id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
618
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
553775 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Begonia%20pelargoniiflora | Begonia pelargoniiflora | Begonia pelargoniiflora là một loài thực vật thuộc họ Begoniaceae. Loài này có ở Cameroon và Guinea Xích Đạo. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.
Chú thích
Tham khảo
Cheek, M. 2004. Begonia pelargoniiflora. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng 8 năm 2007.
P |
886890 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Colletes%20mourei | Colletes mourei | Colletes mourei là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Kuhlmann mô tả khoa học năm 1999.
Chú thích
Tham khảo
Colletes
Động vật được mô tả năm 1999 |
724348 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Natica%20simplex | Natica simplex | Natica simplex là một loài ốc biển săn mồi, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Naticidae, họ ốc mặt trăng.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Natica |
886649 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Colletes%20arenarius | Colletes arenarius | Colletes arenarius là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Morawitz mô tả khoa học năm 1876.
Chú thích
Tham khảo
Colletes
Động vật được mô tả năm 1876 |
188139 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0%C6%A1ng%20Ph%E1%BB%91 | Chương Phố | Chương Phố (tiếng Trung: 漳浦县, Hán Việt: Chương Phố huyện) là một huyện của thành phố Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có 17 trấn, 2 hương và 2 hương dân tộc.
Tham khảo
Đơn vị cấp huyện Phúc Kiến
Chương Châu |
647951 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Dysgraphhadena | Dysgraphhadena | Dysgraphhadena là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae.
Chú thích
Tham khảo
Natural History Museum Lepidoptera genus database
Noctuidae |
500621 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tunungu%C3%A1 | Tununguá | Tununguá là một thị xã và đô thị thuộc Boyacá Department, Colombia, thuộc phân vùng Western Boyacá.
Tham khảo
Đô thị của Boyacá
Khu dân cư ở tỉnh Boyacá |
558568 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sality | Sality | Sality là một trong hai dòng virus điển hình của loại virus siêu đa hình (dòng còn lại là Vetor). Virus siêu đa hình có thể "qua mặt" được hầu hết các phần mềm diệt virus không có cơ chế quét sâu (Deep scan). Nếu phần mềm diệt virus chỉ sử dụng các bộ mẫu nhận diện cố định để tìm các virus đa hình hoặc siêu đa hình thì sẽ không thể tìm đủ các "hình" của virus, dẫn tới diệt không triệt để.
Virus Sality xuất hiện cách đây nhiều năm, khởi nguồn là virus lây file. Khoảng hai năm gần đây, các biến thể mới của dòng virus Sality liên tục xuất hiện, tự nâng cấp trở thành virus siêu đa hình.
Các biến thể mới của Sality đã trở thành nỗi thách thức không chỉ với người sử dụng mà cả với các phần mềm diệt virus. Nhiều phần mềm diệt virus không thể phát hiện, bóc tách, xử lý triệt để các biến thể của dòng virus Sality. Trong nhiều trường hợp, khi các phần mềm diệt virus này không thể khôi phục trạng thái gốc của file bị nhiễm virus, file đó sẽ bị xóa hoặc bị cô lập, dẫn đến việc người sử dụng bị mất các file chương trình, hoặc thậm chí, bị hỏng Windows do các file chuẩn của Windows đã bị xóa, không thể đăng nhập hay sử dụng được Windows.
Trong thời gian gần đây, virus W32.Sality.PE vẫn đang liên tục "thống trị" trên bảng thống kê những virus lây nhiễm nhiều nhất.
Sality là một nhóm phần mềm độc hại lây nhiễm tệp ảnh hưởng đến các máy tính Windows bằng cách lây lan các nhiễm trùng thông qua các tệp EXE và SCR.
Sality, có thể đã bắt đầu ở Nga ban đầu, đã phát triển rất nhiều trong những năm qua, vì vậy các biến thể khác nhau của phần mềm độc hại thể hiện các đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các biến thể Sality là sâu trong đó chúng sử dụng một số chức năng tự động chạy để lây nhiễm các tệp thực thi thông qua các ổ đĩa di động hoặc có thể phát hiện được.
Một số thậm chí là các botnet Sality tham gia các máy bị nhiễm vào mạng P2P riêng của mình để các máy tính nói chung giúp tạo điều kiện cho những thứ như ăn cắp dữ liệu cá nhân, bẻ khóa mật khẩu, gửi spam và hơn thế nữa.
Virus Sality cũng có thể bao gồm trình tải xuống Trojan cài đặt phần mềm độc hại bổ sung qua internet và keylogger giám sát và ghi lại các lần nhấn phím.
Lưu ý: Một số chương trình diệt vi rút đề cập đến vi rút Sality theo các tên khác như SaILoad, SaliCode, Kookoo và Kukacka.
Xem thệm
Virus (máy tính)
Virus đa hình
Siêu đa hình
Phần mềm độc hại
Tham khảo
Phần mềm độc hại
Virus (máy tính) |
838668 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%288263%29%201986%20QT | (8263) 1986 QT | (8263) 1986 QT là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Henri Debehogne ở Đài thiên văn La Silla ở Chile ngày 26 tháng 8 năm 1986.
Xem thêm
Danh sách các tiểu hành tinh: 8001–9000
Tham khảo
Thiên thể phát hiện năm 1986
Được phát hiện bởi Henri Debehogne
Tiểu hành tinh vành đai chính |
70831 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Schleswig-Holstein | Schleswig-Holstein | Bài này viết về bang Schleswig-Holstein của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Xem các nghĩa khác tại Schleswig-Holstein (định hướng)
Schleswig-Holstein (; ) là bang cực Bắc của Cộng hoà Liên bang Đức. Thủ phủ của bang là Kiel. Thành phố lớn duy nhất tiếp theo là Lübeck. Bang này nằm giữa hai biển là biển Bắc và biển Ban Tích, có diện tích 15.800 km², xếp thứ 12 trong 16 bang của Đức; dân số 2,8 triệu, xếp thứ 9. Bang có nguồn gốc từ tỉnh Schleswig- Holstein thuộc Phổ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Phía Bắc giáp vùng Nam Đan Mạch của Đan Mạch, phía Nam giáp các bang Hamburg và Niedersachsen, phía Đông Nam giáp Mecklenburg-Vorpommern.
Địa lý
Về địa lý, Schleswig-Holstein bao gồm khu vực phía Nam của bán đảo Jylland và một phần của hạ du Bắc Đức. Schleswig-Holstein được bao bọc bởi biển Bắc ở phía Tây, biển Baltic và bang Mecklenburg-Vorpommern ở phía Đông, Hamburg và Niedersachsen ở phía Nam,Đan Mạch ở phía Bắc. Thành phố nhỏ Nortorf nằm ở trung tâm địa lý của Schleswig-Holstein.
Ở góc độ lịch sử, Schleswig-Holstein bao gồm phần phía Nam của Công quốc Schleswig, thành phố Hanse Lübeck và hai công quốc Holstein và Lauenburg. Sông Eider và sông Levensau phân chia ranh giới giữa các công quốc Schleswig và Holstein cho tới năm 1806 hay là 1864 (Chiến tranh Đức-Đan Mạch) là biên giới phía Bắc của Đế quốc La Mã Thần thánh hay Liên minh các quốc gia Đức. Sau khi tỉnh Schleswig-Holstein của Phổ được thành lập từ hai công quốc Schleswig và Holstein vào năm 1870 thì Công quốc Lauenburg được nhập vào thành 1 huyện của tỉnh này. Chiếu theo "Luật về Đại Hamburg và các điều chỉnh khu vực", vào năm 1937, các khu vực sau được nhập vào tỉnh Schleswig-Holstein: Pháo đài Lübeck (huyện Eutin) của Nhà nước Cộng hoà Oldenburg, thành phố Hanse Lübeck và các khu vực được sáp nhập vào Hamburg trước đây là Geesthacht, Großhansdorf và Schmalenbeck. Đổi lại, các thành phố của Holstein gồm Altona (lúc đó là thành phố lớn nhất Holstein) và Wandsbek cũng như nhiều làng xã khác, gồm cả Blankenese được nhập vào Hamburg.
Địa hình
Từ Tây sang Đông, địa hình của Schleswig-Holstein được phân chia ra thành các vùng đầm lầy, vùng cát cao, vùng cát thấp và vùng đồi Schleswig-Holstein (còn gọi là vùng đồi miền Đông). Địa hình này cũng như các vùng cát là địa hình băng tích được tạo ra trong Kỷ Băng hà cuối cùng. Phía Đông có đảo Flemarn là vùng băng tích được tạo ra trong Kỷ Băng hà cuối cùng. Sông lớn nhất của bang là sông Eider, điểm cao nhất là núi Bungsberg (168m).
Bờ biển phía Tây được đặc trưng bằng bãi triều (Wattenmeer), trong đó hướng Bắc có bán đảo Eiderstedt vươn ra biển, được bao bọc bởi quần đảo Nordfriesische Inseln cùng vô số cù lao bên ngoài. Cho tới nay, các địa danh gọi theo cách phân chia các khu vực hành chính cũ như Wiedingharde và Bökingharde (khu Wieding và khu Böking) vẫn được sử dụng để đặt tên cho các công sở. Phía Nam của vùng này là vùng Nordergoesharde với một phần thuộc địa hình bãi cát, vùng Sudergoesharde là vùng địa hình bãi cát. Thuộc địa hình đảo và cù lao có các đảo Helgoland.
Phía Nam của vùng Nordfriesland, giữa hai cửa sông Eider và Elbe là vùng đầm lầy (Marschland), được hình thành từ vùng đầm lầy Bắc Norderdithmarsch và vùng đầm lầy Nam Süderdithmarsch. Tiếp theo là vùng đầm lầy Erbmarschen bao gồm đầm lầy Wilstermarsch và Kremper Marsch. Bờ biển phía Đông cũng rất phì nhiêu, được phân chia ra thành các bán đảo Angeln, Schwansen, Dänischer Wohld và Wagrien bởi các vịnh lớn nhỏ. Các vùng đất bao quanh các hồ ở Holstein được gọi là vùng Thuỵ Sĩ của Holstein (Trong thế kỷ 19 thời đại Lãng mạn Thụy Sĩ tượng trưng cho vùng đất thơ mộng, phong cảnh đẹp mắt). Vùng đồi Hüttener Berge nằm trong lục địa và giáp với vùng cát.
Vùng cát do đất đai ít phù hợp cho canh tác nên được khai phá muộn hơn. Những nỗ lực khai hoang vùng cát và đầm lầy vào thế kỷ XVIII có thể xem là đã thất bại. Đặc biệt ở đây cần nhắc tới vùng cát Schleswigsche Geest trên 1 dải đất hẹp đã sớm giữ vai trò quan trọng cho giao thông giữa vùng Schlei và Eider với Süđergoesharde và vùng Stapelholm. Gần Neumünster có vườn thiên nhiên Naturpark Aukrug. Phía Đông Hamburg là vùng Stormarn mà phần phía Tây là huyện Stormarn. So với các bang khác thì bang Schleswig-Holstein là bang nghèo rừng, bởi rừng ở đây chỉ che phủ 10% diện tích.
Các vùng miền
Angeln
Dänischer Wohld
Dithmarschen
Eiderstedt
Holsteinische Schweiz
Holsteinische Elbmarschen
Herzogtum Lauenburg
Nordflesland
Prohster
Schleswigsche Geest
Schwansen
Kreis Ostholstein
Steinburg
Stormarn
Wagrien
Mitelholstein
Bảo tồn thiên nhiên và cảnh quan
Vườn quốc gia Nationalpark Schleswig-Holsteinisches Wattenmeer là vườn lớn nhất ở Trung Âu, cũng được xem phần nào là khu dự trữ sinh quyển. Ngoài ra, các khu bảo tồn thiên nhiên "Hohes Elbufer zwischen Tesperhude und Lauenburg" và "Lauenburger Elbvorland" với đặc điểm là vùng lõi cũng chiếm một phần nhỏ của khu dự trữ sinh quyển sông Elbe Biosphärenreservat Flusslandschaft Elbe tại Schleswig-Holstein.
Trong 80 năm qua bang đã xác định 189 khu bảo tồn thiên nhiên. Ngoài vườn quốc gia thì những khu này chiếm một diện tích là 2000 km², trong đó có 1600 km² là biển và bãi triều. Các hội bảo tồn thiên nhiên chăm sóc các khu bảo tồn theo thoả thuận với bang. Ngoài ra còn có 6 vườn thiên nhiên: Schlei, Hüttener Berge, Westensee, Aukrug, Holsteinische Schweiz, Lauenburgische Seen. Không có vườn nào trong số này ở biển hoặc bờ biển. Giáp nối với vườn thiên nhiên Lauenburgische Seen là khu dự trữ sinh quyển Schaalsee của bang Mecklenburg-Vorpommern.
Một điều đặc biệt là khu bảo tồn động thực vật Haseldorfer Graureiherkolonie ở huyện Pinneberg. Đây là vùng sinh sản lớn và quan trọng nhất của diệc xám ở Schleswig-Holstein.
Dân cư
Số liệu
Schleswig-Holstein có 2,81 triệu dân. Mật độ dân số 179 người/km², ít hơn 1/5 so với mật độ dân số trung bình toàn liên bang. Kết cấu độ tuổi và giới tính tương ứng mặt bằng chung trong liên bang. Nữ có 45,7% kết hôn, 12,9% goá bụa và 6,4% ly hôn. Tỉ lệ này ở nam là 47,7%; 2,6% và 5,4%. Dân cư phân bố không đều theo vùng miền. Ngoài các thành phố trực thuộc bang thì khu vực xung quanh Hamburg, đặc biệt là các huyện Pinneberg và Stormarn có mật độ dân cư cao; phần miền quê của Schleswig và huyện Dithmarschen thì mật độ dân cư so ra còn thưa thớt.
Cư dân gốc
Dân cư gốc gác lịch sử có nguồn gốc từ người Hạ Xắc-xông, Ăng-lô, Giút-lan. Cho tới Thời kỳ Di cư thì người Ăng-lô còn định cư ở Bắc Schleswig-Holstein. Tên gọi vùng Angeln (Ăng-lô) còn chứng tỏ điều này.Trong thời kỳ Viking thì người Đan Mạch định cư ở miền Trung và Đông của Schleswig, người Xắc-xông ở khu vực Trung và Tây Nam của Holstein, các bộ tộc của người Sla-vơ là Wagrier và Polaben ở miền Đông của Holstein và Lauenburg.
Các dân tộc thiểu số
Ở Schleswig-Holstein có cộng đồng thiểu số người Đan Mạch (ở phần đất Schleswig), người Fri-dơ (ở bờ biển Nordfriesland và trên các đảo) và một cộng đồng người thiểu số truyền thống Sinti và Roma (người Di-gan) tập trung trước hết ở các thành phố lớn như Kiel, Lübeck cũng như vùng xung quanh Hamburg. Các dân tộc thiểu số này được sự bảo vệ đặc biệt theo Điều 5 của Hiến pháp Bang Schleswig-Holstein. Tiếng của các dân tộc thiểu số cũng như tiếng Đức thổ ngữ hạ du được Hiến chương châu Âu về Tiếng thiểu số và địa phương bảo vệ.
Những người di tản và những người bị xua đuổi
Do đặc điểm dân số ít nên Schleswig-Holstein tiếp nhận người di tản và những người bị trục xuất trong và sau Chiến tranh Thế giới 2 nhiều nhất so với các bang khác của Tây Đức. Những người này có gốc gác ở Hinterpommern và Đông Phổ. Do vậy, dân số từ 1944 đến 1949 đã tăng thêm 1,1 triệu người. Quá trình hoà nhập của những người di tản đã rất xung khắc, nhất là ở những vùng miền quê.
Di cư từ nước khác
Do vị trí địa lý xa xôi và hẻo lánh cũng như kinh tế phát triển còn yếu nên Schleswig-Holstein có thành phần người nước ngoài ít nhất so với các bang khác của Tây Đức (1999: 5,1%). Trong số 140.000 người nước ngoài sống ở đây thì có 3/4 là người châu Âu, trong đó 22% trong tổng số người nước ngoài đến từ các nước thuộc Liên minh châu Âu. Cộng đồng người nước ngoài lón nhất gồm 30.000 người đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, thứ 2 là người Ba Lan với 15.400 người.
