thập niên 1990, chính phủ Hà Lan áp dụng việc tránh thuế (gọi là 'CV-regeling') nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân trong ngành điện ảnh Hà Lan. Sau khi thực hiện các quy tắc mới này, diễn ra một cuộc bùng nổ trong sản xuất phim Hà Lan, với những phim nhắm đến khán giả trẻ như Costa! (2001). Sau một thời gian, công thức này đuối dần và hương vị thương mại mới trở thành các bộ phim với cảm giác đa văn hoá, Shouf Shouf Habibi (2004) và Het Schnitzelparadijs (2005) có thành công thương mại.
Các diễn viên Hà Lan thành công nhất tại Hollywood là Rutger Hauer (Blade Runner), Jeroen Krabbé (The Fugitive), Famke Janssen (X-Men) và Carice van Houten (Game of Thrones). Các nhà làm phim có sự nghiệp thành công tại Hollywood ngoài Paul Verhoeven còn có Jan de Bont (với Speed và Twister), nhà biên kịch-chuyển thể-đạo diễn Menno Meyjes (The Color Purple và Indiana Jones and the Last Crusade) và nhà sản xuất Pieter Jan Brugge (Glory, Miami Vice, Defiance). Roel Reiné sau khi chuyển tới Hollywood đã trở thành một đạo diễn-nhà sản xuất có ảnh hưởng với các bộ phim DVD Premiere, như Pistol Whipped (2008). Các đạo diễn hình ảnh Hà Lan có được thành công quốc tế là Hoyte van Hoytema (Interstellar, Spectre, Dunkirk) và Theo van de Sande (Wayne's World và Blade).
Truyền thông
Các báo quan trọng nhất của Hà Lan là De Telegraaf, Algemeen Dagblad, de Volkskrant, NRC Handelsblad và Trouw. Trong quá khứ, Parool được thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là một tờ báo chính yếu, song nay nó chủ yếu tập trung vào cấp thành phố và khu vực của Hà Lan. Đối với độc giả tu sĩ (Tin Lành), Reformatorisch Dagblad và Nederlands Dagblad là các báo quốc gia nổi tiếng.
Truyền hình tại Hà Lan bắt đầu vào năm 1951. Tại Hà Lan, thị trường truyền hình được phân chia giữa một số mạng lưới thương mại như RTL Nederland, và một hệ thống phát sóng công cộng chia sẻ ba kênh NPO 1, NPO 2 và NPO 3. Các chương trình nhập khẩu (ngoại trừ cho trẻ em), cũng như các phỏng vấn tin tức với câu trả lời bằng ngoại ngữ luôn được hiển thị trong ngôn ngữ gốc, đi kèm phụ đề. Đến năm 2013, 78,3% khán giả Hà Lan tiếp nhận truyền hình kỹ thuật số. Truyền hình kỹ thuật số có nhiều cách thức, phổ biến nhất là qua cáp với Ziggo là nhà cung cấp chính về truyền hình cáp tại Hà Lan, CanalDigitaal là nhà cung cấp truyền hình vệ tinh, KPN Digitenne là nhà cung cấp truyền hình kỹ thuật số mặt đất, KPN và Tele2 là hai nhà cung cấp chính về truyền hình internet. Các kênh truyền hình cung cấp sẽ phụ thuộc nhiều vào nhà cung cấp, tuy nhiên có có một nhóm nhỏ các kênh mà mọi nhà khai thác cần phải truyền tải, kể từ năm 2014 là các kênh như các kênh quốc gia NPO 1, NPO 2, NPO 3. Truyền hình thương mại tại Hà Lan được cấp phép từ năm 1988, muộn hơn so với các quốc gia láng giềng, các công ty chính cung cấp truyền hình thương mại là RTL Nederland và SBS Broadcasting.
Xuất khẩu truyền hình từ Hà Lan hầu hết được tiến hành dưới dạng thể thức và nhượng quyèn cụ thể, đáng chú ý nhất là thông qua tổ hợp sản xuất truyền hình quốc tế Endemol của các tài phiệt truyền thông người Hà Lan là John de Mol và Joop van den Ende. Endemol có trụ sở tại Amsterdam với khoảng 90 công ty tại 30 quốc gia. Endemol và các công ty con của họ sáng tạo và vận hành các chương trình nhượng quyền thực tế, tài năng và trò chơi truyền hình trên khắp thế giới, như Big Brother và Deal or No Deal. John de Mol sau đó bắt đầu công ty riêng của mình mang tên Talpa, tạo ra các chương trình nhượng quyền như The Voice và Utopia.
Hà Lan cũng có một lượng lớn các đài phát thanh, với sáu kênh phát thanh quốc gia như NPO Radio 1, NPO Radio 2 và NPO 3FM, cùng một số kênh công cộng kỹ thuật số và khu vực. Radio 538, Sky Radio và Q-music là các nhà cung cấp chính trong thị trường thương mại.
Thể thao
Có khoảng 4,5 triệu dân Hà Lan đăng ký tại một trong số 35.000 câu lạc bộ thể thao trong nước, và khoảng hai phần ba dân số từ 15 đến 75 tuổi tham gia hoạt động thể thao hàng tuần. Bóng đá là môn thể thao được người Hà Lan tham gia phổ biến nhất, các môn thể thao đội tuyển phổ biến kế tiếp là khúc côn cầu trên cỏ và bóng chuyền. Quần vợt, thể dục dụng cụ và golf là ba môn thể thao cá nhân được tham gia rộng rãi nhất.
Các tổ chức thể thao bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Các liên đoàn thể thao được thành lập như (liên đoàn trượt băng tốc độ vào năm 1882), các quy tắc được thống nhất và các câu lạc bộ thể thao xuất hiện. Ủy ban Olympic Quốc gia Hà Lan được thành lập vào năm 1912, và Hà Lan giành được 285 huy chương tại Thế vận hội Mùa hè tính đến năm 2016 và 110 huy chương tại Thế vận hội Mùa đông tính đến năm 2014. Trong thi đấu quốc tế, các đội tuyển và vận động viên Hà Lan chiếm ưu thế trong một số lĩnh vực. Đội tuyển khúc côn cầu trên cỏ nữ Hà Lan là đội tuyển thành công nhất trong lịch sử của hạng mục này. Đội tuyển bóng chày Hà Lan từng 20 lần giành chức vô địch châu Âu. Các võ sĩ Kickboxing K1 Hà Lan từng 15 lần thắng giải K-1 World Grand Prix.
Trượt băng tốc độ Hà Lan giành chiến thắng trong 8/12 sự kiện, 23/36 huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông 2014, là thành tích chiếm ưu thế nhất trong một môn thể thao của lịch sử Thế vận hội. Đua ô tô tại trường đua TT Assen có một lịch sử lâu dài. Assen là địa điểm duy nhất liên tục tổ chức một vòng đấu của giải vô địch ô tô thế giới từ khi hình thành vào năm 1949. Trường đua được xây dựng dành cho Dutch TT vào năm 1954, các sự kiện trước đó được tổ chức trên đường phố.