Lịch sử
Quá trình định cư và sự ra đời của Schleswig và Holstein
Những người làm nghề săn bắn hái lượm đã sinh sống ở Schleswig-Holstein từ sau Thời kỳ Băng hà cuối cùng. Khoảng từ năm 4000 trước Công Nguyên thì những người nông dân canh tác đã tới vùng đất này và đã xây dựng nên những công trình bằng đá ghép (cự thạch) ở đây vào khoảng thời gian từ 3500- 2800 trước Công Nguyên, tới nay có khoảng 100 công trình còn tồn tại. Có thể là từ Thời đại Đồ đồng đã có tuyến đường xuyên qua vùng đất này, phục vụ cho việc buôn bán gia súc của các vùng chăn nuôi ở Bắc Giút-lan, tuyến đường này còn có tên gọi là đường Ochsenweg (đường bò kéo).
Trong Thời kỳ Di cư đã có rất nhiều cư dân các tộc người German rời bỏ vùng đất này. Như vậy, từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 5 thì người Angles ở vùng đất có cùng tên gọi ở phía Bắc của eo biển Schlei đã rời bỏ vùng đất này tới Britannien và hợp nhất với các tộc người khác thành người Anglo-Saxon tạo nên nguồn gốc tên gọi của nước Anh sau này. Thời kỳ này dân cư ở Schleswig-Holstein rất thưa thớt.
Cho tới Sơ kỳ Trung cổ đã hình thành 4 cộng đồng dân tộc và ngôn ngữ: Ở phần phía Bắc cho tời đường ranh giới sông Eider- sông Treene- Eckernförde là người Giút-lan German và Đan Mạch Bắc German, ở phần phía Tây Bắc là người Fri-dơ Tây German từ thế kỷ thứ 7, ở phần phía Đông là người Abodrit Sla-vơ; ở phần Tây Nam cho tới đường ranh giới sông Eider- Kiel- Preetz- Eutin- sông Elbe là người Xắc-xông Tây German mà tổ tiên của họ là người Holsten là nguồn gốc tên gọi của vùng đất Holstein phía Nam. Sau làn sóng di cư của người Ăng-lô ra khỏi vùng đất này thì người Đan Mạch và Giút-lan đã xâm nhập vào đây ở phía Đông Nam. Họ đã thiết lập nên vào khoảng năm 770 thành phố Harthabu là một trong những nơi buôn bán có ý nghĩa nhất ở Sơ kỳ Trung cổ và xây dựng hệ thống thành luỹ phòng thủ Danewerk để chống lại người Xắc-xông. Trong thời kỳ của các cuộc chiến tranh Xắc-xông thì phần phía Nam của vùng đất đã rơi vào ảnh hưởng của Pháp. Từ 768 đến 811 thường xuyên xảy ra sự đối đầu giữa vua Pháp với Hoàng đế Cơ đốc giáo Karl Đại đế sau này và người Bắc German đa thần giáo, do đó hệ thống thành luỹ phòng thủ Danewerk cũng đã được mở rộng. Năm 811 thì một hiệp ước hoà bình đã được ký kết, lấy sông Eider làm biên giới giữa Vương quốc Frank và Đan Mạch.
Cùng với sự gia tăng của quá trình định cư trong thế kỷ thứ 12 và 13 thì biên giới sông Eider đã mất đi ý nghĩa của đường ranh giới, nhưng cho tới khi kết thúc của Đế quốc La Mã Thần thánh vào năm 1806 hoặc tới năm 1864 vẫn là biên giới giữa Schleswig và Holtein. Cho tới khi ban hành Luật Công dân vào năm 1900 thì con sông này còn là biên giới Giút-lan bởi vì ở Schleswig cho tới lúc đó vẫn tuân thủ Luật Giút-lan của Đan Mạch. Từ năm 1111 thì ở hai bờ sông Eider đã hình thành nên các công quốc Schleswig và Holstein (khi đó vẫn còn là lãnh địa bá tước). Đồng thời giữa hai khu vực luôn có các mối quan hệ chặt chẽ về chính trị và kinh tế.
Sự thống trị của dòng họ Schauenburg
Vào những năm đầu của thế kỷ thứ 13 thì vua Đan Mạch đã tìm cách sáp nhập Holstein vào vương quốc của mình. Sau những kết quả ban đầu thì ông ta đã gặp thất bại do sự phản kháng của các thân vương Bắc Đức ở trận Bornhöved.
Từ năm 1250, Liên minh Hanse đã phát triển thành một yếu tố kinh tế và quyền lực quan trọng và Lübeck đã trở thành một trong những thành phố quan trọng nhất Bắc Âu. Từ năm 1286, lần đầu tiên, Schleswig và Holstein đã thể hiện sự thống nhất trên huy hiệu, khi mà các bá tước Schauenburg được nhận Schleswig là đất phong tặng của Đan Mạch và đã kết nối lãnh địa miền Nam cùng công quốc miền Bắc vào tay một thống lĩnh. Vào thế kỷ thứ 14, sau khi các bá tước ở Holstein mở rộng được tầm ảnh hưởng về phía Giút-lan, Nữ hoàng Margrete I đã giành được sự bá quyền của Đan Mạch ở Schleswig. Song bà ta cũng phải chấp nhận những yêu sách về sở hữu của giới quý tộc Holstein ở Schleswig.
Do có nhiều sự phân chia quyền thừa kế và tài sản nên lịch sử lãnh thổ của Schleswig và Holstein rất rắc rối. Tuy nhiên, triều đại Schauenburg vẫn tạo lập được một quyền thống trị ở Schleswig-Holstein. Do vậy, có thể nói Schleswig-Holstein vào Hậu kỳ Trung cổ thực tế là một lãnh thổ thống nhất. Năm 1474, từ Lãnh địa bá tước Holstein đã hình thành Công quốc Holstein.
Sự bá quyền của Đan Mạch
Năm 1460, sau sự diệt vong của dòng họ Schauenburg thì giới hiệp sĩ ở Schleswig-Holstein đã bầu trực tiếp quốc vương Đan Mạch Christian I của Nhà Oldenburg làm thống lĩnh, ông ta là một người cháu trong họ của người cuối cùng của dòng họ Schauenburg là Adolf VIII. Hiệp ước được ký ở Ripen đã xác định cho các công quốc là "vĩnh viễn không bị chia cắt", một dòng văn bản đã bị vi phạm ngay sau đó. Quốc vương Đan Mạch không tự cai trị Schleswig và Holstein với tư cách của một quốc vương mà là công tước của 2 vùng, khi mà Công quốc Schleswig là vùng đất phong của Đan Mạch trong lúc Công quốc Holstein thuộc về Đế quốc La Mã Thần thánh của Dân tộc Đức và là đất phong của đế chế.
Christian I và người kế vị ngai vua của ông là quốc vương Đan Mạch đồng thời là thân vương Đức trong một Liên minh cá nhân. Sự bá quyền của Đan Mạch tồn tại đến năm 1864.
Christian III đã tiến hành cải cách giáo hội với Bộ quy tắc Giáo hội của Johannes Bugenhagen. Ngay từ năm 1544, nhà vua đã từ bỏ Hiệp ước Ripen và chuyển giao một số phần của các công quốc ở Schleswig-Holstein cho những người em trai cùng cha khác mẹ Johann và Adolf I, qua đó mà các công quốc Schleswig-Holstein-Gottorf và Schleswig-Holstein-Hadersleben ra đời. Năm 1564, con trai của ông là quốc vương Fridrich II cũng đã chuyển giao một số phần lãnh thổ của ông cho em trai Johann, qua đó, một công quốc tiếp theo ở Schleswig-Holstein ra đời là Công quốc Schleswig-Holtein-Sonderburg. Lần này thì các đẳng cấp trong xã hội đã phản đối sự vi phạm mới đối với Hiệp ước Ripen và không phục tùng ông, do vậy mà công tước của Sonderburg đã trở thành người đầu tiên trong số các lãnh chúa được chia quyền không có quyền thống trị. Phần lãnh thổ của Sonderburg tiếp sau đó bị phân chia ra thành các tiểu công quốc. Công quốc Hadersleben bị xoá bỏ và năm 1580 do không có người thừa kế. Công quốc Schleswig-Holstein-Gottorf thì lại phát triển thành một yếu tố quyền lực về chính trị và văn hoá quan trọng. Dưới thời của các công tước Gottorf nhiều lâu đài đã được xây dựng như lâu đài ở Husum, Reinbek và Tönning; các lâu đài ở Kiel và Gottorf được mở rộng và Trường Đại học Tổng hợp Kiel được thành lập. Dòng họ của công tước cũng đảm nhận vị trí tổng giám mục ở Lübeck.
Sự đối lập giữa phần đất của quốc vương và công tước -công tước Gottorf- đặc trưng cho đường lối chính trị của các công quốc ở 2 thế kỷ tiếp theo. Các khu vực hành chính của các lãnh địa khác nhau -được gọi là tổng, quận, châu- được phân chia theo tiềm năng thu thuế; bởi vậy phần đất của quốc vương hay công tước không bao gồm được những khu vực liên hoàn và Schleswig-Holstein được chia ra những đơn vị vùng miền nhỏ như một tấm thảm chắp vá. Trong khi phần đất của công tước được quản lý bởi dòng họ Gottorf từ lâu đài Gottorf (là nguồn gốc tên gọi dòng họ) thì quốc vương lại cử các đại diện để quản lý các phần đất của mình. Các điền trang thì lại có quy chế ngoại lệ. Đây là các khu vực độc lập và đa phần là tài sản của các gia đình quý tộc gốc gác, các điền trang này luân phiên chịu sự phục tùng quốc vương hay công tước và đã đạt được sự phát triển kinh tế thịnh vượng, giới quý tộc địa chủ được tận hưởng trong thời kỳ này ở Schleswig-Holstein thời kỳ vàng son. Ngoài ra, giáo phận Lübeck, Lãnh địa bá tước Holstein-Pinneberg và lãnh địa bá tước có nguồn gốc từ đây Rantzau, vùng Dithmarsch (xâm chiếm được từ năm 1559) cũng như Công quốc Sachsen-Lauenburg (khi đó chưa thuộc Holstein) thì có vai trò đặc biệt trong quy chế nhà nước.
Trong khi ở phần phía Nam của đế chế nổ ra cuộc Chiến tranh 30 năm vào năm 1618 thì Schleswig-Holstein ban đầu không bị ảnh hưởng và đã đạt được thời kỳ phát triển cao nhờ năng suất nông nghiệp. Năm 1625 thì Đan Mạch cũng tham gia cuộc chiến, qua đó thì các trận chiến cũng xảy ra ở các công quốc từ năm 1627. Đặc biệt các thành luỹ ở Holstein như Krempe, Glückstadt và Breitenburg đã là mục tiêu của các cuộc tấn công. Cuộc Chiến tranh 30 năm kết thúc ở Schleswig-Holstein vào năm 1629 với Hoà ước Lübeck. Các công quốc vốn ít bị tàn phá hơn các vùng khác ở Đế chế Đức lại được hồi sinh, cho tới bắt đầu từ năm 1643 lại bị cuốn vào cuộc chiến tranh Torstenssonkrieg và lại bị tàn phá.
Sự đối lập giữa phần đất quốc vương và công tước trong thế kỷ thứ 17 đã dẫn đến những xung đột giữa 2 thế lực. Công quốc của dòng họ Gottorf đòi hỏi nhiều chủ quyền hơn và đã tách khỏi Đan Mạch đứng về phía Vương quốc Thuỵ Điển. Điều đó đã dẫn tới sự chiếm đóng một phần rộng lớn của Đan Mạch đối với phần đất công quốc. Vào đầu thế kỷ thứ 18 đã xảy ra cuộc chiến tranh Große Nordische Krieg, Công quốc Gottorf đứng về phía Thuỵ Điển; do vậy, vào năm 1773, khi Thuỵ Điển bị thất bại trong cuộc chiến thì toàn bộ phần đất của Công quốc Gottorf ở Schleswig đã bị Đan Mạch thôn tính. Công quốc ngày nào của dòng họ Gottorf chỉ còn quyền sở hữu ở Holstein. Sự thôn tính Schleswig được hợp thức bằng Hòa ước Frederiksborg vào năm 1720.
Trong suốt thế kỷ thứ 18 thì Đan Mạch đã cố gắng để hoàn thành việc thống nhất một nhà nước tổng thể. Nhiều tiểu công quốc của Schleswig-Holstein đã từng xuất hiện từ phần đất của Công quốc Sonderburg không được sử dụng để phong đất tiếp trong trường hợp không có thừa kế mà phải sáp nhập vào Vương quốc Đan Mạch. Sau khi phần đất của Công quốc Gottorf ở Holstein qua quá trình thừa kế đã được thống nhất vào Liên minh cá nhân với tước Nga Hoàng, vào năm 1773, Hiệp ước Zarskoje Selo được thoả thuận, theo đó thì Schleswig-Holstein hầu như hoàn toàn rơi vào tay Vương quốc Đan Mạch. Vào năm 1779 thì công quốc được chia tách cuối cùng là Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg bị giải tán. Một ít quyền tự chủ vẫn còn lại khi mà sự điều hành các công quốc tập trung vào một văn phòng Đức ở Kopenhagen và vào năm 1789 thì đồng tiền riêng được đưa vào lưu hành.
Chủ nghĩa dân tộc và các cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức
Vào năm 1800 thì toàn bộ Schleswig-Holstein, với ngoại lệ là Thân vương quốc Lübeck và Công quốc Sachsen-Lauenburg(lúc này còn là công quốc độc lập), nằm dưới sự quản lý của Đan Mạch. Thành phố Altona(nay là một quận của Hamburg) lúc đó là thành phố lớn thứ hai của vương quốc sau Kopenhagen. Vào lúc cuối của Chiến tranh Napoleon thì Đan Mạch thuộc về phe thất bại với hệ thống tài chính đổ nát. Sự phá bỏ những điều cam kết đã làm cho đồng tiền riêng trở thành nạn nhân của sự vỡ nợ của nhà nước. Vào năm 1813, một loại thuế bắt buộc được áp đặt một cách hà khắc cho các công quốc càng làm tăng thêm sự bất mãn. Chủ nghĩa dân tộc đã trỗi dậy không chỉ ở Đan Mạch mà còn ở Đức đã dẫn tới những quan điểm đối lập về sự trực thuộc của cái được gọi là các công quốc sông Elbe(Elbherzogtümer) và dẫn tới 2 cuộc chiến tranh. Tranh cãi không xảy ra với Holtein, nơi mà chỉ có người Đức định cư và thuộc về Đế quốc La Mã Thần thánh từ Sơ kỳ Trung cổ và Liên hiệp Đức từ sau 1815 và Đan Mạch chỉ có quản lý vùng này, mà về Công quốc Schleswig. Những người theo chủ nghĩa dân tộc tự do ở Đức cũng như ở Đan Mạch đều cho là phần đất này hoàn toàn thuộc về mình, tuy rằng phần đất này được chia ra thành miền Bắc, nơi chủ yếu nói tiếng Đan Mạch và có đặc tính Đan Mạch và miền Nam, nơi chủ yếu nói tiếng Đức và mang đặc tính Đức.
Uwe Jens Lornsen là người Bắc Fri-dơ ở đảo Sylt đã tích cực đấu tranh cho miền Nam tiếng Đức của Schleswig, ông và những người cùng chí hướng thường viết liền "Schleswigholstein" để nhấn mạnh bằng văn bản sụ trực thuộc không thể tách rời của hai khu vực. Từ năm 1840 thì những người theo chủ nghĩa dân tộc tự do của Đức cũng như Đan Mạch đều tìm cách gây ảnh hưởng ở Schleswig, điều đó đã dẫn đến xung đột. Năm 1848, xung đột đã nổ ra công khai trong mối liên quan với Cách mạng Tháng 3. Một chính phủ lâm thời được thành lập ở Kiel đã đòi tiếp nhận toàn bộ Schleswig-Holstein vào Liên hiệp Đức; trong khi đó thì ở Kopenhagen một chính phủ dân tộc tự do được bổ nhiệm, thành phần gồm nhiều thành viên là người được gọi là Đan Mạch sông Eider(Eiderdänen), mục tiêu của những người này là sáp nhập Schleswig vào Vương quốc Đan Mạch và tách vùng Holstein thuộc Đức ra theo hiến pháp.
Sự không thoả thuận được của hai đòi hỏi trên đã dẫn đến cuộc nổi dậy ở Schleswig-Holstein, những người Schleswig-Holstein đặc tính Đức đã uổng công tìm cách kết thúc sự thống trị của Đan Mạch. Theo ý muốn của các nhà dân tộc tự do Đức thì Schleswig phải là thành viên của Liên hiệp Đức và thống nhất với Holstein thành một nhà nước có chủ quyền với sự nhiếp chính của công tước Christian August thuộc dòng họ Augustenburg. Theo quan điểm của Đức thì Luật Salic cũng có giá trị ở Schleswig, theo đó thì công tước của dòng họ Augustenburg là người thừa kế hợp pháp của 2 công quốc sau khi quốc vương Đan Mạch và công tước Friedrich VII không có người nối dõi. Theo quan điểm của Đan Mạch thì công tước của dòng họ Augustenburg có thể là người kế vị ở Holstein, nhưng không thể ở Schleswig, nơi mà theo luật của Đan Mạch thì phụ nữ có quyền kế vị. Ban đầu thì cuộc nổi dậy ở Schleswig-Holstein nhận được sự ủng hộ của quốc hội Liên hiệp Đức (Paulkirchenversammlung), nhưng do áp lực của các thế lực lớn ở châu Âu nên quân đội Phổ và quân của Liên hiệp Đức đã rút lui phó mặc chính phủ tự phong ở Kiel cho số phận của họ. Chiến thắng của Đan Mạch ở Idstedt năm 1850 đã kết thúc hy vọng của Đức vào một Schleswig-Holstein thuộc Đức, trạng thái "không thể thay đổi" lại được thiết lập- cũng do áp lực quốc tế. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1850 thì Hoà ước Berlin đã được ký kết giữa Liên hiệp Đức và Đan Mạch. Một lời giải cho câu hỏi Schleswig-Holstein vẫn chưa tìm ra được.
miniatur| Schleswig-Holstein 1898
Năm 1849, nhà nước tổng thể Đan Mạch ban hành Hiến pháp 1849, theo đó thì ở vương quốc tuân theo chế độ quân chủ lập hiến và ở Holstein tuân theo chế độ chuyên chế, tuy nhiên với một hội đồng nhà nước chung và việc này đã gây khó khăn cho việc ban hành luật lệ. Vào tháng 11 năm 1863, Đan Mạch ban hành một hiến pháp có giá trị cho những vấn đề chung của vương quốc và công quốc Schleswig bên cạnh những hiến pháp riêng lẻ khác ở 2 khu vực. Theo đó thì Hòa ước 1851 bị vi phạm nên Thủ tướng Phổ đã có cơ hội để giải quyết vấn đề Schleswig theo tinh thần Đức. Sau khi bị từ chối một tối hậu thư rất ngắn thì Phổ và Áo đã tuyên bố chiến tranh với Đan Mạch. Phổ và Áo đã chiến thắng dễ dàng chiến tranh Đan Mạch vào tháng 4 năm 1864. Các cuộc đàm phán về chia tách Schleswig không có kết quả cho nên Schleswig và Holstein chịu sự quản lý chung của phe chiến thắng. Theo Hiệp ước Gastein năm 1865 thì Schleswig và Lauenburg thuộc Phổ và Hostein thuộc Áo, chỉ còn những phần nhỏ ở Bắc Schleswig vẫn còn thuộc Đan Mạch là đảo Ahorn, bảy giáo phận phía Nam Kolding và một số giải đất xung quanh Ribe, đổi lại thì Đan Mạch từ bỏ quyền đối với những vùng đất lọt giữa ở bờ biển phía Tây của Schleswig.
Sau chiến tranh thì vào năm 1867 toàn bộ Schleswig-Holstein đã trở thành 1 tỉnh của Phổ. Đối lập với mục tiêu chính ban đầu là tách khỏi Đan Mạch và trở thành một nhà nước thành viên độc lập trong Liên hiệp Đức thì các công quốc chỉ đạt được mục tiêu tách khỏi Đan Mạch nhưng không có độc lập. Năm 1871, Đế chế Đức được thành lập. Vấn đề Schleswig-Holstein đã là vấn đề trung tâm của đường lối chính trị của thủ tướng Bismarck, đường lối đã dẫn đến thống nhất đế chế.
Sự chia cắt dứt điểm Schleswig
Những tranh cãi về công pháp quốc tế với Đan Mạch chỉ chấm dứt vào mãi năm 1920. Trong Hoà ước Prag năm 1866 thì Phổ và Áo với sự can thiệp của Napoleon III đã thoả thuận ở điều 5 một cuộc trưng cầu dân ý ở Bắc Schleswig. Theo đó thì người dân Bắc Schleswig có quyền tự quyết định là trực thuộc Đan Mạch hay Phổ/Áo. Hai nước ký hiệp ước đã thoả thuận huỷ bỏ điều khoản này vào năm 1879. Đan Mạch tất nhiên phải chống lại việc làm sai hiệp ước kể trên. Trước đó thì Phổ đã tự sáp nhập các công quốc thành tỉnh của mình. Đan Mạch đã không nhất trí. Cuộc trưng cầu dân ý đã được xác định trước đây sau đó được tiến hành vào sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất dưới áp lực và sự kiểm soát của các thế lực chiến thắng. Một uỷ ban quốc tế với đại diện của Anh, Pháp, Thuỵ Điển và Na Uy được thành lập để quản lý các khu vực trưng cầu dân ý. Ủy ban này đóng ở Flensburg, có bộ máy cảnh sát được xây dựng mới và được sự hậu thuẫn của quân đội Anh, Pháp. Kết quả trưng cầu dân ý là số đông ở phần phía Bắc theo Đan Mạch, ở phía Nam theo Đức. Khu vực miền Trung (với cả Flensburg) thì còn tranh cãi gay gắt nhưng sau đấy thì cũng tự quyết định được là trực thuộc Đức. Theo đó thì vào ngày 6 tháng 7 năm 1920, một hiệp ước chuyển giao được ký ở Paris, hiệp ước này phân định Bắc Schleswig thuộc Đan Mạch và Nam Schleswig thuộc Đức.
Chủ nghĩa quốc xã và Chiến tranh Thế giới thứ 2
Schleswig-Holstein đã một thành trì ban đầu của chủ nghĩa quốc xã. Đảng NSDAP đã giành được kết quả cao trong bầu cử năm 1928 ở Dithmarschen. Những sự kiện mà lực lượng quốc xã gọi là "Đêm đổ máu ở Wöhrden" 1929 và "Chủ nhật đổ máu ở Altona" 1932 đã bị Đảng NSDAP lợi dụng để tuyên truyền cả ra ngoài phạm vi của địa phương. Một số học giả quen thuộc của Schleswig-Holstein là người dọn đường cho chủ nghĩa quốc xã: Julius Langbehn(gốc gác Bắc Schleswig) cũng như Adolf Bartels(Dithmaschen) và một phần nào đó Gustav Frenssen.
Đã có một số trại bên ngoài trực thuộc Trại Tập trung KZ Neuengamme ở Schleswig-Holstein: Một số đó là Trại KZ Kalzenkirchen, Trại KZ Außenlager Kiel, Trại KZ Ladelund và Trại KZ Neustadt ở Holstein. Một trong những trại tập trung đầu tiên là Trại KZ Wittmoor: Vào ngày 10 tháng 3 năm 1933, những tù nhân đầu tiên, số đông là đảng viên Đảng KPD, bị giam cầm ở đây. Những trại tập trung ban đầu khác (cũng được xem là những trại dã man) được xây dựng năm 1933
ở Eutin, Glückstadt, Rickling/Kuhlen, Ahrenbök, Atona và Wandsbek.Trong "Đêm tàn sát của đế chế" vào mồng 9/10 tháng 11 năm 1933 các giáo đường Do Thái và cửa hàng của người Do Thái ở Lübeck, Elmshorn, Rendsburg, Kiel, Bad Segeberg, Friedrichstadt, Kappeln và Satrup đã bị "Lực lượng Bão táp" SA và "Đội Cận vệ" SS tấn công, phá hoại - với sự làm ngơ hoặc hỗ trợ của cảnh sát.
Những tù binh Xô-viết đã đến Schleswig-Holstein trong trạng thái thảm hại, bởi vì họ đã không được nuôi dưỡng đầy đủ. Các nhà tù đã được xây dựng ở Heldkaten, gần Katenkirchen(từ mùa thu 1941 đến tháng 4 năm 1944) và Gudendorf(tháng 4 năm 1941 đến cuối chiến tranh), Gerhard Hoch đã gọi những nhà tù này là "trại chết". Trong các năm 1944, 1945 có 3000 tù binh Xô-viết bị chết ở Gudendorf.
Tại chi nhánh trẻ em ở Schleswig từ 1939 đến 1945 có ít nhất 216 trẻ em bị giết.
Cuộc chiến đường không trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 ít ảnh hưởng tới những vùng dân cư thưa thớt. Thành phố Kiel là căn cứ hải quân và có 3 nhà máy đóng tàu lớn ở bờ Đông eo biển Förde thì đã là mục tiêu tấn công của máy bay ném bom của Không quân Anh (RAF) và Không quân Mỹ (USAAF). Cuộc không kích Lübeck của Không quân Anh vào cuối tháng 3 năm 1942 là cuộc ném bom rải thảm đầu tiên vào trung tâm lớn của một thành phố lịch sử của Đức. Trong Chiến dịch "Operation Gomorrha" tấn công Hamburg mùa hè 1943 thì các địa điểm như Wedel và Elmshorn ở Schleswig-Holstein cũng đã bị ảnh hưởng nặng. Nhà máy đóng tàu Flensburg và Nhà máy Lọc dầu Hemmingstedt của Công ty DEA gần Heide đã bị oanh tạc nhiều lần. Vào ngày 3 tháng 5 năm 1943, máy bay Không quân Anh đã oanh kích nhầm 3 tàu không có khả năng chiến đấu ở vịnh Neustadt là các tàu Cap Arcona, Thielbek và Deutschland. Khoảng 7000 người bị chết. Trước đó, Đội Cận vệ đã dồn khoảng 10.000 tù nhân các trại tập trung lên những con tàu đó. Rất có thể đó là ý định của Đội Cận vệ để dìm chết tù nhân.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 1945, vào lúc 12 giờ 45, Đài Phát thanh Flensburg đã phát đi tuyên bố của Lutz von Schwerin-Krosigk về kết thúc của Chiến tranh Thế giới thứ 2 (lần đầu tiên từ phía Đức). Sự đầu hàng vô điều kiện của quân đội Đức có hiệu lực vào 23 giờ 01 ngày 8 tháng 5 năm 1945. Vào thời điểm này thì Schleswig-Holstein còn nằm dưới sự kiểm soát của các đơn vị quân đội Đức.
Thời kỳ sau chiến tranh
Ngay từ cuối năm 1944 thì Schleswig-Holstein đã là nơi đến chính của những người di tản và những người bị xua đuổi trong Chiến dịch Sơ tán Hannibal, sơ tán khoảng 2,5 triệu người từ vùng Baltic (Memelland), Đông/Tây Phổ, Pommern và Mecklenburg. Cư dân của những thành phố lớn đã bị ném bom tan hoang là Kiel, Lübeck và Hamburg cũng chuyển về các vùng quê. Dân số vào năm 1939 còn là 1,6 triệu, đã tăng lên đến 2,7 triệu vào năm 1949. So với các bang khác ở Tây Đức thì thành phần di tản so với dân sở tại ở Schleswig-Holstein là lớn nhất.
Vào thời gian chuyển tiếp năm 1945/1946, chính phủ quân quản của vùng chiếm đóng thuộc Liên hiệp Anh đã chỉ định những ủy ban thanh lọc quốc xã Đức để giúp việc. 406.500 người đã bị thanh lọc quốc xã theo phương pháp đám đông. Ở Schleswig-Holstein không có ai bị xếp vào Hạng I của nhóm tội phạm chính và Hạng II của nhóm tội phạm. 2217 người bị xếp vào Hạng III của nhóm có gây hại, trong đó có người phụ trách địa hạt Hinrich Lohse. 66.500 người bị xếp vào Hạng IV của nhóm cộng sự và 206.000 người vào Hạng V của nhóm được giảm tội.
Sau chiến tranh thì về hình thức, Schleswig-Holstein vẫn là một tỉnh của Phổ. Nhà hoạt động Dân chủ Cơ đốc giáo Theodor Steltzer, người đã đứng về phía cuộc đấu tranh quân sự chống lại chính thể độc tài quốc xã, được bổ nhiệm làm chủ tịch đứng đầu bộ máy quản lý, sau đó làm thủ hiến đầu tiên. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1946, quốc hội bang đầu tiên nhóm họp, quốc hội này không được bầu mà được chính phủ quân quản chỉ định, chính phủ này được đại diện bằng "Ủy viên vùng Schlewig-Holstein" mà quyền quyết định cuối cùng thuộc về Nguyên soái Không quân Hugh Vivian Champion de Crespigny(đang nghỉ hưu). Với Quy định số 46 của Chính phủ Quân quản Liên hiệp Anh vào ngày 23 tháng 8 năm 1946 "về giải thể các tỉnh thuộc Phổ trước đây trong vùng chiếm đóng của Liên hiệp Anh và lập thành các bang độc lập" thì bang Schleswig-Holstein đã nhận được các cơ sở pháp lý. Thủ phủ được chọn là Kiel mà không phải là Schleswig. Trụ sở của "ủy viên vùng", sau này được gọi là "ủy viên bang" của Liên hiệp Anh là tòa nhà được gọi là Somerset-House ở Kiel, dinh thự là lâu đài Altenhof (gần Eckernförde). Trong cuộc bầu cử quốc hội bang vào ngày 20 tháng 4 năm 1947, lần đầu tiên quốc hội bang đã được bầu. Với Quy định năm 1949 được quốc hội bang ban hành, có hiệu lực bắt đầu vào ngày 12 tháng 1 năm 1950, thì Schleswig-Holstein đã trở thành một bang thuộc liên bang. Mãi tới ngày 30 tháng 5 năm 1990, theo văn bản cải cách hiến pháp được quốc hội bang ban hành trong kỳ họp quốc hội bang ở Kiel thì quy định này cũng được gọi là Hiến pháp bang.
Vào ngày 29 tháng 3 năm 1955, Tuyên bố Bonn-Copenhagen được ký kết, trong đó Cộng hoà Liên bang Đức và Đan Mạch đã thống nhất với nhau về quyền được bảo hộ của mỗi dân tộc thiểu số trên lãnh thổ của mình, đồng thời xác định quyền tự do của mỗi công dân được tự mình nhận là thuộc nhóm cộng đồng dân tộc nào mà không bị phản đối hay kiểm tra của các cơ quan nhà nước. Hiệp ước này vẫn có giá trị đến ngày nay như là một hình mẫu về sự giải quyết được thoả thuận thống nhất đối với vấn đề dân tộc thiểu số.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh thì Schleswig-Holstein trên cơ sở có tầm quan trọng chiến lược đối với NATO là một địa điểm đóng quân trọng điểm của Quân đội Liên bang Đức, được thành lập vào năm 1955. Thuộc quyền chỉ huy của sở chỉ huy quân đoàn được thiết lập riêng của NATO LANDJUT có Sư đoàn Bộ binh cơ giới 6 là sư đoàn trực thuộc NATO có biên chế quân đông nhất, sư đoàn này chủ yếu cơ động ở bang cực Bắc, ngoài ra còn có Căn cứ Baltic của Hải quân Liên bang. Cho tới năm 1959 thì Werner Heyde, người phụ trách chương trình Chết không đau đớn của quốc xã nhằm giết người hàng loạt còn hành nghề thầy thuốc ở Flensburg dưới cái tên Fritz Sawade. Năm 1961, Ủy ban Kiểm tra đã nêu lên trong một bản báo cáo 18 người ở các ngành Tư pháp, Hành chính và Y là những người biết rõ sự thật về Sawade.
Một số các cuộc phản đối mạnh mẽ nhất chống lại việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân từ 1976 đến đầu những năm 1980 diễn ra tại Công trường Xây dựng Nhà máy Điên hạt nhân Brokdorf. Hiện tượng tự nhiên tiêu biểu nhất trong lịch sử bang là thảm hoạ tuyết rơi vào thời điểm cuối 1978 đầu 1979.
Vụ bê bối lớn nhất của lịch sử sau chiến tranh là vụ việc Barschel mùa thu năm 1987. Vụ bê bối này được tiếp nối bằng vụ việc Schubladen-Affäre, mà kết quả là Björn Engholm ở cương vị thủ hiến phải từ chức và thay thế là Heide Simonis, người phụ nữ đầu tiên ở cương vị lãnh đạo một bang. Sau đấy thì Schleswig-Holstein trở thành tâm điểm của dư luận, khi mà việc bầu lại Simonis ở quốc hội bang bị thất bại một cách ấn tượng vào tháng 3 năm 2005. Đại liên minh sau đó của Thủ hiến Peter-Harry-Carstensen (CDU) tồn tại chỉ tới tháng 7 năm 2009. Cuộc bầu cử mới vào tháng 9 năm 2009 đã dẫn tới kết quả thành lập một liên minh Đen-Vàng của Thủ hiến cũ và mới Carstensen vào ngày 27 tháng 10 năm 2009.