Max Verstappen thi đấu tại Công thức một, và là người Hà Lan đầu tiên thắng một giải Grand Prix. Khu nghỉ dưỡng ven biển Zandvoort tổ chức Dutch Grand Prix từ năm 1958 đến năm 1985. Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Hà Lan từng giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1996. Thành công lớn nhất của đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Hà Lan là vô địch châu Âu năm 1995 và World Grand Prix vào năm 2007.
Ẩm thực
Ban đầu, ẩm thực Hà Lan hình thành dựa theo hoạt động ngư nghiệp và nông nghiệp, bao gồm canh tác cây trồng và nuôi động vật được thuần hoá. Ẩm thực Hà Lan đơn giản và không phức tạp, gồm nhiều sản phẩm bơ sữa. Bữa sáng và bữa trưa điển hình là bánh mì phủ pho mát, hoặc là ngũ cốc cho bữa sáng. Theo truyền thống, bữa tối gồm có khoai tây, một phần thịt, và rau theo mùa. Món ăn Hà Lan có hàm lượng cacbohydrat và chất béo ở mức cao, phản ánh nhu cầu ăn của những người lao động vì văn hoá của họ định hình nên quốc gia. Món ăn Hà Lan không có nhiều sự tinh tế, mô tả tốt nhất là mộc mạc, song các loại đồ ăn đặc biệt được chuẩn bị cho nhiều ngày lễ. Trong thế kỷ XX, đồ ăn Hà Lan biến đổi và trở nên toàn cầu hơn, và hầu hết các nền ẩm thực toàn cầu có đại diện trong các thành phố lớn tại đây. Vào đầu năm 2014, Oxfam xếp hạng Hà Lan là quốc gia có đồ ăn bổ dưỡng, phong phú và tốt cho sức khoẻ nhất, khi so sánh trong số 125 quốc gia.
Các tác giả ẩm thực hiện đại phân biệt giữa ba thể loại khu vực tổng quát của ẩm thực Hà Lan. Các khu vực tại đông bắc Hà Lan, đại thể tương ứng với các tỉnh Groningen, Friesland, Drenthe, Overijssel và Gelderland là khu vực thưa dân nhất. Đây là khu vực phát triển nông nghiệp muộn, ẩm thực tại đây được biết đến với nhiều loại thịt, phong phú về săn bắt và chăn nuôi, song các món ăn gần bờ biển cũng có lượng lớn cá. Khu vực có các loại xúc xích khô khác nhau, thuộc nhóm metworst của xúc xích Hà Lan, và được đánh giá cao vì thường có vị rất mạnh. Xúc xích lớn thường được ăn kèm với stamppot, hutspot hay zuurkool (dưa cải Đức); còn xúc xích nhỏ thường là một loại đồ ăn đường phố. Các tỉnh này cũng là nơi sản xuất bán mì đen cứng, bánh ngọt, bánh quy, trong đó bánh quy có vị mạnh với gừng hoặc quả giầm nước đường hoặc gồm một ít thịt. Các đặc điểm đáng chú ý của Fries roggebrood (bánh mì đen Frisia) là thời gian nướng lâu (đến 20 tiếng), kết quả là vị ngọt và màu đen thẫm. Về đồ uống có cồn, khu vực này nổi tiếng với nhiều loại rượu bia đắng (như Beerenburg) và các loại rượu chưng chất có nồng độ cao hơn bia.
Các tỉnh Noord-Holland, Zuid-Holland, Zeeland, Utrecht và khu vực Betuwe của Gelderland thuộc khu vực ẩm thực miền tây Hà Lan. Do phong phú về nước và đất đồng cỏ, nên khu vực nổi tiếng với các sản phẩm bơ sữa trong đó có các loại pho mát như Gouda, Leyden, Edam, trong khi Zaanstreek tại Noord-Holland nổi tiếng với mayonnaise từ thế kỷ XVI, các loại mù tạc nguyên hạt đặc trưng và sô-cô-la. Zeeland và Zuid-Holland sản xuất nhiều bơ, có lượng chất béo lớn hơn so với hầu hết các loại bơ khác tại châu Âu. Một sản phẩm phụ của quá trình làm bơ là karnemelk (sữa bơ), nó cũng được xem là đặc trưng cho khu vực này. Các món từ biển như cá trích dầm muối, trai, cá chình, hàu và tôm hiện diện phổ biến và đặc trưng cho khu vực. Kibbeling là một món ăn tinh tế của địa phương, gồm các miếng nhỏ cá thịt trắng, song nay trở thành một loại đồ ăn nhanh quốc gia. Các loại bánh ngọt trong khu vực này có xu hướng khá mềm nhão, và thường có lượng đường cao, oliebol và Zeeuwse bolus là những điển hình. Các loại bánh quy cũng được sản xuất với số lượng lớn và có xu hướng chứa nhiều bơ và đường như stroopwafel, hoặc được nhồi quả hạnh như gevulde koek. Các loại đồ uống có cồn truyền thống của khu vực này là bia và Jenever, một loại rượu mạnh hương bách xù. Advocaat là một ngoại lệ so với truyền thống Hà Lan, loại rượu này làm từ trứng, đường và brandy.
Ẩm thực miền nam Hà Lan gồm tỉnh Noord-Brabant và tỉnh Limburg, tương đồng với vùng Vlaanderen tại Bỉ. Khu vực này nổi tiếng do phong phú về các loại bánh ngọt, súp, các món hầm và rau. Đây là khu vực ẩm thực duy nhất tại Hà Lan phát triển ẩm thực cao cấp. Các loại bánh ngọt thường được làm với nhiều kem sữa trứng và quả. Các loại bánh như Vlaai từ Limburg và Moorkop cùng Bossche Bol từ Brabant là các loại bánh ngọt đặc trưng. Ngoài ra, còn có các loại bánh ngọt mặn, trong đó worstenbroodje là phổ biến nhất. Đồ uống có cồn truyền thống của khu vực này là bía. Có nhiều thương hiệu địa phương, như Trappist và Kriek. 5 trong số 10 nhà máy bia được Hiệp hội Luyện tâm Quốc tế công nhân là nằm tại khu vực văn hoá miền nam Hà Lan. Bia trong ẩm thực khu vực còn được dùng để nấu ăn, thường là trong các món hầm, giống như rượu vang trong ẩm thực Pháp.
Di sản thuộc địa
Từ hoạt động khai thác của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong thế kỷ XVII, cho đến hoạt động thuộc địa hoá trong thế kỷ XIX, các thuộc địa của Đế quốc Hà Lan liên tục được mở rộng, đạt đến mức độ cực đại khi thiết lập quyền bá chủ đối với Đông Ấn Hà Lan vào đầu thế kỷ XX. Đông Ấn Hà Lan, nay là Indonesia, là một trong các thuộc địa có giá trị nhất của thực dân châu Âu trên thế giới, và là thuộc địa quan trọng nhất đối với Hà Lan. Trên 350 năm di sản tác động tương hỗ đã để lại dấu ấn văn hoá quan trọng tại Hà Lan.
Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVII, Hà Lan tiến hành đô thị hoá ở mức độ đáng kể, hầu hết được lấy từ tiền thu nhập doanh nghiệp bắt nguồn từ độc quyền mậu dịch tại châu Á. Vị thế xã hội dựa trên thu nhập của thương nhân, làm suy yếu chế độ phong kiến và thay đổi đáng kể động lực của xã hội Hà Lan. Khi Hoàng gia Hà Lan được thành lập vào năm 1815, hầu hết của cải của họ đến từ mậu dịch thuộc địa.
Các đại học như Đại học Leiden thành lập vào thế kỷ XVI được phát triển thành các trung tâm kiến thức dẫn đầu về nghiên cứu Đông Nam Á và Indonesia. Đại học Leiden sản sinh các viện sĩ hàn lâm hàng đầu như Christiaan Snouck Hurgronje, và vẫn có các viện sĩ hàn lâm chuyên về ngôn ngữ và văn hoá Indonesia. Đại học Leiden và đặc biệt là KITLV là các thể chế giáo dục và khoa học cho đến nay chia sẻ cả quan tâm tri thức và lịch sử trong nghiên cứu Indonesia. Các viện khoa học khác tại Hà Lan gồm có Tropenmuseum Amsterdam, một bảo tàng nhân loại học với các bộ sưu tập đồ sộ về nghệ thuật, văn hoá, dân tộc học và nhân loại học Indonesia.
Truyền thống của Lục quân Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan (KNIL) nay được duy trì bởi Trung đoàn Van Heutsz của Lục quân Hoàng gia Hà Lan. Một Bảo tàng Bronbeek chuyên biệt tồn tại ở Arnhem cho đến nay, đây vốn là nơi ở cũ của các binh sĩ KNIL xuất ngũ.
Một phân đoạn riêng biệt của văn học Hà Lan mang tên văn học Đông Ấn Hà Lan vẫn tồn tại và có các tác giả thành danh như Louis Couperus với "De Stille Kracht", lấy thời thuộc địa là một nguồn cảm hứng quan trọng. Một trong số các kiệt tác vĩ đại nhất của văn học Hà Lan là sách "Max Havelaar", do Multatuli viết vào năm 1860.
Đa số người Hà Lan hồi hương sau và trong Cách mạng Indonesia là người Indo (lai Á-Âu). Nhóm cư dân lai Á-Âu tương đối lớn này phát triển trong suốt 400 năm và được phân loại là thuộc cộng đồng tư pháp châu Âu theo pháp luật thuộc địa. Trong tiếng Hà Lan họ được gọi là Indische Nederlanders hay là Indo (rút ngắn của Indo-Âu). Nếu tính cả thế hệ thứ nhì, người Indo hiện là nhóm nhập cư lớn nhất tại Hà Lan. Năm 2008, Cục Thống kê Trung ương Hà Lan (CBS) đã đăng ký 387.000 người Indo thế hệ thứ nhất và thứ hai sống tại Hà Lan. Mặc dù được nhận định là hoàn toàn đồng hoá vào xã hội Hà Lan, có tư cách dân tộc thiểu số lớn tại Hà Lan, những người hồi hương này giữ một vai trò chủ chốt trong việc đưa các yếu tố văn hoá Indonesia vào văn hoá chủ lưu của Hà Lan.
Trong thực tế mọi đô thị tại Hà Lan đều có một "Toko" (cửa hàng người Hà Lan gốc Indonesia) hoặc cửa hàng Indonesia gốc Hoa và nhiều hội chợ 'Pasar Malam' (chợ đêm trong tiếng Indonesia) được tổ chức suốt năm. Nhiều món ăn và thực phẩm Indonesia trở nên phổ biến tại Hà Lan. Rijsttafel là một khái niệm nấu ăn thuộc địa, và các món như Nasi goreng và satay rất phổ biến tại Hà Lan.
Ghi chú
Tham khảo
Đọc thêm
Burke, Gerald L. The making of Dutch towns: A study in urban development from the 10th–17th centuries (1960)
Lambert, Audrey M. The Making of the Dutch Landscape: An Historical Geography of the Netherlands (1985); focus on the history of land reclamation
Meijer, Henk. Compact geography of the Netherlands (1985)
Riley, R. C., and G. J. Ashworth. Benelux: An Economic Geography of Belgium, the Netherlands, and Luxembourg (1975) online
Paul Arblaster. A History of the Low Countries. Palgrave Essential Histories Series New York: Palgrave Macmillan, 2006. 298 pp. .
J. C. H. Blom and E. Lamberts, eds. History of the Low Countries (1998)
Jonathan Israel. The Dutch Republic: Its Rise, Greatness, and Fall 1477–1806 (1995)
J. A. Kossmann-Putto and E. H. Kossmann. The Low Countries: History of the Northern and Southern Netherlands (1987)
Liên kết ngoài
Hà Lan từ từ UCB Libraries GovPubs
I am Expat – Thông tin tổng quát về Hà Lan
Netherlands: Map, History, Government, Culture & Facts | Infoplease.com
Hồ sơ Hà Lan từ BBC News
Dự báo phát triển chủ chốt về Hà Lan từ International Futures
Overheid.nl – Cổng thông tin chính thức của chính phủ Hà Lan
Government.nl – Trang thông tin chính thức của chính phủ Hà Lan
Statistics Netherlands (CBS) – Số liệu quan trọng từ cục thống kê Hà Lan
Holland.com – Trang thông tin của văn phòng du lịch Hà Lan
nbtc.nl – Tổ chức chịu trách nhiệm xúc tiến Hà Lan tại trong và ngoài nước
Benelux
Quốc gia thành viên NATO
Quốc gia và vùng lãnh thổ German
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Hà Lan
Vương quốc Hà Lan
Quốc gia châu Âu
Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu
Quốc gia thành viên Liên minh Địa Trung Hải
Quốc gia Tây Âu
Quốc gia thành viên Liên minh tiếng Hà Lan |
763380 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Craugastor%20psephosypharus | Craugastor psephosypharus | Craugastor psephosypharus là một loài ếch trong họ Leptodactylidae.
Nó được tìm thấy ở Belize, Guatemala, và có thể Honduras.
Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng nhiều đá, và hang. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.
Nguồn
Lee, J., Walker, P. & Acevedo, M. 2004. Craugastor psephosypharus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007.
Chú thích
Tham khảo
Craugastor |
521506 | https://vi.wikipedia.org/wiki/GeoCities | GeoCities | Yahoo!GeoCities là nhà cung cấp Dịch vụ lưu trữ website, hiện tại chỉ hoạt động tại thị trường Nhật Bản.