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2010, Toà án Hiến pháp bang Schleswig-Holstein đã phán quyết là luật bầu cử dành cho quốc hội bang có sự vi phạm hiến pháp. Quốc hội bang sau đó được yêu là phải ban hành luật mới tới thời hạn tháng 5 năm 2011; tiếp theo là bầu cử mới được quy định là chậm nhất đến tháng 9 năm 2012.
Tại cuộc bầu cử quốc hội bang ở Schleswig-Holstein vào ngay 6 tháng 5 năm 2012, lần đầu tiên, một liên minh của SPD, B'90/Grüne và SSW được thành lập do Torsten Albig đứng đầu, liên minh này được gọi là Dänen Ampel.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ chính thức chung là tiếng Đức, về mặt pháp lý ở đây cũng không rõ là điều đó có nghĩa là tiếng Đức phổ thông (Hochdeutsch) hay là tiếng Bắc Đức (Niederdeutsch). Căn cứ vào Hiến chương châu Âu về Ngôn ngữ địa phương và thiểu số thì tiếng Bắc Đức, hay còn gọi là tiếng Hạ Đức (Plattdeutsch) theo Phần III của Hiến chương đã xác định là tiếng địa phương (ít ra là như vậy), tiếng Đan Mạch (ở dạng tiếng Đan Mạch Nam Schleswig) và tiếng Fri-dơ (ở dạng khẩu ngữ địa phương Bắc Fri-dơ) là ngôn ngữ thiểu số; tiếng Digan theo Phần II là ngôn ngữ thiểu số được công nhận ở bang Schleswig-Holstein. Ở các xã gần biên giới giữa Niebüll và Frensburg người ta còn nói tiếng Nam Giút-lan (Hạ Đan Mạch), tiếng này được xem là tiếng địa phương của Đan Mạch, tiếp theo đó, ở trong vùng Frensburg còn có các thổ ngữ pha trộn giữa các thứ tiếng là Petuh và Missingsch. Như vậy, Schleswig-Holstein là bang giàu nhất về các loại tiếng truyền thống. Các loại ngôn ngữ không còn tồn tại ở đây nữa là tiếng Hà Lan đã từng được nói ở Friedrichstadt và tiếng Yiddish, là thứ tiếng vẫn được nói ở một số thành phố cho tới thời kỳ Quốc xã; có bao nhiêu người còn nói tiếng Yiddish trong số khoảng gần 2000 người theo tín ngưỡng Do Thái là không thể biết được.
Thành phần ngôn ngữ: Tiếng Đức khoảng 2,7 triệu người, Bắc Đức 1,2 triệu, Đan Mạch (phổ thông, địa phương) 65.000, Fri-dơ 10.000, Digan 5000.
Sau khi Luật Friisk Gesäts được quốc hội bang phê chuẩn vào năm 2004 thì tiếng Fri-dơ là ngôn ngữ chính thức ở huyện Nordfriesland và trên đảo Helgoland (thuộc huyện Pinneberg). Ở huyện Nordfriesland có thể thấy các bảng chỉ dẫn địa điểm bằng 2 thứ tiếng, ví dụ như thành phố Niebüll còn được viết là Naibel.
Phần Đông Nam của bang cho tới thế kỷ thứ 12 là nơi định cư của các tộc người Sla-vơ mà ngày nay ta còn có thể nhận ra qua những tên địa phương có gốc Sla-vơ như Lübeck, Laboe, Eutin, Preetz, Ratzeburg.
Tôn giáo
Đạo Cơ Đốc
Schleswig-Holstein là một bang có đặc tính Tin Lành. Năm 2006 có 54,3% dân cư theo đạo Tin Lành. Năm 2007 có 6,7% dân cư theo đạo Công giáo La Mã. Trên 39% dân cư không thuộc về một cộng đồng tôn giáo lớn nào.
Giáo phái Tin Lành Tự do có 15.000 tín đồ. Giáo phái Tin Lành Cải cách được đại diện bằng 1 giáo phận riêng ở Lübeck. Giáo phái Tin Lành của các tín đồ Remonstranten có một giáo phận ở Friedrichstadt.
Giáo hội Tin Lành Luther
Giáo hội Tin Lành Luther của bang từ ngày 27 tháng 5 năm 2012 được gọi là Giáo hội Tin Lành Luther Bắc Đức, gọi tắt là Giáo hội Bắc Đức. Giáo hội này được lập nên từ Giáo hội Bắc Elbe, Giáo hội Tin Lành Luther Mecklenburg và Giáo hội Tin Lành Pommern sau một quá trình sáp nhập lâu dài, được kết thúc bằng một hiệp ước sáp nhập vào ngày 5 tháng 2 năm 2009. Ở khu vực Schleswig-Holstein có 2 giáo khu là giáo khu Schleseig và Holstein cũng như giáo khu Hamburg-Lübeck; đứng đầu mỗi giáo khu là giám mục. Giáo hội Bắc Elbe là một tổ chức được sáp nhập từ 3 giáo hội Tin Lành Luther địa phương vào năm 1977.
Bên cạnh Giáo hội Bắc Đức thì ở Schleswig-Holstein còn có Giáo phái Tin Lành Độc lập theo tôn giáo cũ và ở miền Bắc của bang có Giáo hội Đan Mạch ở Nam Schleswig. Giáo hội Đan Mạch ở Nam Schleswig có 6.500 tín đồ.
Công giáo
Giáo hội Công giáo La Mã ở Schleswig-Holstein trực thuộc địa phận Tổng giám mục Hamburg. Bên cạnh Giáo hội Công giáo La Mã thì trên đảo Norđstrand có một cộng đồng Công giáo cổ.
Các giáo hội, giáo phái Tin Lành Tự do
Các giáo hội, giáo phái Tin Lành Tự do ở Schleswig-Holstein là Giáo hội Tin Lành Tự do Bap-tit, [[Giáo hội Tin Lành Giám Lý, Giáo phái Tin Lành Tự do của tín đồ Mennoniten, Hội Tin Lành Tự do Đức, Giáo phái Tin Lành Cứu Thế quân, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, nhiều giáo phận thuộc Giáo hội Ngũ Tuần. Vào thế kỷ thứ 16 đã có những giáo phận đầu tiên của tín đồ Tin Lành Mennoniten. Giáo phận đầu tiên của tín đồ Bap-tit được thành lập vào tháng 2 năm 1849 ở Pinneburg thuộc Holstein.
Giáo phái Neuapostolische Kirche
Giáo phái Neuapostolische Kirche ở Schleswig-Holstein trực thuộc giáo khu Hamburg, trên lãnh thổ Schleswig-Holstein có 5 giáo phận với khoảng 10.000 tín đồ.
Đạo Do Thái
Các giáo phận Do Thái có 1.900 tín đồ được chia thành 2 hội là Hội Do Thái giáo Chính thống Schleswig-Holstein và Hội Do Thái giáo Tự do bang Schleswig-Holstein.
Đạo Hồi
Có 25.000 người Schleswig-Holstein tự nhận theo đạo Hồi. Thánh đường Hồi giáo lớn nhất của bang là Thánh đường Trung tâm Rendsburg.
Chế độ nhà nước
Hiến pháp
Theo Chương 1 của Hiến pháp bang ngày 12 tháng 1 năm 1950 thì Schleswig-Holstein là một thành viên nhà nước của Cộng hoà Liên bang Đức. Do có Vụ bê bối Barschel năm 1987 nên Ủy ban Kiểm tra đã kiến nghị nhiều sự thay đổi cấu trúc của hiến pháp. Một ban khảo sát được thành lập đã đưa ra nhiều đề nghị về cải cách hiến pháp, quốc hội và trình bản báo cáo kết luận vào năm 1989. Tiếp theo đó thì hiến pháp đã được sửa đổi và đổi tên từ Điều lệ bang thành Hiến pháp bang. Hiến pháp được quốc hội bang ban hành vào ngày 30 tháng 5 năm 1990. Kể từ đó, hiến pháp cũng đã có quy định những nội dung định hướng nhà nước, ví dụ như bảo vệ các dân tộc thiểu số Fri-dơ và Đan Mạch tại bang (Chương 5), tập trung xây dựng sự bình đẳng giữa nam và nữ (Chương 6), bảo vệ các nền tảng đời sống tự nhiên (Chương 7) hay là bảo vệ và khuyến khích phát triển văn hoá trong đó có ngôn ngữ Hạ Đức (Chương 9).
So sánh với các hiến pháp của các bang khác của Đức thì bản hiến pháp này có những yếu tố có tầm thế giới của nền dân chủ trực tiếp. Cũng như ở các bang khác của Đức thì quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân, có nghía là nhân dân thể hiện nguyện vọng qua bầu cử và biểu quyết ở bang, các xã và liên xã.
Hiến pháp được xác định trước theo quy định pháp luật của liên bang là sẽ không còn giá trị vào thời điểm một khu vực của liên bang được sáp nhập mới vào bang.
Quốc hội bang
Quốc hội bang Scheswig-Holstein là cơ quan tối cao thiết lập nguyện vọng chính trị được nhân dân bầu và thực thi quyền lập pháp. Quốc hội bang bầu ra thủ hiến bang. Quốc hội bang theo nguyên tắc bao gồm 69 đại biểu (không tính đại biểu trội), các đại biểu được bầu bằng phương pháp kết hợp giữa bầu trực tiếp cá nhân và bầu tỉ lệ tham gia theo đảng phái.
Chính phủ bang
Chính phủ bang là cơ quan lãnh đạo, quyết định và thực thi tối cao trong phạm vi chính quyền. Chính phủ bang gồm thủ hiến bang và các bộ trưởng.
Thủ hiến bang được quốc hội bang bầu không có sự thảo luận. Thủ hiến bang bổ nhiệm hay miễn nhiệm các bộ trưởng của bang và chọn trong số này 1 người phó của mình. Thủ hiến bang trúng cử khi nhận được đa số phiếu bầu của quốc hội bang (đa số tuyệt đối). Nếu như ở vòng bầu cử đầu tiên không có ai có được số phiếu đa số này thì quốc hội bang tiến hành bầu lại, nếu bầu lại lần 1 chưa có kết quả thì ở lần bầu lại tiếp theo ai có số phiếu bầu cao nhất sẽ trúng cử.
Hệ thống tư pháp
Quyền tư pháp được giao cho các thẩm phán, quyền này được thay mặt nhân dân để thực thi. Các thẩm phán thực hiện nhiệm vụ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Là một bang nhỏ nên Schleswig-Holstein chỉ có 1 toà án cấp cao duy nhất của bang có trụ sở ở Schleswig. Năm 1991 thì Toà án Hành chính Cấp cao được thành lập ở Schleswig. Cho tới thời điểm trên thì Toà án Hành chính Cấp cao Lüneburg là toà án hành chính cấp cao chung cho cả hai bang Niedersachsen và Schleswig-Holstein trên cơ sở 1 hiệp định nhà nước giữa 2 bang chiếu theo Chương 3, Điều 2, Luật Toà án Hành chính Liên bang VwGO.
Schleswig-Holstein là bang cuối cùng có toà án hiến pháp bang riêng từ ngày 1 tháng 5 năm 2008. Trước đó thì việc giải quyết những tranh chấp thuộc về hiến pháp trong bang được chuyển giao cho Toà án Hiến pháp Liên bang, căn cứ vào Chương 44 của Hiến pháp bang và Chương 99 của Hiến pháp Liên bang.
Nền dân chủ trực tiếp
Đề xuất của dân
Tất cả các công dân đều có quyền đề xuất ý kiến với quốc hội bang trong khuôn khổ thẩm quyền quyết định của quốc hội bằng những phương thức nhất định của thiết chế nguyện vọng chính trị. Một dự thảo luật có thể có những nội dung xuất phát từ đề xuất của dân. Nội dung dự thảo không được mâu thuẫn với những quy định cơ bản của nhà nước pháp quyền dân chủ xã hội. Các đề xuất phải có chữ ký của ít nhất 20.000 cử tri. Đại diện của họ có quyền được lắng nghe và ghi nhận. Không được phép có những đề xuất về ngân sách bang, các khoản trợ cấp xã hội và hưu trí cũng như các khoản thu nộp công ích.
Nguyện vọng của dân
Nếu quốc hội bang không nhất trí với dự thảo luật hay một văn kiện nào đó trong một thời hạn là 4 tháng thì những người đại diện cho đề xuất của dân có thể đề nghị tiến hành thăm dò nguyện vọng của dân. Quốc hội bang quyết định là có được tiến hành thăm nguyện vọng của dân theo đề nghị hay không. Một cuộc thăm dò nguyện vọng của dân có giá trị khi trong thời hạn nửa năm có ít nhất 5% cử tri nhất trí với nội dung thăm dò nguyện vọng.
Trưng cầu dân ý
Khi một cuộc thăm dò nguyện vọng của dân đã có giá trị thì trong vòng 9 tháng phải tiến hành thực hiện trưng cầu dân ý về dự thảo luật hay là một văn kiện. Quốc hội bang có thể đưa ra thêm một dự thảo luật riêng hay là mội văn kiện khác để lấy ý kiến đồng thời. Không tiến hành trưng cầu dân ý khi luật đã được quốc hội bang thông qua, do vậy trưng cầu dân ý là thừa và nếu Toà án Hiến pháp Liên bang trên cơ sở kiến nghị của quốc hội bang và chính phủ bang xác định cuộc thăm dò dân ý là vi phạm hiến pháp.
Dự thảo luật hay là một văn kiện nào khác được cuộc trưng cầu dân ý thông qua khi đa số những người tham gia ý kiến đồng ý, tuy nhiên tối thiểu phải một phần tư số lượng cử tri. Một sự thay đổi hiến pháp qua trưng cầu dân ý cần có sự nhất trí của 2/3 số người tham gia ý kiến, tuy nhiên đó phải là 1 nửa số cử tri. Quá trình lấy ý kiến chỉ tính những ý kiến Nhất trí (Có) hay Không nhất trí (Không) là có giá trị.
Ban hành luật
Các dự thảo luật được chính phủ bang, một số hay nhiều đại biểu quốc hội đề xuất họăc là xuất phát từ đề xuất của dân. Các luật được quốc hội bang hay cuộc trưng cầu dân ý thông qua. Những luật thay đổi hiến pháp cần có sự nhất trí của 2 phần 3 đại biểu quốc hội bang cũng như sự nhất trí của dân. Ngoài ra, từng câu chữ của đoạn văn bản hiến pháp được sửa đổi phải được thể hiện một cách rõ ràng và khúc chiết.
Biểu tượng
Các loại cờ
Cờ bang bao gồm 3 vạch ngang, vạch trên màu xanh dương, vạch giữa màu trắng và vạch dưới màu đỏ. Đây là những màu của huy hiệu bang và được những người Đức ở Schleswig-Holstein sử dụng lần đầu tiên vào năm 1840 trong cuộc xung đột Đức - Đan Mạch về Schleswig. Vào năm 1949 thì cờ này được người Anh công nhận chính thức. Cờ công vụ thì còn có huy hiệu bang ở trên cờ. Cờ công vụ được sử dụng khi treo cờ chính thức. Chỉ có các cơ quan nhà nước phù hợp mới được sử dụng cờ công vụ. Cờ bang thì ai cũng được tự do sử dụng và sử dụng một cách rộng rãi, đa dạng, ví dụ như các loại cờ ở vườn trước nhà. Các loại tàu thủy có cờ hiệu nhận dạng với các màu của cờ bang. Huy hiệu bang và cờ bang được Luật về Biểu tượng của bang Schleswig-Holstein ngày 18 tháng 1 năm 1957 xác định. Từ năm 2009 còn có huy hiệu công dân có dạng huy hiệu bang được vê tròn ở dưới.
Huy hiệu
Huy hiệu bao gồm (nhìn từ phía huy hiệu ra) lá cây urtica của Holstein ở bên trái và những con sư tử Schleswig ở bên phải.
Bang ca
Bang ca của Schleswig-Holstein có tên là Wanke nicht, mein Vaterland''(Đừng dao động nhé, Tổ quốc tôi), lời của Matthäus Friedrich Chemnitz, nhạc của Carl Gottlieb Bellmann.
Phân chia hành chính
Schleswig-Holstein tiến hành cải cách khu vực hành chính vào các năm 1970/1974. Số lượng các huyện giảm từ 17 xuống 11; số lượng các xã giảm từ 1371(năm 1959) xuống 1131 (năm 1994) và 199 liên xã lúc đó được gộp lại thành 119 liên xã.
Schleswig-Holstein ngày nay (thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2013) bao gồm 11 huyện, 85 liên xã và 1115 xã. Trong số các xã này thì có 901 xã có số dân ít hơn 2000 cho nên được điều hành bởi 1 xã trưởng tình nguyện. 63 xã có quy chế đô thị. Xã được nhận quy chế đô thị khi có tối thiểu 10.000 dân. Những đô thị đã nhận được quy chế này trong thời gian trước đây thì vẫn không bị mất đi. Trong các đô thị này có 1,5 triệu trong số 2,7 triệu dân của bang sinh sống. Huyện Pinneberg với 300.000 dân là huyện đông dân cư nhất của bang, huyện Rendsburg-Eckernförde với diện tích gần 2.200km2 là huyện có diện tích lớn nhất, lớn gần như bang Saarland.
Các huyện
(Trong ngoặc là các huyện lỵ và biển hiệu đăng ký xe)
Dithmarschen(Heide,HEI)
Herzogtum Lauenburg(Katzeburg,KZ)
Nordfriesland(Husum,NF)
Ostholstein(Eutin,OH)
Pinneberg(Pinneberg,PI,AG(dành cho xe điện được cấp phép trên đảo Helgoland))
Piön(Piön,PLÖ)
Rendsburg-Eckernförde(Rendsburg,RD,ECK)
Schleswig-Flensburg(Schleswig,SL)
Segeberg(Bad Segeberg,SE)
Steinburg(Itzehoe,IZ)
Stormarn(Bad Oldesloe,OD)
Các đô thị độc lập cấp huyện
(Biển hiệu xe trong ngoặc)
Flensburg(FL)
Kiel(KI)
Lübeck(HL)
Neumünster(NMS)
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2005 thì đô thị Nordestedt được nhận cơ chế đặc biệt là "đô thị lớn trực thuộc huyện", theo Điều 135a của Quy định về Tổ chức cấp xã của Schleswig-Holstein thì đây là một điều khoản thử nghiệm. Điều đó có nghĩa rằng, theo một bản thoả thuận pháp lý công cộng thì một số nhiệm vụ của huyện (ở đây là huyện Segeberg) được chuyển giao cho đô thị.
Sự cải cách các khu vực huyện trong tương lai
Vào năm 2000 thì một số huyện ở khu vực trung tâm Hamburg đã thảo luận nhằm hợp nhất thành 1 huyện ngoại thành bao quanh Hamburg. Trong phạm vi của bang thì về chủ trương cũng đã có những suy tính là giảm số lượng các huyện cón lại từ 4 đến 6 và số lượng các đô thị độc lập cấp huyện còn 2 hoặc là không còn nữa. Việc này được lên kế hoạch từ 2008, nhưng luôn bị trì hoãn.
Các đô thị và các xã
Schleswig-Holstein có đặc điểm là có một số lượng lớn các xã với cư dân ít hơn 500. Khác với các bang khác là cuộc cải cách khu vực hành chính không làm thay đổi đặc điểm trên. 1033 đô thị nhỏ và xã được tập hợp vào 85 liên xã để có thể thực hiện quản lý hành chính hiệu quả.
Arnis là đô thị nhỏ nhất của Đức với 300 cư dân. Gröde và Wiedenborstel thuộc về những xã độc lập nhỏ nhất của Đức.
Chính trị
Schleswig-Holstein là một bang có đặc tính nông thôn và Tin Lành. Trong thời kỳ sau chiến tranh thì Liên đoàn Những người bị xua đuổi khỏi quê quán và bi tước quyền lợi (Đảng BHE) đã có lúc giành được 25% số lượng cử tri. Do sự hoà nhập ngày càng tăng của những người bị xua đuổi khỏi quê quán vào xã hội Tây Đức nên đảng này không cón ý nghĩa đối với nền chính trị liên bang và bị mất phần lớn cử tri ở đây. Trong những năm 1960 thì Đảng NPD (Đảng Dân chủ Dân tộc Đức) và những năm 1990 thì Đảng DVU (Liên minh Nhân dân Đức) là những đảng cực hữu đã giành được những kết quả ở bầu cử quốc hội bang nhưng không duy trì được ở nhiệm kỳ sau.
Số phần phiếu bầu của Đảng FDP (Đảng Dân chủ Tự do) và Đảng Xanh ở Schleswig-Holstein ít hơn những bang Tây Đức khác. Sự phân chia phiếu bầu trong bang rất khác nhau. Số phần phiếu bầu của Đảng SPD (Đảng Dân chủ Xã hội Đức) ở các thành phố cấp huyện và ở khu vực quanh Hamburg có xu hướng cao hơn; số phần phiếu bầu của Đảng CDU (Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo Đức) ở các huyện Nordfriesland và Dithmarschen cũng như ở các xã nông thôn của các huyện Steinburg, Rendsburg-Eckernförde và Segeberg có xu hướng cao hơn.
Một điểm đặc biệt ở Schleswig-Holstein là Hiệp hội Cử tri Nam Schleswig (Đảng SSW). Đảng này đại diện cho quyền lợi của người thiểu số Đan Mạch, một phần người thiểu số Fri-dơ và đã vượt được rào cản 5% theo quy định của luật bầu cử để có thành phần tham gia trong quốc hội bang.
Chính phủ bang
Chính phủ bang được thành kể từ sau khi bầu cử Quốc hội bang Schleswig-Holstein vào ngày 6 tháng 5 năm 2012 từ liên minh các đảng SPD, Xanh và SSW; liên minh này chỉ chiếm một phiếu hơn quá bán.
Thuộc nội các của Thủ hiến bang Torsten Albig gồm có:
Andreas Breitner (SPD), Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Waltraud Wende (không đảng phái), Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Khoa học
Kristin Alheit (SPD), Bộ trưởng Bộ Xã hội, Y tế, Gia đình và Bình đẳng giới
Reinhard Meyer (Đảng Xanh), Bộ trưởng Bộ Chuyển đổi năng lượng, Môi trường, Nông nghiệp và Nông thôn đồng thời là Phó Thủ hiến bang
Monika Heinold (Đảng Xanh), Bộ trưởng Bộ Tài chính
Anke Spoorendonk (SSW), Bộ trưởng Bộ Tư pháp, châu Âu, Văn hoá đồng thời là Phó Thủ hiến bang
Các Thủ hiến bang
Các địa phương kết nghĩa của các nước
Ngoài ra, bang còn triển khai Văn phòng Schleswig-Holstein ở khu vực biển Baltic để thúc đẩy các mối quan hệ truyền thống giữa các nước vùng biển Baltic. Văn phòng Schleswig-Holtein hoạt động ở Danzig, Kaliningrad, Sankt-Peterburg, Vilnius, Riga và Tallinn.
Kinh tế
Schleswig-Holtein là bang có cơ cấu kinh tế yếu từ lâu với chỉ có 2 thành phố lớn là Kiel và Lübeck. Tương đối nhiều cư dân vẫn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Công nghiệp sản xuất ở đây phát triển tương đối chậm và đã sớm bị ảnh hưởng bởi sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Sự thống nhất nước Đức năm 1990 mà qua đó Schleswig-Holstein từ một bang nhận ngân sách thành bang giao nộp ngân sách theo cân đối tài chính chung của các bang đã mang lại những hậu quả kinh tế không thuận lợi; sự cắt giảm lực lượng quân đội liên bang và hải quân đã gây những ảnh hưởng nặng nề cho nền kinh tế của bang.
Ở góc độ kinh tế có thể phân biệt 3 khu vực lớn là: Khu vực thuận lợi bao quanh Hamburg ở vùng đô thị Hamburg, còn được gọi là "vành đai tập trung" với ngành chế tạo máy và dịch vụ; khu vực có cơ cấu kinh tế đặc biệt yếu ở vùng bờ biển phía Tây với các ngành nông nghiệp, du lịch và năng lượng gió; các thành phố cảng ở bờ biển phía Đông (đặc biệt là Flensburg, Kiel và Lübeck) với các ngành thương mại, giao thông, đóng tàu và năng lượng gió.
Công ty Trang thiết bị Hải quân ThyssenKrupp Marine Systems (TKMS, tới cuối 2012 là HDW) ở Kiel là nhà máy đóng tàu lớn nhất nước Đức, nhà máy này nổi tiếng thế giới với các loại tàu ngầm lớp 212A và 214 chạy bằng động cơ tế bào nhiên liệu. Công ty Đóng tàu Flensburg (Flensburger Schiffbau-Gesellschaft/FSG) chuyên đóng tàu vận chuyển phương tiện giao thông động (tàu RoRo) hoặc tàu kết hợp vận chuyển công ten nơ và phương tiện giao thông (tàu ConRo). Các công ty Lürssen Kröger (ở Schacht-Audorf) và Nobiskrug (ở Rendsburg) dẫn đầu về đóng du thuyền siêu lớn. Nhà máy Đóng tàu Flender Werft ở Lübeck ngừng hoạt động từ năm 2002.
Trong những năm vừa qua, thương mại đường biển với các nước tiếp giáp biển Baltic đạt được nhiều kết quả. Cảng Lübeck,tuyến giao thông Jütlandlinie và tuyến giao thông Vogelfluglinie đã đóng một vai trò đặc biệt nhằm kết nối tới Xcan-đi-na-vi, Phần Lan, Nga và các nước vùng Baltic. Cảng Lübeck với 30 triệu tấn hàng hoá xếp dỡ trong năm 2007 là cảng lớn nhất của Đức ở biển Baltic. Số lượng các chuyến tàu biển du lịch cập cảng Kiel và Hamburg trong những năm qua đã đạt những con số kỷ lục.
Hai phần ba số đoàn tàu đánh cá của Đức neo đậu ở Schleswig-Holstein. Gần 1/4 số công ty vận tải đường thủy của Đức đóng trụ sở ở bang này, khoảng 20% doanh thu đóng tàu được tạo ra ở đây.
Cơ quan điều hành GMSH có vai trò là cơ quan giám sát pháp lý AöR đối với nhiệm vụ quy hoạch và xây dựng của bang Schlewig-Holstein cũng như của Liên bang trong khu vực bang.
Ngành du lịch ở Schleswig-Holstein có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với các bang khác. Trong năm 2002, khoảng 80.000 lao động trong ngành đã tạo nên doanh thu 5,2 tỷ Euro. Phần đóng góp của du lịch đối với thu nhập quốc dân là 4,6% (Tỷ lệ bình quân trong liên bang là 2,8%).
Đặc biệt các đảo ở Bắc Fri-dơ (trước hết là Sylt) được nhiều khách du lịch – đa phần là người Đức – ưa thích. Tuy nhiên, các bãi tắm ở biển Baltic (ví dụ như ở Grömitz, Timmendorf, Laboe, Schönberg, Eckernförde hay là Glücksburg) cũng có ý nghĩa lớn.
Thương mại cửa khẩu cũng đóng một vai trò đối với nền kinh tế của Schleswig-Holtein. Theo một cuộc thăm dò ý kiến năm 2011 thì có gần 60% hộ gia đình ở Đan Mạch mua bia và nước ngọt ở các chợ biên giới Đức. Doanh thu của thương mại cửa khẩu hàng năm là 800 triệu Euro.
Tại các trung tâm mua sắm như Scandinavian Park ở Handowitt và Grenzmarkt zur Krone ở Harrislee thì người tiêu dùng ở Xcan-đi-na-vi đã tạo nên 25% doanh thu, theo báo cáo của Phòng Công thương IKT Flensburg.
So sánh với chỉ số tổng thu nhập quốc dân BIP của EU thì sức mua của Schleswig-Holtein đạt chỉ số 104,1 (EU-27:100) (2004). Năm 2010, kết quả kinh tế của bang tính theo BIP đạt 75,6 tỷ Euro. Mức nợ vào cuối năm 2010 là 20 tỷ Euro.
Mười địa điểm quan trọng nhất của lực lượng lao động có đóng bảo hiểm xã hội là:
Trong ngành năng lượng tái tạo hiện nay có hơn 15.000 lao động. Ngay trong khu vực nông thôn thì đã có nhiều cơ sở mới.
Bảo đảm năng lượng
Schleswig-Holstein có 3 nhà máy điện hạt nhân: Brunsbüttel, Brokdorf và Krümmel. Chỉ nhà máy KKW Brokdorf là còn hoạt động, 2 nhà máy khác bị đóng cửa sau Thảm họa Hạt nhân Fukushima (tháng 3/2011) và sẽ đóng cửa vĩnh viễn căn cứ vào các điều khoản sửa đổi của Luật Hạt nhân Atomaustieg.
Sự sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo đang được đẩy mạnh trong khuôn khổ của quá trình chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là năng lượng gió đang giữ một vai trò quan trọng. Việc sử dụng năng lượng tái tạo đã đạt được những sự phát triển vượt bậc về tầm quan trọng tại Schleswig-Holstein, một trong những bang đi tiên phong trong lĩnh vực này, từ những năm 1990, sau khi từ những năm 1980 những thiết bị thử nghiệm đầu tiên như thiết bị Growian được lắp đặt. Bên cạnh những thiết bị trên đất liền tiếp tục giữ vai trò quan trọng nhất thì trong thời gian qua, những nhà máy điện gió Offshore cũng được tích cực mở rộng ở biển Bắc và biển Baltic. Cuối năm 2012 có hơn 2.900 thiết bị điện gió với tổng công suất gần 3,6 GW ở bang, đáp ứng một nửa nhu cầu điện của Schleswig-Holstein. Chính phủ bang có ý định là nâng cao thêm thành phần điện gió trong tiêu thụ điện tổng cộng tới năm 2020 lên 300 đến 400% để có thể cung cấp điện cho các bang khác.
Những cơ sở sử dụng lao động nhiều nhất
Năm 2006, ở Schleswig-Holstein có 10 cơ sở sử dụng lao động nhiều nhất là:
Quân đội Liên bang: 25.700. từ năm 2010
Trung tâm Y tế trường đại học Universitätsklinikum Schleswig-Holstein Kiel và Lübeck: 10.706
Công ty Possehl, Lübeck: 7.117
Bưu điện Deutsche Post DHL, Bonn: 7.050
Tập đoàn coop eG, Kiel: 6.385
Tập đoàn viễn thông Deutsche Telekom AG, Bonn: 5.637
Công ty Damp Holding AG, Damp: 4.416
Công ty Bockhol-Gruppe GmbH, Lübeck: 4.352
Tập đoàn Drägerwerk AG, Lübeck: 3.488
Đường sắt Quốc gia Deutsche Reichbahn AG, Berlin: 3.150
Nhà máy đóng tàu Howaldtswerke Deutsche Werft GmhB, Kiel: 2.974
Giao thông
Bang Schleswig-Holstein nối Đức với Đan Mạch và qua đó với Xcan-đi-na-vi. Các mạch giao thông chính ở đây chạy theo tuyến giao thông Giút-lan Jütlandlinie (Hamburg- Flensburg- Fredericia- Kopenhagen), tuyến giao thông Đường chim bay Vogelfluglinie (Hamburg- Lübeck- Puttgarden- Rödby- Kopenhagen), qua trục bờ biển phía Tây (Hamburg- Itzehoe- Heide- Husum- Sylt/Ésbjerg và theo hướng Đông-Tây qua kênh đào Biển Bắc-Baltic, sông Elbe và đường bộ Hamburg- Berlin. Những giao điểm giao thông quan trọng là các cảng Kiel, Lübeck cũng như giao điểm giao thông trên bộ Neumünster. Trong lúc giao thông trên bộ (đường bộ và đường sắt) theo hướng Bắc-Nam trước hết tập trung về Hamburg thì trục chính của giao thông đường thủy là kênh đào Biển Bắc- Baltic theo hướng Đông-Tây. Các cảng với công suất xếp dỡ lớn nhất nằm ở Lübeck theo hướng biển Baltic và ở Brunsbüttel theo hướng biển Bắc. Sân bay Lübeck- Blankensee đạt được vai trò trong thời gian gần đây là nơi hạ cánh của các hãng hàng không giá rẻ như Ryanair.
Thành phần vận chuyển của các hệ thống giao thông năm 2004:
Đường bộ: 162,4 triệu tấn (75% từ 1998)
Đường sắt: 5,7 triệu tấn
Đường thủy:
Nội thủy: 3,8 triệu tấn
Kênh đào Biển Bắc- Baltic 80,6 triệu tấn (100% từ 1998)
Đường bộ
Những tuyến đường cao tốc quan trọng nhất xuất phát từ Hamburg. Đó là đường A1 đi Lübeck, tiếp tục theo tuyến giao thông Vogelfluglinie kết nối với vùng Öresundregion Kopenhagen/Malmö, đường A7 đi qua Neumünster và Rendsburg về Flensburg với một nhánh về Kiel là đường A215, đường A23 về Heide với đường tiếp nối về Husum và các đảo Bắc Fri-dơ. Đường A20 đi từ Bad Segeberg qua Lübeck tới bờ biển Baltic của bang Mecklenburg-Vorpommern và tương lai sẽ đi qua hạ lưu sông Elbe tại Glückstadt. Đường A24 nối vùng đô thị Hamburg với vùng đô thị Berlin/Brandenburg. Đường A25 dài 18 km nối Geesthacht với Hamburg. Mạng đường bộ Schleswig-Holstein bao gồm 498 km đường cao tốc, 1601 km đường liên bang, 3669 km đường cấp bang và 4112 km đường liên huyện.