GeoCities được thành lập vào cuối năm 1994 bởi David Bohnett và John Rezner dưới tên gọi là Beverly Hills Internet (BHI). Trong những ngày đầu, người dùng của GeoCities sẽ tạo ra các trang web và đặt chúng tại một "thành phố" (city). Dựa trên nội dung các website, các thành phố này được đặt tên theo những thành phố có thật ngoài đời. Ví dụ: các website liên quan đến Công nghệ thông tin sẽ được đặt tại "thành phố" SiliconValley còn các website với mục đích giải trí sẽ được đặt tại "thành phố" Hollywood.
Vào tháng 1 năm 1999, khi Bong bóng Dot-com gần đạt đỉnh, công ty Yahoo! đã mua lại GeoCities với giá $ 3.57 tỷ bằng cổ phiếu.
Mười năm sau đó, Yahoo! đã chính thức khai tử và đóng cửa GeoCities vào ngày 26 tháng 10 năm 2009. Tuy nhiên hiện tại website dịch vụ này tại thị trường Nhật Bản vẫn hoạt động. Khi đóng cửa GeoCities đã lưu trữ ít nhất 38 triệu trang web do người dùng tạo ra.
Tham khảo
Dịch vụ lưu trữ website
Yahoo!
Cộng đồng ảo
Web 1.0 |
282010 | https://vi.wikipedia.org/wiki/BOD | BOD | BOD có thể là:
BOD (Best Oil Designer), Một thương hiệu dầu nhớt cao cấp từ Đài Loan
BOD (thuốc), Một loại thuốc an thần
Bod (chương trình truyền hình) - Bod: Một chương trình truyền hình
Bod, Braşov, Một xã ở România
BCL2L11, Một loại gene người
Nhu cầu oxy hóa sinh học - Biochemical Oxygen Demand, ký hiệu BOD, Một loại chỉ số hóa học
Board of directors, Ban giám đốc, ban quản trị
Bodleian Library, Thư viện của Đại học Oxford
Sân bay Bordeaux - Mérignac,Một sân bay của Pháp
Brian O'Driscoll, Vận động viên bóng bầu dục người Ailen
Brothers of Destruction, Một nhóm đấu vật
Tây Tạng () Lãnh thổ và là một quốc gia độc lập ở Trung Á và là nơi cư trú của người Tây Tạng. |
502896 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Laika | Laika | Laika (Tiếng Nga: Лайка) là một chú chó (?/?/1954 - 3/11/1957). Laika thuộc giống cái, là sinh vật đầu tiên được đưa lên quỹ đạo quanh Trái Đất, động vật đầu tiên hy sinh trên quỹ đạo. Thời điểm con tàu chở Laika vào quỹ đạo, khi đó các nhà khoa học còn rất mơ hồ về tác động của chuyến bay ngoài không gian tới sinh vật sống. Một số nhà khoa học tin rằng con người có thể sống sót và chịu đựng được các điều kiện ngoài không gian. Vì vậy, một vài kĩ sư đã xem việc sử dụng động vật cho chuyến bay thử nghiệm trước khi thực hiện sứ mệnh bay của loài người là cần thiết. Hoa Kỳ sử dụng tinh tinh cho chuyến bay thử nghiệm trong khi Xô Viết quyết định sử dụng chó. Laika, tên gốc tiếng Nga là Kudryavka, đã trải qua khoá huấn luyện với hai chú chó khác và đã được chọn đưa lên tàu Sputnik 2 và bay lên quỹ đạo vào ngày 3 tháng 11 năm 1957. Con tàu Sputnik 2 đã không được thiết kế cơ cấu chống cháy và hạ cánh để thu hồi về Trái Đất, vì thế Laika đã được dự định trước sẽ chết trên chuyến bay.
Laika qua đời vài giờ sau khi tàu vũ trụ rời bệ phóng, cái chết được dự đoán là do tình trạng căng thẳng và nhiệt độ tăng cao, nguyên nhân được cho là lỗi chức năng của hệ thống kiểm soát nhiệt. Nguyên nhân thật sự và thời gian cái chết của Laika đã không được công bố cho đến năm 2002. Thay vào đó, Laika được đưa tin rằng bị thiếu hụt oxy, hoặc lại có tin (theo như Liên Xô khẳng định ban đầu) rằng nó đã sống được 1 tuần và chết nhẹ nhàng trong vũ trụ. Tuy nhiên, thử nghiệm này đã chứng minh là con người có thể tồn tại được trên quỹ đạo và chịu đựng được tình trạng không trọng lượng. Nó đã mở đường cho những chuyến bay của con người vào không gian và cung cấp cho các nhà khoa học một số dữ liệu ban đầu về cách thức sinh vật sống phản ứng với môi trường vũ trụ. Ngày 11 tháng 4 năm 2008, các quan chức Nga đã chính thức công bố tượng đài của Laika. Một tượng đài nhỏ vinh danh Laika đã được xây dựng gần khu nghiên cứu quân sự tại Moskva, nơi đã chuẩn bị cho chuyến bay của Laika. Tượng đài mô tả Laika trên một bệ tượng mô phỏng hình tên lửa.
Sputnik 2
Sau thành công của Sputnik 1, lãnh đạo Liên bang Xô viết thời bấy giờ là Nikita Sergeyevich Khrushchyov đã có ý định cần phải phóng thêm tàu Sputnik khác vào ngày 7 tháng 11 năm 1957 để kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười. Một vệ tinh phức tạp được xây dựng, nhưng nó sẽ chưa được sẵn sàng cho đến tháng 12 năm 1957, vệ tinh này sau trở thành Sputnik 3.
Mô hình vệ tinh nhân tạo Sputnik 2, phía trên là máy phát tín và các thiết bị phục vụ sự sống, phía dưới là buồng kháng áp dành cho Laika
Để đáp ứng được yêu cầu trong lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười vào tháng 11 này, 1 tàu vũ trụ mới được cấp thiết xây dựng. Nikita Sergeyevich Khrushchyov đặc biệt muốn các kỹ sư của mình phải đưa ra một "không gian tuyệt diệu", một nhiệm vụ có thể lặp lại được chiến thắng của Sputnik I. Các nhà hoạch định đã bắt tay vào kế hoạch cho một chuyến bay vào quỹ đạo của một con chó. Kỹ sư tên lửa của Liên bang Xô viết đã có dự định chuẩn bị một chuyến bay quỹ đạo cho chó trước khi cho người này từ lâu; kể từ năm 1951, họ đã nuôi dưỡng và huấn luyện 12 con chó phục vụ cho các chuyến bay quỹ đạo đường đạn ngắn hạn vào không gian, quá trình huấn luyện này dần dần gần đạt được đến mục tiêu cho 1 chuyến bay vào quỹ đạo thực sự cho chó vào khoảng năm 1958. Để đáp ứng nhu cầu của Nikita Sergeyevich Khrushchyov, chuyến bay đưa những con chó đã huấn luyện vào quỹ đạo được chuẩn bị gấp rút để phóng vào tháng 11.
Theo các nguồn tin của Nga, quyết định chính thức về việc khởi động và phóng tàu Sputnik 2 được thiết lập vào ngày 10 hoặc 12 tháng 10, làm cho nhóm thiết kế của Sergei Korolev, người sáng lập chương trình không gian Xô viết, chỉ còn 4 tuần để thiết kế và xây dựng con tàu, một nhiệm vụ khó khăn và cấp bách. Vì vậy mà Sputnik 2 được xây dựng rất vội vàng, đa số các yếu tố của con tàu vũ trụ này được xây dựng dựa trên bản phác thảo thô. Bên cạnh nhiệm vụ chính đưa con người vào vũ trụ, Sputnik 2 cũng mang theo những trang thiết bị để đo bức xạ mặt Trời và bức xạ vũ trụ.
Tàu Sputnik 2 được trang bị một hệ thống hỗ trợ sự sống bao gồm một máy phát oxy và các thiết bị để tránh ngộ độc oxy và hấp thụ khí CO2. Một cái quạt được thiết kế để hoạt động bất cứ khi nào nhiệt độ trong cabin vượt quá 15oC (59oF, chiếc quạt này được thêm vào trong tàu để giữ nhiệt độ mát cho chó. Tàu cũng trang bị đủ thực phẩm (ở dạng sệt) để cung cấp cho một chuyến bay bảy ngày trong không gian, chó cũng được trang bị một túi chuyên dụng để đựng các chất rác, chất thải.
Trước đó, nhằm mục đích cho việc đưa người lên vũ trụ, các nhà khoa học Liên Xô đã nghiên cứu và sau nhiều lần cân nhắc, chó được xem là đối tượng thử nghiệm thích hợp nhất vì chúng có khả năng tồn tại tương tự như con người.
Và ngay lập tức một đội "phi hành gia" chó đã được bí mật thành lập. Theo thiết kế, Sputnik-2 có tổng trọng lượng 508,3 kg, khoang lái của tàu được gắn các cảm biến dùng để đo áp suất và nhiệt độ xung quanh, cũng như huyết áp, nhịp tim, nhịp thở của phi hành gia.
Việc Laika trở thành phi hành gia cũng thật ngẫu nhiên. Sau khi bị đội thu gom động vật hoang bắt giữ, không biết có phải do thấy Laika có những tố chất cần thiết của một "phi hành gia" hay không mà các nhà khoa học lựa chọn nó.
Và thế là Laika, 3 tuổi, nặng 16 kg bỗng nhiên trở thành một trong 3 "phi hành gia" bí mật của Liên Xô: Laika, Albina và Mushka.
Laika tên thật là Kudryavka (Little Curly). Nhưng do cái tên này hơi khó đọc, nên các nhà khoa học Liên Xô gọi là Laika (Barker), bởi ở Liên Xô, giống chó Eskimo thường được gọi chung là Laika.
Huấn luyện
Để trở thành phi hành gia thực thụ, Laika cùng với các "đồng nghiệp" khác đã phải trải qua những cuộc thử nghiệm và tập luyện gắt gao.
Nhằm quen dần với việc sống trong khoang lái chật hẹp của tàu Sputnik-2, các con chó này đã bị nhốt liên tục trong những chiếc lồng chật hẹp trong khoảng từ 15 - 20 ngày.
Chúng còn phải làm quen với việc mang quần áo đặc biệt cũng như tập dùng những loại thức ăn đóng hộp ở dạng lỏng.
Để quen với những rung động mạnh và tiếng gầm rú của động cơ phản lực, chúng phải thường xuyên luyện tập với máy ly tâm mô phỏng quá trình tăng tốc của tên lửa đẩy, cũng như thiết bị mô phỏng tình trạng không trọng lực. Sau mỗi lần luyện tập, nhịp tim của chúng đều tăng gấp đôi.
Kết thúc khóa huấn luyện,chó Albina được chuyển sang bộ phận thử nghiệm sức chịu đựng của cơ thể sống trong điều kiện gia tốc cực lớn khi tên lửa đẩy khởi hành; chó Mushka được chuyển sang làm ở bộ phận thử nghiệm các thiết bị cứu hộ và khoang đổ bộ của tàu vũ trụ.
Riêng Laika được sử dụng để nghiên cứu sức chịu đựng của cơ thể sống trong điều kiện không trọng lực. Và chính nhiệm vụ này đã giúp Laika trở thành sinh vật sống đầu tiên bay vào vũ trụ.
Chuyến bay cảm tử
Ngay trước thời điểm phóng tàu, Laika được tắm rửa sạch sẽ bằng dung dịch pha cồn, lông được chải chuốt cẩn thận, và thuốc iod được bôi vào những vị trí gắn các thiết bị cảm biến theo dõi chức năng cơ thể và được đưa vào khoang lái tàu Sputnik-2. Tất cả đã sẵn sàng.
Ngày 3/11/1957, tại sân bay vũ trụ Baikonur, Sputnik-2 được phóng lên quỹ đạo Trái Đất, mang theo Laika.
Theo các tín hiệu thu được từ các thiết bị cảm biến gắn trên thân thì trong quá trình phóng tàu, nhịp tim của Laika tăng cao gấp 3 lần bình thường. Sau khi tàu đạt đến trạng thái không trọng lực thì nhịp tim của Laika lại bắt đầu giảm mạnh.
Ngay ngày hôm đó, Đài Phát thanh Moskva cho phát đi thông tin rằng những tín hiệu từ Sputnik-2 cho thấy: hoạt động của các thiết bị khoa học vẫn diễn ra bình thường và Laika vẫn sống.
Sáu ngày sau đó, Trái Đất hoàn toàn mất liên lạc với tàu Sputnik-2. Các thông tin do Cơ quan Nghiên cứu Vũ trụ Liên Xô cung cấp vào thời điểm đó cho thấy Laika đã sống tới ngày thứ tư của chuyến du hành.
Không lâu sau khi Sputnik-2 được phóng đi, các nhà khoa học Liên Xô đã phải thừa nhận rằng do các thiết bị đổ bộ chưa kịp hoàn thiện nên tàu Sputnik-2 đã được xác định là sẽ thực hiện chuyến bay thử nghiệm cảm tử, một đi không trở lại.
Hơn nữa, lượng thức ăn và oxy chỉ đủ cho Laika dùng 10 ngày, trong khi sứ mệnh của Sputnik-2 sẽ kéo dài tới tháng 4/1958.
Điều đó có nghĩa là số phận của Laika đã được định đoạt ngay từ đầu, nó sẽ chết và bị thiêu cháy cùng với con tàu khi quay trở lại bầu khí quyển Trái Đất.
Sau 163 ngày bay liên tục 2.570 vòng quanh quỹ đạo Trái Đất ở điểm gần nhất là 225 km và xa nhất là 1.671 km với vận tốc 28.968 km/h, ngày 14/4/1958, Sputnik-2 mang theo xác Laika đã rực cháy trên đường trở về Trái Đất, kết thúc xuất sắc sứ mạng tiên phong của mình.