Vận chuyển bằng xe buýt
Hệ thống xe buýt được phát triển tốt và cơ bản do Công ty Autokraft GmhB đảm nhận theo yêu cầu của các huyện.
Đường sắt
Tuy thực tế là 1 bang đồng bằng, song ngành đường sắt ở Schleswig-Holstein có 1 vai trò tương đối lớn đối với du lịch và vận chuyển ngưới đi làm việc tới các trung tâm Hamburg, Kiel và Lübeck. Điều đó thể hiện vào mùa hè ở một số tuyến đường, đặc biệt là tuyến Hamburg- Sylt, thường bị quá tải.
Các tuyến đường sắt chính bắt đầu từ Hamburg và từ đó đi Kiel, Lübeck và Flensburg. Tuyến đường sắt Marschbahn cũng bắt đầu từ Hamburg và kết thúc ở Westerland trên đảo Sylt. Từ những năm 1960 đã có phà chở tàu hỏa kết nối Fehmarn tới Lolland theo lộ trình của tuyến giao thông Vogelfluglinie (đường chim bay) là một kết nối giao thông quan trọng. Từ khi khai trương giải bơi ma-ra-tông chuyên nghiệp ở Đan Mạch thì việc vận chuyển hàng hóa bằng tàu hỏa trên quãng đường này bị đình lại. Dọc theo bờ biển phía Tây là tuyến đường sắt chưa điện khí hóa Hamburg- Itzehoe- Heide- Husum- Sylt/Esbjerg. Theo tuyến này, tại Heide, Husum và Niebüll có các nhánh phụ đi tới các vùng hẻo lánh:
Tuyến Heide- Büsum
Tuyến Husum- Bad St. Peter- Ording
Tuyến Niebüll- Dragebüll
Một trục chính quan trọng khác là tuyến đường sắt Hamburg- Altona- Kiel mà tại Münster có nhánh đi Flensburg và từ đây có tuyến đường sắt Flensburg- Fredericia đi Đan Mạch. Ba tuyến đường đôi chạy bằng điện này có thể xem là một phần của tuyến giao thông Jütlandlinie.
Bờ biển phia Đông có các tuyến đường đơn chưa điện khí hóa, từ Bắc về Nam có các tuyến:
Tuyến Kiel–Flensburg
Tuyến Kiel–Lübeck
Tuyến Lübeck–Puttgarden
Tuyến Lübeck–Lübeck-Travemünde Strand – chạy điện từ tháng 12/2008
Tuyến Lübeck–Bad Kleinen
Ngoài ra, từ Lübeck có 2 tuyến đi Hamburg
Tuyến Lübeck–Lüneburg, đổi tàu ở Büchen đi theo tuyến Berlin-Hamburg
Tuyến Lübeck–Hamburg
Tuyến thứ 2 là tuyến có nhiều hành khách nhất ở Schleswig-Holstein.
Ở phía Bắc Schleswig-Holstein, từ khi ngừng chạy tuyến Flensburg- Niebüll vào những năm 1980 thì chỉ còn 2 tuyến đường Đông –Tây:
Tuyến Husum- Kiel
Tuyến Neumünster- Heide
Ở khu vực quanh Hamburg còn có một số tuyến đường sắt của Công ty AKN và tuyến Neumünster- Bad Oldesloe
Ngoài ra còn có 4 tuyến đường sắt theo mùa và tham quan bảo tàng sau:
Tuyến Süderbrarup–Kappeln
Tuyến Kiel-Schönberg
Tuyến Malente-Gremsmühlen–Lütjenburg
Tuyến Bergedorf-Geesthacht
Các doanh nghiệp đường sắt quan trọng nhất là DB Regio, AKN và Nord- Ostsee- Balin. Ngoài ra còn có những tuyến đường sắt tư nhân. Ga quan trọng nhất là ga Lübeck.
Giao thông đường sắt địa phương ở bang vận hành theo nhịp giờ, bởi vậy trên mỗi cung đường thì tối thiểu cứ 2 giờ có 1 chuyến tàu, trên hầu hết các cung đường là mỗi giờ 1 chuyến, có chỗ 30 phút 1 chuyến. Ngoại lệ là cung đường Niebüll- Dagebüll tàu chạy theo bảng giờ tàu.
Giao thông đường sắt đường dài theo bảng giờ tàu. Mật độ các cặp tàu nhanh InterCity trên tuyến Marschbahn là dày nhất. Tàu cao tốc ICE chạy tới Lübeck và Kiel cùng qua Hamburg, tới Kiel còn qua Neumünster. Từ năm 2007 đã có tàu cao tốc ICE đầu máy diesel đi Kopenhagen qua Lübeck, Oldenburg ở Holstein và Puttgarden, đi Ahrus qua Neumünster, Rendsburg và Flensburg.
Giao thông đường biển
Bang Schleswig-Holstein có tất cả 46 cảng và bến tàu công cộng, trong đó có 4 cảng có chức năng vận chuyển liên vùng: Kiel, Lübeck/Travemünde và Puttgarden ở biển Baltic, Brunsbüttel ở biển Bắc. Kiel và Lübeck giữ vai trò quan trọng trong vận chuyển hàng hóa tới Xcan-đi-na-vi và ngày càng quan trọng trong vận chuyển hàng hóa tới Đông Âu. Ngoài ra, Lübeck/Travemünde và cả Kiel là những cảng quan trọng cho phà và du lịch tàu biển (năm 2013, có 153 tàu du lịch biển, 397.000 hành khách bắt đầu hoặc kết thúc hành trình du lịch biển ở 1 cảng của Schleswig-Holstein). Puttgarden là cảng của Đức trong tuyến giao thông Vogelfluglinie đi Đan Mạch. Brunsbüttel là 1 cảng quan trọng cho hàng hóa thông dụng và ngoài ra còn là một cơ sở của ngành công nghiệp điện gió Offshore. Theo khối lượng hàng hóa xếp dỡ năm 2006 thì những cảng lớn nhất là:
Lübeck: (tính cả Lübeck-Travemünder) 30,6 tr. Tấn (2010: 26,74 tr. T)
Brunsbüttel: 7,7 tr. T (2013: 8,4 tr. T)
Kiel: 5 tr. T (2013: 3,7 tr. T)
Puttgarden: 3,8 tr. T (2013: 4,8 tr. T)
Kênh đào Biển Bắc- Baltic với 41.000 chuyến tàu qua lại mỗi năm là tuyến đường thủy nhân tạo được sử dụng nhiều nhất thế giới. Giao thông tàu thủy trên kênh đào tăng xấp xỉ 3 lần từ 1998 đến 2006.
Hàng không
Hai sân bay dân sự lớn nhất bang nằm ở Kiel và Lübeck. Trong khi sân bay Kiel hiện nay không có các chuyến bay thì sân bay Lübeck với 697.559 lượt khách trong năm 2009 cũng có ý nghĩa với du lịch đường dài do được các hãng hàng không giá rẻ sử dụng. Sân bay Sylt trong thời gian qua có vai trò ngày càng lớn, từ năm 2005, hàng ngày có nhiều chuyến bay dịch vụ theo tuyến của các hãng hàng không lớn, năm 2009 có 157.000 khách bay. Sân bay ở Uetersen tiếp tục có được vai trò nhất định. Vận chuyển hành khách phát triển liên tục và các máy bay ngày càng lớn hơn. Ngoài ra còn có những sân bay nhỏ như sân bay ở Flensburg và Hartenholm. Trên các đảo Helgoland và Fehmarn có những sân bay đặc biệt. Tuy nhiên, sân bay quan trọng nhất đối với bang là sân bay Hamburg, chỉ cách ranh giới phía Nam của bang ít km, chỉ với đường băng cất cánh số 2 cũng đủ cho cả khu vực Schleswig-Holstein.
Giáo dục
Schleswig-Holstein có 3 trường đại học tổng hợp, trong đó chỉ có trường giàu truyền thống nhất là Trường Đại học Tổng hợp Christian-Albrechts-Universität ở Kiel là một trường đại học tổng hợp có đầy đủ các khoa. Ngoài ra có 1 trường đại học tổng hợp với khoa y và khoa kỹ thuât- khoa học tự nhiên ở Lübeck và 1 trường đại học tổng hợp có nguồn gốc từ đại học sư phạm ở Flensburg. Thêm vào đó ở bang còn có 1 trường đại học nghệ thuật, 1 trường đại học âm nhạc ở Lübeck, 4 trường đại học chuyên nghiệp (Kiel, Lübeck, Flensburg và Heide) và 1 trường đại học chuyên nghiệp hành chính. Thêm nữa là ở Schleswig-Holstein còn có 3 trường đại học dân lập (Elmshorn, Pinneberg, và Wedel). Tổng cộng trong học kỳ mùa đông 2003/2004 có 45.542 sinh viên ở Schleswig-Holstein, trong đó có 26.510 người ở các trường đại học tổng hợp và 16.973 người ở các trường đại học chuyên nghiệp.
Trong năm học 2007/2008 có 335.473 học sinh ở các trường giáo dục chung, trong đó có 36% là học sinh tiểu học, 25% là học sinh trung học phổ thông, 18% là học sinh trường thực tiễn, 11% học sinh trường đại trà, 6% học sinh trường tích hợp và 3% là học sinh trường đặc biệt. Ngoài ra còn có các trường Waldorf tự do (1% số học sinh) và các trường trung học ban đêm (0,1%).
Một điều đặc biệt trong nền giáo dục ở Schleswig-Holstein là có tất cả 48 trường Đan Mạch ở phần đất Schleswig-Holstein, do Hiệp hội Các trường Đan Mạch Nam Schleswig-Holstein quản lý. Bằng tốt nghiệp bằng 2 thư tiếng ở các trường này được mặc nhiên công nhận ở Đức và Đan Mạch.
Khoa học và nghiên cứu
Các trường đại học tổng hợp với chức năng nghiên cứu khoa học và truyền tải kiến thức tạo chỗ dựa vững chắc cho hệ thống các cơ sở nghiên cứu ở Schleswig-Holstein, hệ thống này còn được bổ sung bởi các viện nghiên cứu ngoài trường đại học. Các nghiên cứu ở Schleswig-Holstein ở cấp độ được quốc tế thừa nhận được tiến hành ở các lĩnh vực nghiên cứu biển, y sinh và kỹ thuật y tế cũng như khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Các viện nghiên cứu ngoài trường đại học kết nối quá trình từ nghiên cứu cơ bản tới nghiên cứu ứng dụng cho tới chuyển giao khoa học và công nghệ. Đa số các viện nghiên trực thuộc các cơ quan nghiên cứu quốc gia như Hội Max-Plank-Gesellschaft, Liên hiệp Leibnitz-Gemeinschaft và Hội Fraunhofer-Gesellschaft. Ba trong số các viện nghiên cứu ngoài trường đại học ở Schleswig-Holstein là thành phần của tổ chức khoa học lớn nhất nước Đức là Liên hiệp Helmholtz của các trung tâm nghiên cứu Đức, đó là Cơ sở Sinh học Helgoland (Viện Nghiên cứu Cực và Biển Alfred Wegener), Trung tâm Helmholtz Geesthacht- trung tâm nghiên cứu vật liệu và bờ biển, Trung tâm Helmholtz nghiên cứu đại dương ở Kiel.
Văn hóa
Nền văn hóa của Schleswig-Holstein do ảnh hưởng của văn hóa Đan Mạch và Fri-dơ nên rất phong phú. Nền văn hóa này được đặc trưng bởi các yếu tố lịch sử địa lý như vị trí nằm giữa 2 biển Bắc và Baltic, cũng như nền văn minh nông nghiệp sơ kỳ. Đặc biệt ở phía Bắc của bang thì ảnh hưởng của Xcan-đi-na-vi trong kiến trúc và tập quán sinh hoạt rất rõ nét.
Schleswig-Holstein là 1 bang với truyền thống văn học phong phú. Chứng minh điều này là những danh nhân như Johann Heinrich Voß, Matthias Claudius, Friedrich Hebbel, Theodor Storm, Klaus Groth cũng như Heinrich và Thomas Mann. Thomas Mann với tiểu thuyết "Buddenbrooks" đă đem lại vinh quang cho văn học Lübeck. Nhiều tác giả đương đại cũng đã góp phần viết nên lịch sử văn học Đức. Đó là nhà văn đoạt giải Nobel Văn học Günter Grass (sống ở huyện Herzogtum-Lauenburg), công dân danh dự của Schleswig-Holstein Siegfried Lenz (sống ở Rendsburg), nhà văn Günter Kanert và nhà thơ nữ quá cố Sarah Kirsch. Một điều đặc biệt là nền văn học Bắc Fri-dơ.
Ở lĩnh vực âm nhạc thì vào năm 1986, Justus Frantz đã tổ chức nên Festival Âm nhạc Schleswig-Holstein là Festival âm nhạc cổ điển lớn nhất châu Âu. Hàng năm, vào tháng 7 và tháng 8 có khoảng 130 buổi hòa nhạc với trên 100.000 khán giả phân bố tại 30-50 điểm biểu diễn trong toàn bang. Bên cạnh đó, trong khuôn khổ của Học viện Đào tạo Dàn nhạc thuộc Trung tâm Văn hóa bang ở Salzau, của các khoa đào tạo nghệ sĩ ở Đại học Âm nhạc Lübeck, cũng như của Học viện Đào tạo Dàn hợp xướng có một chương trình phát triển tài năng trẻ từ khắp các nước, chương trình này rất nổi tiếng trên thế giới. Festival Âm nhạc là sự kiện trọng tâm hàng năm của bang.
Liên hoan Nhạc kịch Eutin (Opera trong vườn lâu đài) được tổ chức năm 1951 vào dịp kỷ niệm 125 năm ngày mất của nhà soạn nhạc Carl Maria von Weber là người được sinh trưởng ở Eutin. Từ những buổi biểu diễn ban đầu của vở nhạc kịch Opera của Weber "Der Freischütz" đã phát triển thành một chuỗi các buổi diễn (mỗi năm 3 vở Opera với 22- 25 buổi diễn ở vườn Lâu đài Eutin) thu hút hàng năm khoảng 50.000 khán giả tới Đông Holstein.
Festival nhạc Heavy Metal Wacken-Open-Air-Festival được tổ chức hàng năm là 1 sự kiện quốc tế nổi bật, là liên hoan nhạc Metal lớn nhất thế giới. Từ năm 1989, vào dịp lễ Hiện Xuống luôn có một buổi biểu diễn nhạc Blues ở Eutin với khoảng 15.000 khán giả.
Bên cạnh nhiều sân khấu nhỏ thì Schleswig-Holstein có 3 nhà hát đa năng lớn: Nhà hát Lübeck, Nhà hát Kiel và Nhà hát bang Schleswig-Holstein ở Schleswig. Bad Segeberg nổi tiếng nhờ Liên hoan Tác phẩm của Karl May được tổ chức hàng năm.
Phạm vi đề tài của khoảng 250 bảo tàng ở Schleswig-Holstein được phân bố rộng. Đó là những bảo tàng trung tâm của Quỹ Schloss-Gottorf, những lâu đài lịch sử, các ngôi nhà trong các thành phố, một số lượng lớn các bảo tàng địa phương có giá trị, tất cả thể hiện được quá khứ và đặc điểm riêng của con người và đất nước, ví dụ như Bảo tàng Carl-Haeberlin-Friesenmuseum ở Wuk trên đảo Föhr. Bảo tàng của Quỹ Nolde ở Seebüll trưng bày những tác phẩm của họa sĩ thuộc trường phái Biểu hiện Emil Nolde ngay trong căn nhà ông đã sống. Bảo tàng ngoài trời Schleswig-Holstein ở Kiel-Molfsee trưng bày những ngôi nhà lịch sử của toàn bang.
Tám nhà trưng bày và bảo tàng ở Kiel đã liên kết lại thành Hội Bảo tàng cạnh biển. Thuộc hội này gồm có Nhà trưng bày Đồ cổ của Bảo tàng Nghệ thuật Kiel, nhà bể trưng bày sinh vật biển GEOMAR, Bảo tàng Nghệ thuật Kiel, Nhà trưng bày Lịch sử y dược, Phòng triển lãm tranh thành phố Kiel, Bảo tàng Giao thông đường thủy và thành phố Warleberger Hof, nhà nuôi cá cũng như bảo tàng động vật.