Những sự kiện xung quanh chuyến bay của Laika
Phải tới cuối tháng 10 năm 2002, tức đúng 45 năm sau ngày Laika được phóng vào vũ trụ, tại Hội nghị Không gian vũ trụ Thế giới được tổ chức tại Mỹ, sự thật về cái chết của Laika mới được tiết lộ.
Báo cáo của Tiến sĩ Dimitri Malashenkov thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề sinh học ở Moskva đã giúp chấm dứt những suy đoán kéo dài hàng thập kỷ về cái chết của Laika.
Theo đó, những cảm biến gắn trên người Laika ghi nhận rằng ngay sau khi khoang lái đạt vận tốc gần 28.968 km/giờ, nhịp tim của Laika đã tăng gấp 3 lần bình thường do nóng, sợ hãi và căng thẳng.
Sau từ 5 - 7 giờ trên quỹ đạo (tức là sau khoảng 4 vòng bay quanh Trái Đất), trạm kiểm soát mặt đất không nhận được thêm bất cứ một tín hiệu sống nào của Laika.
Về nguyên nhân gây ra cái chết của Laika, các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề sinh học đều nhất trí rằng Laika đã chết do hoảng sợ quá độ khi Sputnik 2 ở vào tình trạng không trọng lực, và trục trặc của hệ thống điều hoà đã khiến nhiệt độ khoang lái tăng cao quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể sống.
Tuyên bố về việc vệ tinh nhân tạo Sputnik 2 sẽ cháy trong khí quyển khi thế năng bay không còn đã gây sửng sốt cho không ít người và làm dấy lên làn sóng phản đối hành vi ngược đãi động vật. Hiệp hội Bảo vệ Chó Quốc gia của Anh kêu gọi những người nuôi chó hãy dành một phút mặc niệm Laika. Trong khi đó thì NASA cũng tiến hành thử nghiệm cả chuột, sóc, khỉ và tinh tinh trên các chuyến bay của họ và một số con đã chết thì không một ai ngỏ lời phản đối.
Cái chết của Laika đã mở đường cho sự sống trên vũ trụ của "cặp vợ chồng" chó Belka và Strelka. Chó đực Strelka và chó cái Belka được Cơ quan hàng không vũ trụ Liên Xô phóng lên không gian ngày 19 tháng 8 năm 1959 bởi tên lửa đẩy R-7 mang vệ tinh Sputnik-5. Ngày 20 tháng 8, Sputnik-5 hạ cánh nhẹ nhàng bằng dù trên thảo nguyên gần Baikonur (Kazakhstan). Cả Strelka và Belka đều khỏe mạnh và an toàn. Vài tháng sau đó, "cặp uyên ương" vũ trụ đầu tiên này đã sinh được sáu con chó con (2 đực, bốn cái) khỏe mạnh. Lãnh tụ Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov đã chọn một con đẹp nhất gửi tặng Caroline Kennedy, con gái của Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy.
Vinh danh
Mặc dù không có cơ hội sống sót trở về, nhưng sự hy sinh của Laika không hề uổng phí bởi nó đã giúp chứng tỏ một điều: sinh vật sống có thể tồn tại trong tình trạng không trọng lực ngoài không gian.
Chuyến bay của Laika đã mở đường cho việc chuẩn bị phóng tàu có người lái không lâu sau đó, cũng như đem lại cho các nhà khoa học những số liệu đầu tiên về việc các sinh vật sống phản ứng như thế nào trong môi trường vũ trụ.
Rút kinh nghiệm từ Sputnik-2, ngày 12/4/1961, Liên Xô phóng thành công tàu Vostok-1 (Phương Đông 1) đưa Yuri Gagarin - phi công vũ trụ đầu tiên của loài người lên quỹ đạo.
Để tưởng nhớ Laika, nhiều nước đã phát hành những bộ tem kỷ niệm và bưu thiếp có hình con vật đáng yêu này. Các hãng sản xuất sô-cô-la, thuốc lá... cũng lấy tên là Laika. Các ban nhạc lấy cảm hứng từ Laika cũng lần lượt ra đời: Laika, Laika Dog, Laika and the Cosmonauts... Trong suốt nửa thế kỷ qua, Laika trở thành đề tài của rất nhiều tiểu thuyết, phim truyện, bài hát...
Ngày 11 tháng 4 năm 2008, đúng 50 năm sau ngày xác Laika được hỏa thiêu trong khí quyển Trái Đất, tại Viện Quân y bên đại lộ Petrovsko - Razumovsky ở Moskva, nơi Laika đã luyện tập để chuẩn bị thử nghiệm trong không gian, người Nga đã dựng một tượng đài tưởng niệm Laika do nhà điêu khắc Pavel Medvedev thiết kế. Bệ tượng đài mô phỏng một tên lửa vũ trụ, phần trên của các động cơ mô phỏng bàn tay con người. Tượng Laika đứng trên đó, trong lòng bàn tay của con người.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
SP-2000-4408. Phần 1 (tr. 1-500), Phần 2 (tr. 501-1011).
Angliss, Sarah and Uttley, Colin. Science in the Dock: The man who trained the space dogs. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2005.
Anon. An Internet memorial to Laika . Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2004.
Dubbs, Chris and Burgess, Colin. Animals In Space: From Research Rockets to the Space Shuttle, 2007.
Grahn, Sven. Sputnik-2, more news from distant history. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2004.
Mars Exploration Rover Mission: Opportunity arrives at "Vostok" . Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2005.
NSSDC Master Catalog: Sputnik 2 (2003-11-26). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2004.
On This Day, November 3 - 1957: Russians launch dog into space. BBC News. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2004.
Soviet Fires New Satellite, Carrying Dog; Half-Ton Sphere Is Reported 900 Miles Up (3 tháng 11 năm 1957). New York Times.
Whitehouse, David (28 tháng 10 năm 2002). First dog in space died within hours, BBC News Online.
Zak, Anatoly (3 tháng 11 năm 1999). The True Story of Laika the Dog. space.com.
Liên kết ngoài
Lịch sử Sputnik Missions
Sputnik 2 tại Astronautix
Những con chó nổi tiếng
Động vật trong không gian
Thám hiểm không gian
Quyền động vật
Thử nghiệm động vật
Ban nhạc Phần Lan
Sputnik |
687289 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bulbophyllum%20pachytelos | Bulbophyllum pachytelos | Bulbophyllum pachytelos là một loài phong lan thuộc chi Bulbophyllum.
Chú thích
Tham khảo
The Bulbophyllum-Checklist
The internet Orchid species Photo Encyclopedia
pachytelos]]
P |
521624 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Poursiugues-Boucoue | Poursiugues-Boucoue | Poursiugues-Boucoue là một xã thuộc tỉnh Pyrénées-Atlantiques trong vùng Nouvelle-Aquitaine miền tây nam nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Pyrénées-Atlantiques
Tham khảo
INSEE
Xã của Pyrénées-Atlantiques |
241397 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Anhembi | Anhembi | Anhembi là một đô thị ở bang São Paulo, Brasil. Anhembi có dân số (năm 2007) là 5271 người, diện tích là 736,463 km², mật độ dân số 7,2 người/km². Anhembi nằm ở độ cao 472 m, cách thủ phủ bang São Paulo 240 km. Đô thị này nằm ở khu vực khí hậu cận nhiệt đới. Theo điều tra năm 2000, Anhembi có:
Tổng dân số 4535 người, trong đó, dân số thành thị: 3265, nông thôn: 1270 người.
Nam giới: 2335, nữ giới: 2200 người.
Mật độ dân số 6,16 người/km².
Tuổi thọ: 71,67 năm.
Tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi tử vong (trên 1 triệu): 15,03
Tỷ lệ biết đọc biết viết: 89,53% dân số.
Chỉ số phát triển con người: 0,768
Tỷ lệ sinh (trẻ/bà mẹ): 2,61
Đô thị này giáp các đô thị: Botucatu, Conchas, Piracicaba, Bofete, São Pedro và Santa Maria da Serra
Tham khảo
Đô thị bang São Paulo |
546353 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Block%20Island%20%28CVE-21%29 | USS Block Island (CVE-21) | USS Block Island (CVE-21) (nguyên mang ký hiệu AVG-21, sau đó được đổi thành ACV-21 và CVE-21), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp Bogue của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên trong số hai chiếc của Hải quân Mỹ được đặt tên theo eo biển Block Island ngoài khơi Rhode Island. Block Island hoạt động chủ yếu trong vai trò chống tàu ngầm tại Mặt trận Đại Tây Dương, trước khi bị tàu ngầm Đức U-549 đánh chìm vào ngày 29 tháng 5 năm 1944.
Thiết kế và chế tạo
Block Island được đặt lườn vào ngày 19 tháng 1 năm 1942 như là một tàu vận tải C3-S-A1 theo hợp đồng của Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ với hãng Seattle-Tacoma Shipbuilding tại Tacoma, Washington, và được chuyển cho Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 5 năm 1942. Block Island được hạ thủy vào ngày 6 tháng 6 năm 1942; được đỡ đầu bởi Bà H. B. Hutchinson, phu nhân của Trung tá Hải quân Hutchinson. Nó được xếp lại lớp thành ACV-21 vào ngày 20 tháng 8 năm 1942; và được đưa ra hoạt động vào ngày 8 tháng 3 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Logan C. Ramsey. Nó được xếp lại lớp thành CVE-21 vào ngày 15 tháng 7 năm 1943
Lịch sử hoạt động
Rời San Diego, California vào tháng 5 năm 1943, Block Island hướng sang Norfolk, Virginia để gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ. Sau hai chuyến đi từ thành phố New York đến Belfast ở Bắc Ireland, Anh Quốc vào mùa Hè năm 1943 để vận chuyển máy bay tiêm kích cho Lục quân Mỹ, nó bắt đầu hoạt động trong thành phần các đội tìm và diệt tàu ngầm.
Trong bốn chuyến tuần tra chống tàu ngầm, máy bay của Block Island đã đánh chìm hai tàu ngầm Đức: chiếc U-220 tại tọa độ vào ngày 28 tháng 10 năm 1943, và chiếc U-1059 tại tọa độ vào ngày 19 tháng 3 năm 1944. Nó cũng hỗ trợ cho tàu khu trục Corry và tàu khu trục hộ tống Bronstein để đánh chìm tàu ngầm U-801 tại tọa độ vào ngày 17 tháng 3 năm 1944, và với tàu khu trục hộ tống Buckley đánh chìm U-66 vào ngày 6 tháng 5 năm 1944 tại tọa độ . Thomas, Bostwick, Borie và Bronstein đã đánh chìm U-709 vào ngày 1 tháng 3 năm 1943; và cùng ngày hôm đó Bronstein đã tiêu diệt được U-603.
Bị mất
Block Island bị trúng ngư lôi ngoài khơi quần đảo Canary và bị chìm lúc 20 giờ 13 phút ngày 29 tháng 5 năm 1944. Tàu ngầm Đức U-549 đã lọt qua hàng rào hộ tống của nó mà không bị phát hiện, và đã phóng ba ngư lôi nhắm vào chiếc tàu sân bay hộ tống, trước khi bản thân nó bị các tàu khu trục hộ tống Eugene E. Elmore và Ahrens đánh chìm ở tọa độ .
Phần thưởng
Block Island được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến đấu do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Tham khảo
Bài này có các trích dẫn từ nguồn :en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng
Lớp tàu sân bay hộ tống Bogue
Tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu sân bay hộ tống trong Thế Chiến II
Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại Đại Tây Dương
Sự cố hàng hải năm 1944 |
402337 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Altd%C3%B6bern | Altdöbern | Altdöbern là một đô thị thuộc huyện Oberspreewald-Lausitz, bang Brandenburg, Đức.
Tham khảo |
131442 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Pacy-sur-Eure | Pacy-sur-Eure | Pacy-sur-Eure là một xã trong vùng hành chính Normandie, thuộc tỉnh Eure, quận Évreux, tổng Pacy-sur-Eure. Tọa độ địa lý của xã là 49° 01' vĩ độ bắc, 01° 22' kinh độ đông. Pacy-sur-Eure nằm trên độ cao trung bình là 53 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 38 mét và điểm cao nhất là 141 mét. Xã có diện tích 13,53 km², dân số vào thời điểm 1999 là 4751 người; mật độ dân số là 351 người/km².
Thông tin nhân khẩu
Tham khảo
Xã của Eure |
956339 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gonomyia%20maya | Gonomyia maya | Gonomyia maya là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Gonomyia
Limoniidae ở vùng Neotropic |
703887 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Vexillum%20scitulum | Vexillum scitulum | Vexillum (Costellaria) scitulum là một loài ốc biển nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Costellariidae.
Miêu tả
Loài này có kích thước giữa 10 mm and 36 mm
Phân bố
Chúng phân bố ở Vịnh Ba Tư, in the Ấn Độ Dương dọc theo Madagascar, Mozambique và in Biển Trung Quốc.
Chú thích
Tham khảo
Odhner, N.H.J. (1919). Contribution a la faune malacologique de Madagasar. Arkiv For Zoologi, K. Svenska Vetenskapsakademien 12(6). 52 pp, 4 pl
Turner H. 2001. Katalog der Familie Costellariidae Macdonald, 1860. Conchbooks. 1-100 page(s): 58
Liên kết ngoài
Gastropods.com: Vexillum (Costellaria) scitulum; accessed: 14 tháng 12 năm 2010
Vexillum |
308635 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bagnoles | Bagnoles | Bagnoles là một xã của Pháp, nằm ở tỉnh Aude trong vùng Occitanie.