"Những ngày phim phương Bắc" ở Lübeck là một trong những liên hoan phim Bắc Đức có truyền thống và lớn nhất. Liên hoan phim này dành cho phim của phương Bắc: có thể xem các bộ phim của Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Ai-xlen, Phần Lan, Extôni, Latvia và Litva.
Thể thao
Schleswig-Holtein có bờ biển dài nên thể thao nước rất phát triển như câu cá, song trước hết thì Kiel là một trong những trung tâm thuyền buồm của thế giới, được công nhận qua các cuộc đua thuyền buồm của các thế vận hội mùa hè 1936 và 1972. Với Tuần lễ Kiel và Tuần lễ Travemünde thì bang là nơi tổ chức của 2 trong số các cuộc đua thuyền buồm lớn nhất và giàu truyền thống nhất của thế giới. Theo truyền thống, trong Tuần lễ Vũng biển vào mùa thu ở vũng Flensburg, các vận động viên tham gia vào những cuộc đua thuyền cuối cùng của năm. Giải đua thuyền lâu đời nhất của bang là cuộc đua Aalregatta mà trong một thời gian dài được tổ chức thành cuộc đua mở màn cho Tuần lễ Kiel. Tổng cộng toàn bang có 230 câu lạc bộ quy tụ 32.000 vận động viên thuyền buồm.
Sylt và Flemarn được xem là thánh địa của lướt sóng. Ở thành phố đua thuyền Ratzeburg có 1 trung tâm huấn luyện của liên bang và 1 cơ sở huấn luyện cho thế vận hội, có nhiều đội có thành tích thường xuyên luyện tập ở đây. Có thể kể ra đây đội đua thuyền 8 thành viên của Đức năm 1960 và 1968 được đào tạo ở Ratzeburg. Từ năm 2000 đã hình thành ở bờ biển phía Đông và Tây loại hình thể thao lướt ván diều kéo. Ở St. Peter Ording có nhiều cuộc đua của loại hình thể thao này.
Bóng ném
Ở Schleswig-Holstein có 2 câu lạc bộ bóng ném thường xuyên nằm ở tốp đầu trong giải hạng nhất Bundesliga của liên bang, trong bóng ném châu Âu và thế giới: Đó là các câu lạc bộ TWH Kiel và SG Flensburg-Handewitt. Danh tiếng này được chứng minh trong năm 2007 với trận chung kết Cúp C1 bóng ném bao gồm 2 đội Schleswig-Holstein sau khi các cầu thủ của Kiel đã đánh bại đối thủ Đan Mạch để vào chung kết. Ở hạng nhất của liên bang có thời gian cón có các đội của VfL Bad Schwartau, TSB Flensburg, SG Weiche-Handewitt và TSV Altenholz. Đội Handewitt từ Liên minh thể thao Weiche-Handewitt trước đây nhập với đội TSB Flensburg thành đội SG Flensburg-Handewitt.
Bóng đá
Có tiếng ở liên bang là các đội bóng có truyền thống VfB Lübeck (Giải hạng 4, sân vận động Lohmühle) và Holstein Kiel (Giải hạng 3, sân vận động Holstein), đội Holstein Kiel từng vô địch Đức năm 1912.
Schleswig-Holstein là bang duy nhất ở Tây Đức không có đội bóng nào đại diện trong Giải bóng đá hạng nhất Füßball-Bundesliga. Trước khi có Giải hạng nhất vào năm 1963 thì đội Holstein Kiel chơi ở giải Oberliga Nord (Ngoại hạng miền Bắc) vào các năm 1947-1963 và VfB Lübeck vào các năm 1947-1950, 1952-1954, 1957/1958, 1959-1961, 1962/1963. Đây là hạng cao nhất lúc bấy giờ. Ngoài ra còn có các đội Itzehoer SV (1950/1951), Heider SV (1956/1957, 1960/1961), VfR Neumünster (1955-1963) và 1.FC Phönix Lübeck (1957-1960) cũng có mặt ở giải Oberliga. Trước đó, từ 1933 đến 1944, có 14 câu lạc bộ thuộc Hạng nhất trong giải vùng Gauliga Nordmark và Gauliga Schleswig-Holstein. Đội TSV Uetersen vô địch Giải hạng 3 trong bảng phân vùng Hamburger Germania vào năm 1950, được thăng hạng Hamburger Amateurliga và giành ngôi vô địch năm 1956/1957. Đội VfB Lübeck được lên hạng 2 liên bang một thời gian ngắn vào các năm 1995 và 2002, đội lọt vào vòng bán kết Cúp Quốc gia Đức FDB-Pokal vào năm 2004.
Bóng đá Mỹ
Schleswig-Holstein có 2 đội thuộc Giải hạng nhất môn bóng đá Mỹ là đội Kiel Baltic Hurricanes của Câu lạc bộ ASC Kiel và đội Lübeck Cougars. Các đội này chơi ở hạng GFL, là hạng cao nhất của liên bang. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2010 đội Hurricanes gặp đội Berlin Adler ở chung kết và thắng 17:10. Một năm sau đó thì họ thua đội Schwäbisch Hall Unicorns ở trận chung kết với tỷ số 44:48.
Các loại hình thể thao khác
Câu lạc bộ có nhiều hội viên nhất là Câu lạc bộ VfL Pinneberg thuộc Hiệp hội Thể thao Schleswig-Holstein.
Tại Câu lạc bộ VfB Lübeck bên cạnh bóng đá và bóng ném còn có bóng bàn, các tuyển thủ bóng bàn nam và nữ đã có một thời gian dài ở Giải hạng nhất Bundesliga, đội nam đã có lần đoạt cúp châu Âu (ETTU-Cup). Tại Câu lạc bộ VfB Lübeck thì môn cầu lông cũng có nhiều thành tích, tại đây có 1 cơ sở đào tạo vận động viên trẻ của liên bang. Lübeck, Kiel và Flensburg là những nơi giàu truyền thống với môn quyền Anh.
Tại bờ biển phía Tây ở Nordfriesland và Dithmarschen môn bi ném rất phổ biến. Thành trì của môn bóng đấm là Kellinghusen, Schülp b. Nortorf và Gnutz. Ở bãi biển Timmendorf người ta chơi khúc côn cầu từ cuối những năm 1980. Câu lạc bộ khúc côn cầu đặc biệt có nhiều thành tích vào đầu những năm 1990 và hiện nay là câu lạc bộ chuyên nghiệp duy nhất chơi khúc côn cầu ở Schleswig-Holstein.
Hàng năm ở Brokstedt và vòng đua Dithmarschen ở Albersdorf có tổ chức đua mô tô tốc độ. Tại vòng đua Egon-Müller-Ring ở Jübek có nhiều giải chung kết chạy của thế giới và ở đây cũng được tổ chức giải đua xe thế giới Langbahn-WM-Grand-Prix. Các môn thể thao khác như cưỡi ngựa cũng rất phổ biến và có nhiều vận động viên thành tích cao.
Các sự kiện được tổ chức thường xuyên
Festival Âm nhạc Schleswig-Holstein
Ngày Schleswig-Holstein
Tuần lễ Kiel
Lễ hội Kieler Umschlag
Tuần lễ Travemünde
Cúp Lướt ván Thế giới Windsurf Word Cup Sylt ở Westerland
Những ngày Phim phương Bắc Lübeck
Liên hoan Âm nhạc Karl-May ở Bad Segeberg
Liên hoan Nhạc Metal Wacken Open Air
Hội chợ Nông nghiệp NORLA ở Rendsburg
Giải vô địch Bóng chuyền bãi biển Đức ở Timmendorf
Những tuần lễ Cá trích muối ở Glückstadt
Những ngày Cá trích ở Kappeln
Công dân Danh dự
Sáu người sau đây là Công dân Danh dự của Schleswig-Holstein
Helmut Schmidt, nhận danh hiệu năm 2000, nguyên là Thủ tướng Đức, đại biểu Quốc hội liên bang
Uwe Ronneburger, 2000, nguyên là Phó Chủ tịch Đảng FDP của liên bang và Chủ tịch Đảng FDP của bang
Gerhard Stoltenberg, truy tặng 2002, nguyên Thủ hiến bang Schleswig-Holstein và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính liên bang, đại biểu Quốc hội liên bang
Siegfried Lenz, 2004, nhà văn Đức nổi tiếng (nội dung nhiều cuốn sách của ông nói về Schleswig-Holstein) sống ở Telenhusen cạnh Rendsburg một thời gian nhất định trong năm.
Armin Mueller-Stahl, 2010, diễn viên, sống ở Schleswig-Holstein, tham gia công việc ở Đại học Âm nhạc Lübeck và nhiều bảo tàng khác nhau của Schleswig-Holstein
Heide Simonis, 2004, nguyên là nữ Thủ hiến bang Schleswig-Holstein (1993-2005)
Tham khảo
Bang của Đức
Vùng cấp một Liên minh châu Âu |
540774 | https://vi.wikipedia.org/wiki/178 | 178 | Năm 178 là một năm trong lịch Julius.
Sự kiện
Sinh
Mất
Tham khảo
Năm 178 |
872646 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Setodes%20memnon | Setodes memnon | Setodes memnon là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.
Chú thích
Tham khảo
Động vật khu vực sinh thái Indomalaya
Setodes |
773931 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Pterulicium | Pterulicium | Pterulicium là một chi nấm in the Pterulaceae. Đây là chi đơn loài, chứa một loài Pterulicium xylogenum, được tìm thấy ở Đông Nam Á.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Pterulaceae
Nấm châu Á |
207783 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Rawalsar | Rawalsar | Rawalsar là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Mandi thuộc bang Himachal Pradesh, Ấn Độ.
Nhân khẩu
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Rawalsar có dân số 1369 người. Phái nam chiếm 54% tổng số dân và phái nữ chiếm 46%. Rawalsar có tỷ lệ 76% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 78%, và tỷ lệ cho phái nữ là 73%. Tại Rawalsar, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
Thư viện hình ảnh
Tham khảo
Thành phố thuộc bang Himachal Pradesh |
772683 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gastrosporium | Gastrosporium | Gastrosporium là một chi nấm trong họ đơn chi Gastrosporiaceae, thuộc bộ Boletales.
Chú thích
Tham khảo |
850548 | https://vi.wikipedia.org/wiki/10140%20Villon | 10140 Villon | 10140 Villon
10140 Villon là một tiểu hành tinh vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 1375.3864884 ngày (3.77 năm).
Nó được phát hiện ngày 19 tháng 9 năm 1993 và được đặt theo tên của nhà thơ Pháp François Villon.
Tham khảo
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1993 |
626282 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A8%20b%C3%A1nh%20l%E1%BB%8Dt | Chè bánh lọt | Chè bánh lọt là một món chè ngọt ăn lạnh. Món chè này phổ biến khắp Đông Nam Á và có ý kiến cho rằng xuất xứ từ Indonesia.
Lịch sử
Nguồn gốc của bánh lọt (cendol) không rõ ràng, và thức uống ngọt này được lan truyền rộng rãi trên khắp Đông Nam Á. Tuy nhiên, một gợi ý là cendol có nguồn gốc từ Java, Indonesia là dawet. Kỷ lục lâu đời nhất được đề cập về đồ uống ngọt dawet là bản thảo Kresnayana, có niên đại từ Vương quốc Kediri vào khoảng thế kỷ thứ 12 của Java. Nhà sử học cho rằng việc sử dụng sagoo hoặc bột gạo làm thành phần nước giải khát ngọt có thể xảy ra sớm trong xã hội nông nghiệp lúa gạo của Java cổ đại. Thật vậy, thạch cendol và các biến thể của nó là sản phẩm nông nghiệp nông thôn, vẫn được sản xuất theo truyền thống ở các làng Java. Ở Banjarnegara, Trung Java, dawet được phục vụ theo truyền thống mà không có đá. Ngày nay, tuy nhiên các viên đá hoặc đá bào bổ sung thường được thêm vào thức uống tráng miệng này. Điều này có thể gợi ý rằng ở Java nhiệt đới, dawet là một thức uống tráng miệng ngọt truyền thống có từ trước khi áp dụng công nghệ làm lạnh, vào đầu thế kỷ thứ 12.
Cendol thường được phục vụ với đá, và được phát triển khi nước đá có sẵn. Nó có thể có nguồn gốc từ các thành phố cảng của Malaysia như Malacca và Penang, nơi công nghệ tàu lạnh của Anh sẽ cung cấp đá cần thiết.
Theo truyền thống của người Java, dawet hoặc cendol là một phần của lễ cưới truyền thống của người Java. Dodol dawet (tiếng Java cho cụm từ "bán dawet") được thực hiện trong lễ Midodareni, một ngày trước đám cưới. Sau khi tắm cô dâu siraman, cha mẹ sẽ bán dawet cho khách tham dự và người thân. Vị khách đã trả tiền cho dawet bằng cách sử dụng những đồng xu bằng đất nung sẽ được trao cho cô dâu như một biểu tượng cho thu nhập của gia đình. Ý nghĩa biểu tượng là hy vọng của cha mẹ rằng đám cưới ngày mai sẽ có rất nhiều khách tham dự, "nhiều như các loại thạch cendol được bán." Ở Dutch East Indies Java, những người bán hàng rong trên đường phố sử dụng pikulan (giỏ mang theo thanh cân bằng) thường được tìm thấy ở các thành phố của người Java, như có thể thấy trong bức ảnh cũ có niên đại từ khoảng năm 1935.
Cendol đã được Cục Di sản quốc gia Malaysia tuyên bố là thực phẩm di sản của Malaysia.
Từ nguyên học
Từ "chendol" được đề cập lần đầu tiên vào năm 1932 như là một trong những thực phẩm có sẵn ở Kuala Lumpur như được ghi lại trong Dự án Hợp nhất Malay thu thập các tác phẩm của Malay. Dawet được tuyên bố là nguồn gốc của cendol; tên tiếng Java của "dawet" đã được ghi lại trong bản thảo tiếng Java đầu thế kỷ 19 của Serat Centhini, được sáng tác giữa năm 1814, 18181818 ở Surakarta, Trung Java. Trong tiếng Java, dawet đề cập đến toàn bộ hỗn hợp thạch xanh cendol, thường được làm từ aren sagoo hoặc bột gạo, nước cốt dừa và gula jawa lỏng (xi-rô đường cọ), đôi khi có thể thêm mít thái lát.
Có một niềm tin phổ biến rằng cái tên "cendol" có liên quan đến, hoặc có nguồn gốc từ từ jendol, liên quan đến thạch bột gạo giống như giun xanh sưng; trong tiếng Java, tiếng Sundan, tiếng Indonesia và tiếng Malay, jendol có nghĩa là "vết sưng", "phình", hoặc "sưng". Ở hầu hết các vùng của Indonesia, cendol đề cập đến thạch bột gạo xanh; trong khi pha chế của bột gạo xanh với nước cốt dừa, đá bào, đường cau và đôi khi mít thái hạt lựu được gọi là es cendol hoặc dawet (ở Trung và Đông Java).
Từ điển Indonesia mô tả cendol là một món ăn nhẹ làm từ bột gạo và các thành phần khác được hình thành bởi các bộ lọc, sau đó trộn với đường cọ và nước cốt dừa (cho nước giải khát). Từ điển tiếng Mã Lai Kamus Dewan định nghĩa tương tự nó là một thức uống giống như cháo với những sợi dài làm từ bột gạo trong nước cốt dừa và xi-rô đường.
Ở Việt Nam, loại bột gạo giống như giun này được gọi là bánh lọt hay "bánh qua". Bánh lọt là một thành phần phổ biến trong một thức uống tráng miệng của người Việt Nam gọi là chè, hay phổ biến hơn là ba màu. Ở Thái Lan, nó được gọi là lot chong (tiếng Thái:, phát âm là [lɔ̂ːt t͡ɕʰɔ̂ŋ]) có thể được dịch là "đi qua một lỗ", chỉ ra cách nó được tạo ra bằng cách ấn bột ấm qua rây vào một thùng chứa nước lạnh. Ở Miến Điện, nó được gọi là mont let saung hoặc မု န့ ် လက်. Ở Campuchia, nó được gọi là lot (ល ត / lɔːt /), bang-aem lot (បង្អែម ល ត / bɑŋʔaɛm lɔːt /), nom lot (នំលត / nɷm lɔːt /), và banh lot (បាញ់លត /baɲ lɔːt/). Người Thái đã mang món ăn này vào Việt Nam từ thế kỷ 18.
Thành phần
Thành phần chủ yếu là bánh lọt, làm bằng bột gạo pha bột năng. Bánh lọt thường thêm phẩm màu xanh và hương vị của lá dứa. Chè khi ăn chan thêm nước cốt dừa và đá bào.