Người dân địa phương trong tiếng Pháp gọi là Bagnolois.
Xã này thuộc vùng đô thị Carcassonne, Minervois tại Cabardès bên Clamoux
Hành chính
Thông tin nhân khẩu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bagnoles trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia
Bagnoles trên trang mạng của Insee
Bagnoles |
580717 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sony%20Ericsson%20W995 | Sony Ericsson W995 | Chiếc điện thoại dáng trượt Sony Ericsson W995 được thiết kế bởi Sony Ericsson là đầu tàu trong dòng Walkman, còn được biết đến với tên mã Hikaru. W995 được ra mắt vào ngày 4 tháng 6 năm 2009 và sử dụng phiên bản 'Walkman Player' thứ 4. Đây cũng là chiếc điện thoại Walkman đầu tiên được trang bị jack cắm chuẩn 3.5 mm. Chiếc điện thoại còn sở hữu camera 8.1MP như Sony Ericsson C905, là camera tốt nhất trong số các điện thoại dòng Walkman.
W995 có mặt trên thị trường với 3 màu: Progressive Black, Cosmic Silver và Energetic Red. Ngoài ra nó còn đi kèm thẻ nhớ ngoài 8GB.
Vào ngày 21 tháng 8, 2009, W995 đã thắng giải Điện thoại nghe nhạc hay nhất EISA (EISA Best Music Phone Award).
Chức năng
jack 3.5mm
Pin
Giờ thoại - 9 giờ
Nghe nhạc - 20 giờ
Xem Video - 5 giờ
Điều khiển rung (Ổn định hình ảnh)
Camera 8.1MP Camera với autofocus, đèn LED, nhận dạng khuôn mặt, nhận dạng nụ cười và các chức năng hình ảnh tốt nhất
Bluetooth 2.0 với A2DP
Stereo Speakers
TrackID
SensMe
Walkman Player 4.0
MMS
SMS
Hiển thị hình ảnh - 240 x 320 pixels (2.6 in.)
Truy cập Internet
WAP
3G / HSPA
GPS với chức năng a-GPS
Wi-Fi
Bộ giao thức SIP
Quad band
đài FM
Biên tập Hình Ảnh/Video
Tương thích BBC iPlayer và YouTube.
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của W995
Tính năng và thông số kỹ thuật
Tham khảo
W995 |
566572 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Phyllonorycter%20melanosparta | Phyllonorycter melanosparta | Phyllonorycter melanosparta là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy ở Nam Phi và Zimbabwe.
Ấu trùng ăn Desmodium repandum, Flemingia grahamiana, Rhynchosia caribaea và Vigna species. Chúng ăn lá nơi chúng làm tổ.
Chú thích
Phyllonorycter |
845353 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Roly-Poly%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29 | Roly-Poly (bài hát) | Roly-Poly là một bài hát dance-pop của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ara. Bài hát này là bài hát chủ đề chính của mini album thứ hai của nhóm mang tên John Travolta Wannabe (2011). Bài hát được sáng tác và sản xuất bởi Shinsadong Tiger và Choi Gyu-Sung, những người đã sáng tác bài hát bản hit "Bo Peep Bo Peep" trước đây của nhóm. "Roly-Poly" đã giành được vị trí #1 trên chương trình Mnet M!Countdown và SBS Inkigayo và vị trí #2 (5 tuần) trên Music Bank. Đây được xem như là bản hit lớn nhất của nhóm khi đạt kỷ lục hơn 2 triệu lượt doanh số bán hàng và hơn 4,6 triệu lượt tải về, trở thành bài hát được tải nhiều nhất trong năm 2011, theo các số liệu thống kê của Gaon. Phiên bản khác của bài hát có tiêu đề "Roly-Poly in Copacabana" được phát hành vào ngày 02 tháng 8 và cũng được nhóm quảng bá trong một thời gian.
Roly-Poly cũng được làm thành một vở nhạc kịch với sự tham gia của các thành viên nhóm T-ara như Hyomin, Jiyeon, Soyeon và Kang Min-Kyung của Davichi, Jang Hye-jin, Park Hye-mim và Lee Jang-Woo. Bài hát sẽ được tái phát hành bằng tiếng Nhật vào ngày 29 tháng 2 năm 2012 như là đĩa đơn thứ ba của nhóm tại thị trường Nhật Bản.
Danh sách track và định dạng
Tham khảo
Đĩa đơn năm 2011
Đĩa đơn năm 2012
Bài hát của T-ara
Bài hát năm 2011
Bài hát tiếng Nhật
Bài hát tiếng Triều Tiên |
906995 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Horistonotus%20fidelis | Horistonotus fidelis | Horistonotus fidelis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fall miêu tả khoa học năm 1934.
Chú thích
Tham khảo
Horistonotus |
242904 | https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20bay%20Dushanbe | Sân bay Dushanbe | Sân bay Dushanbe là một sân bay ở Dushanbe, thủ đô của Tajikistan. Hiện sân bay đang được nâng cấp để nâng cấp nhà ga được xây lần đầu năm 1964..
Airlines and destinations
Ariana Afghan Airlines (Kabul)
Avia Traffic Company (Bishkek)
China Southern Airlines (Ürümqi)
Domodedovo Airlines (Moscow-Domodedovo)
East Air
Kam Air (Kabul)
KrasAir (Krasnoyarsk)
Kyrgyzstan (Bishkek)
Kyrgyzstan Airlines (Bishkek)
Orenburg Airlines (Orenburg)
Rossiya (Saint Petersburg)
S7 Airlines (Chelyabinsk, Novosibirsk, Perm)
Samara Airlines (Samara)
Scat Air (Almaty)
Somon Air (Almaty, Dubai, Istanbul-Atatürk, Moscow-Domodedovo, Ürümqi)
Tajik Air (Almaty, Bishkek, Istanbul-Atatürk, Karachi, Moscow-Domodedovo, Novosibirsk, Samara, Tehran-Imam Khomeini, Yekaterinburg, Khodzhand, Kulyab, Kurgan Tyube, Khorog, Garm)
Tatarstan Airlines (Kazan)
Turkish Airlines (Istanbul-Atatürk)
Liên kết ngoài
Các điểm đến Dushanbe
Tham khảo
Sân bay Tajikistan
Dushanbe
Sân bay xây dưới thời Liên Xô |
267243 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Briga%20Novarese | Briga Novarese | Briga Novarese là một đô thị ở tỉnh Novara ở vùng Piedmont của Ý, tọa lạc cách 90 km về phía đông bắc của Torino và khoảng 35 km về phía tây bắc của Novara. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 2.759 người và diện tích là 4,7 km².
Briga Novarese giáp các đô thị: Borgomanero, Gozzano, và Invorio.
Biến động dân số
Tham khảo
Liên kết ngoài
www.comune.briga-novarese.no.it/
Đô thị tỉnh Novara
Thành phố và thị trấn ở Piemonte |