Một số biến thể cho thêm đậu đỏ, cơm nếp, và bắp ngô.
Ở Việt Nam, đậu xanh, đậu đỏ và bánh lọt là ba thành phần của chè ba màu trong khi ở Singapore chè bánh lọt cendol có khi thêm cả kem vani và sầu riêng.
Bày bán món cendol
Cendol đã trở thành một phần tinh túy của ẩm thực ở Đông Nam Á và thường được bán bởi các nhà cung cấp tại các con đường, trung tâm bán hàng rong và các khu ẩm thực. Các nhà cung cấp Cendol gần như có mặt ở các thành phố của Indonesia, đặc biệt là Jakarta, Bandung và Yogyakarta. Ban đầu cendol hoặc dawet trong Java được phục vụ mà không có đá, nhưng sau khi giới thiệu công nghệ làm lạnh, cendol lạnh với đá bào (es serut) đã có sẵn và phổ biến rộng rãi.
Ở Indonesia và Malaysia, cendol thường được các nhà cung cấp bán bên vỉa hè. Nó thậm chí là món tráng miệng ở Singapore, được tìm thấy trong các quầy hàng tráng miệng, trung tâm thực phẩm, quán cà phê và khu ẩm thực.
Chú thích
Chè
Ẩm thực Việt Nam
Ẩm thực Indonesia
Ẩm thực Malaysia
Ẩm thực Singapore
Ẩm thực Myanmar
Ẩm thực Thái Lan
Món tráng miệng
Món tráng miệng đông lạnh
Thức uống không cồn |
907984 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Megapenthes%20bicostatus | Megapenthes bicostatus | Megapenthes bicostatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Champion mô tả khoa học năm 1896.
Chú thích
Tham khảo
Megapenthes |
961837 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Symplecta%20macquariensis | Symplecta macquariensis | Symplecta macquariensis là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Australasia.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Symplecta
Limoniidae ở vùng Australasia |
863375 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Apatania%20cedri | Apatania cedri | Apatania cedri là một loài Trichoptera trong họ Apataniidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.
Tham khảo
Trichoptera miền Cổ bắc
Apatania |
360277 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Vogelgrun | Vogelgrun | Vogelgrun là một xã trong tỉnh Haut-Rhin, vùng Grand Est ở đông bắc Pháp. Xã này có diện tích 5,03 km², dân số năm 1999 là 597 người. Khu vực này có độ cao 192 mét trên mực nước biển.
Xem thêm
Thị trấn của tỉnh Haut-Rhin
Tham khảo
INSEE
Xã của Haut-Rhin |
580985 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ask%C3%B8y | Askøy | Askøy là một đô thị ở hạt Hordaland, Na Uy.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đô thị Hordaland |
471892 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ebenthal%2C%20Ganserndorf | Ebenthal, Ganserndorf | Ebenthal là một thị trấn ở huyện Gänserndorf thuộc bang Niederösterreich nước Áo. Đô thị có diện tích 18,14 km², dân số năm 2001 là 813 người.
Tham khảo
Đô thị của Niederösterreich |
622308 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lichenaula%20maculosa | Lichenaula maculosa | Lichenaula maculosa là một loài bướm đêm thuộc họ Oecophoridae. Nó được tìm thấy ở Úc.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lichenaula |
304103 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Liverdy-en-Brie | Liverdy-en-Brie | Liverdy-en-Brie là một xã ở tỉnh Seine-et-Marne, thuộc vùng Île-de-France ở miền bắc nước Pháp.
Dân số
Người dân ở đây được gọi là Liverdois.
Điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số là .
Xem thêm
Xã của tỉnh Seine-et-Marne
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official site
1999 Land Use, from IAURIF (Institute for Urban Planning and Development of the Paris-Île-de-France région
French Ministry of Culture list for Liverdy-en-Brie
Map of Liverdy-en-Brie on Michelin
Xã của Seine-et-Marne |
865072 | https://vi.wikipedia.org/wiki/26763%20Peirithoos | 26763 Peirithoos | 26763 Peirithoos (2706 P-L) là một Trojan của Sao Mộc.
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 26763 Peirithoos
Thiên thể phát hiện năm 1960 |
148313 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20L%C4%83ng | Chi Lăng | Chi Lăng (支棱) là một cửa ải nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây vốn là một thung lũng có sông Thương chảy qua, trải dài gần 20 km từ sông Hóa đến xã Mai Sao, thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Phía đông thung lũng là dãy núi đất Thái Họa – Bảo Đài, còn phía tây là dãy núi đá Cai Kinh.
Đặc điểm
Toàn cảnh
Dọc thung lũng Ải Chi Lăng còn có những ngọn núi thấp nằm rải rác và trấn ven đường cái quan như núi Hàm Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi hai vòng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam, khoanh kín trong lòng một ải quan dài 5 km, rộng khoảng 3 km.
Tại Ải Chi Lăng còn có Thành Chi Lăng ở vào cây số 109 tính từ Hà Nội và tới cây số thứ 154 thì tới tỉnh lỵ Lạng Sơn, theo Đi thăm đất nước của Hoàng Đạo Thúy. Theo Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt nam có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ. Ở gần cửa Nam của thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội (nơi trú đóng của đội quân Hoàng tráng thứ 20).
Phía nam Ải Chi Lăng có hai khối đá lớn, một khối có hình dáng giống như thanh kiếm khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm (thanh kiếm của vua Lê Thái Tổ) và một tượng đá có hình dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu gọi là Liễu Thăng Thạch (tức đá Liễu Thăng, ám chỉ tướng Liễu Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu tại ải). (Theo văn học có thể ám chỉ được nhưng theo sử học và quân sự học tương quan lực lượng lấy ít địch nhiều, bất ngờ mai phục nên Liễu Thăng bị trúng tên ,giáo, mác trọng thương chạy ngược lại hơn 10 km ngã xuống chết thì đã gặp đại quân rồi địch đông lắm không ai có thể xông vào chặt lấy được đầu Liễu Thăng đâu.)
Quỷ Môn Quan
Xã Chi Lăng có Ải Chi Lăng và Quỷ Môn Quan. Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn dẫn sách Hoàn Vũ Ký của Trung Quốc cho biết Quỷ Môn Quan nằm ở phía Nam huyện Bắc Lưu (Bắc Lưu thuộc châu Uất Lâm tỉnh Quảng Tây Trung Quốc), cách huyện lỵ Bắc Lưu khoảng 30 dặm. Tại cửa quan này có hai khối núi đối nhau và ở giữa có độ rộng 30 bước, tục gọi Quỷ Môn Quan. Mã Viện đánh Việt Nam qua đấy dựng bia và tạc rùa đá. Đời nhà Tấn (265-420) binh lính Trung Hoa qua đó bị giết nhiều nên có câu
Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan!
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn
Dịch nghĩa là "Ải cửa Quỷ, Ải cửa Quỷ! Mười người đi, một người về". Theo Phương Đình dư địa chí, xã Chi Lăng có quan lộ hẹp, núi đá hiểm trở, sông sâu nước độc được gọi là Quỷ Môn Quan.
Thời Lê Trung Hưng sứ Trung Hoa sang Việt Nam sắc phong, ghét tên Quỷ Môn Quan nên đổi gọi bằng tên Úy Thiên Quan. Theo Việt Hoa thông sứ sử lược của Bế Lãng Ngoạn và Lê Văn Hòe , sứ bộ Việt Nam trên bước đường thiên lý sang Trung Hoa đều dừng tại Quỷ Môn Quan trước khi tiến đến Ải Nam Quan. Như vậy, Quỷ Môn Quan chính là một phần không thể tách rời của Ải Chi Lăng. ( vì thế Ải Chi Lăng được mệnh danh là Ải Quỷ Môn Quan là một trong những cửa ải tử thần giữa trần gian và địa ngục giống như Quỷ Môn Quan nằm ở phía Nam huyện Bắc Lưu tỉnh Quảng Tây Trung Quốc).
Lịch sử
Từ thời sơ sử, cổ sử Việt Nam, con người đã để lại ở Chi Lăng vết tích của nền văn hóa Bắc Sơn-Mai Pha, với những hang động đẹp và những mảnh rìu đá, mảnh gốm.
Những năm trước Công nguyên và Công nguyên, lịch sử đã chọn lựa Ải Chi Lăng như một địa danh đặc biệt gắn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược của dân tộc Việt Nam. Ải Chi Lăng đã gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự tài năng như Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi và những thủ lĩnh của xứ Lạng như Phò mã Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Đại Huề. Đại Huề là một hào trưởng có tinh thần yêu nước là người dân tộc địa phương được sinh ra và lớn lên tại xóm Lựu ( toàn họ Vi đến nay vẫn không có ai họ Hoàng) tổng Quang Lang, phủ Tràng Khánh, Lạng Sơn. đã chỉ huy dân binh anh dũng tham gia cùng với quan triều đình nhà Lê đánh thắng giặc Minh xâm lược với nhiều chiến công hiển hách trong lịch sử Chi Lăng . Ông và gia đình (vợ và hai con gái) được nhân dân Xóm Lựu, Làng Mỏ, Tổng Quang Lang lập đền thờ cúng tại Nghè Mỏ Bạo, Ông Đại Huề trở thành nhân thần linh thiêng được dân làng đón về thờ tại hậu cung của đình Làng Mỏ .
Hiểm địa với ngoại xâm
Trong suốt lịch sử xâm lăng của kẻ thù phương Bắc, từ nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh đến nhà Thanh, Lạng Sơn luôn được coi là vị trí chiến lược chủ yếu và là hướng tấn công chính, lý do là vì ở đó là đồng bằng và chiếm được Lạng Sơn là chiếm được cửa ngõ châu thổ sông Hồng và chỉ còn 150 km dọc đường cái quan (nay là Quốc lộ 1) là có thể tiến chiếm kinh đô Đại Việt. Tuy nhiên, với giặc ngoại xâm, Ải Chi Lăng trên con đường bách lý xuôi từ biên giới với Ải Nam Quan, qua Lạng Sơn về Thăng Long - Hà Nội, lại là một tử địa vì quy mô hoành tráng, đồ sộ, địa thế hiểm yếu thập nhân khứ, nhất nhân hoàn (10 kẻ đi chỉ 1 kẻ quay về được) của nó. Suốt quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam, với chiến lũy hình thang tại Ải Chi Lăng cùng hệ thống đầm lầy, sông suối, núi non hiểm trở của nó, luôn là bức tường thành từ xa của kinh đô Thăng Long ngăn bước viễn chinh quân xâm lược phương Bắc.
Năm 1077, phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt thân hành về Chi Lăng gặp phò mã Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (dựng tại Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan quân xâm lược Tống lần thứ hai.
Năm 1285, quân Nguyên qua Ải Chi Lăng đã bị quân nhà Trần chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt.
Cuối năm 1427, Ải Chi Lăng trở thành nơi ghi công một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam. Đạo quân chủ lực của nhà Minh do An Viễn hầu Liễu Thăng chỉ huy gồm gần 10 vạn người kéo sang để dẹp khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Lê Lợi đã phái Lê Sát dẫn các tướng lên đón đường, đặt quân mai phục. Tướng Trần Lựu giả cách thua vài trận để dụ Liễu Thăng lọt vào ổ phục kích tại núi Mã Yên. Quân Lam Sơn đổ ra chém chết Liễu Thăng khiến đạo quân cứu viện hùng hậu bị hoang mang, suy sụp, mất sức chiến đấu và tới đầu tháng 11 năm 1427 thì bị vây đánh, tiêu diệt bắt sống toàn bộ ở Xương Giang.
Khu di tích lịch sử Chi Lăng
Khu di tích lịch sử Chi Lăng nằm trong vùng Ải Chi Lăng, bao gồm 52 điểm (Chính thức chưa thống kê đủ hết vì còn thiếu đình Làng Mỏ, Nghè Mỏ Bạo, Nghè Đồng Thọp ...) kéo dài gần 20 km, phần lớn thuộc hai xã Chi Lăng và Quang Lang, và chủ yếu liên quan đến trận đánh ngày 10 tháng 10 năm 1427 giết chết Liễu Thăng, chủ tướng quân xâm lược nhà Minh. Khu di tích lịch sử Chi Lăng được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1962, và hạng đặc biệt năm 2020.
Bia chiến thắng và Bảo tàng Chi Lăng được xây dựng tại khu di tích này vào năm 1982, nhân kỷ niệm 555 năm chiến thắng Chi Lăng 1427. Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Chi Lăng cũng được xây dựng vào những năm sau đó.
Ải Chi Lăng trong thi văn
Từ thế kỷ 14, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư Mạnh, dừng chân trước Ải Chi Lăng trên bước đường tuần thú xứ Lạng đã cảm thán trong bài Chi Lăng động khi Lâu phong bạt mã cao hồi thủ (trước gió ghì cương ngựa, lên cao ngoảnh đầu nhìn) với câu thơ:
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề (Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời).
Năm 1804 thời nhà Nguyễn, thi hào Nguyễn Du trên đường đi sứ sang nhà Thanh khi qua Chi Lăng có vịnh thơ Quỷ Môn đạo trung rằng:
Tuy ý chính bài thơ là vịnh cảnh trên đường đi sứ nhưng tác giả cũng nhắc lại hiểm địa Chi Lăng đối với quân Tàu khiến "lữ khách về Nam sợ mất hồn".
Ảnh
Tham khảo
Xem thêm
Mục từ Chi Lăng, trong cuốn Văn hóa Việt Nam (tổng hợp), Ban văn hóa văn nghệ Trung ương, Hà Nội, 1989.
Liên kết ngoài
Ải Chi Lăng
Khu di tích lịch sử Chi Lăng
Di tích tại Lạng Sơn
Địa danh lịch sử Việt Nam
Địa lý Lạng Sơn |
483294 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nokia%20N91 | Nokia N91 | Nokia N91 là điện thoại chuyên cho nghe nhạc đầu tiên của hãng điện thoại Phần Lan, nó có thể nghe nhạc liên tục trong 15 giờ.
Tổng quan
Lớp vỏ N91 được thiết kế bằng làm từ thép không gỉ và có những nút bấm chuyên dụng cho nghe nhạc như một máy iPod.
Điểm đặc biệt nhất của N91 là nó được tích hợp sẵn một ổ cứng có dung lượng 4G(rất lớn ở thời điểm nó ra mắt), có khả năng lưu tới 3000 bài hát đa định dạng và thời gian nghe nhạc lên tới 15 giờ.
Vì thuộc dòng N-Series nên N91 có đầy đủ các tính năng của 1 điện thoại cao cấp như: 3G, Wifi, Bluetooth, Handsfree FM và camera 2.0 megapixels.
Camera của N91 có thể quay video liên tục lên đến 1h và zoom số 4x.
Tuy nhiên dòng điện thoại này cũng thường bị phàn nàn về lỗi ổ cứng và tiếng ồn tạo ra khi ổ cứng của nó hoạt động. Một số khuyết điểm đáng kể khác như: Cơ chế trượt không chắc chắn, màn hình độ phân giải thấp(ở thời điểm ra mắt, điện thoại cao cấp đều có độ phân giải 240*320 thì N91 vẫn là 176*208), vỏ dễ trầy xước...
Doanh số của N91 nhìn chung không được như kỳ vọng của Nokia, dù trước đó Nokia đã nhiều lần hoãn thời điểm ra mắt để trau chuốt thêm cho sản phẩm.
Tính năng
Mạng: GSM 900/1800/1900 và UMTS (3G)
Kích thước: 113,1 x 55,2 x 22mm
Trọng lượng: 160gram
Kết nối: WIFI, 3G, Bluetooth, USB 2.0, EDGE, HSCSD, hệ điều hành Symbian OS9.1 series 60
Nghe nhạc đa định dạng: MP3, WMA, AAC, AMR, MIDI, WAV
Bộ nhớ trong 4GB và bộ nhớ trong chia sẻ 30MB
Thời gian thoại: 4 giờ
Thời gian chờ: 160 giờ
Pin chuẩn: Li-Ion BL-5C (900mAh)
Tham khảo
N91
Điện thoại thông minh
de:Nokia Nseries#Nokia N91 |
520001 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%81u%20Ti%C3%AAn%20Thu%E1%BA%A7n%20T%C3%B4ng | Triều Tiên Thuần Tông | Triều Tiên Thuần Tông (Hangul: 융희제; Hanja: 朝鮮純宗, Hán-Việt: Triều Tiên Thuần Tông) (1874 – 24 tháng 4 năm 1926) là vị vua thứ 27 và là cuối cùng nhà Triều Tiên, cũng như là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Đại Hàn. Trong đời cai trị của ông chỉ có một niên hiệu là Long Hy (Hangul: 융희; Hanja: 隆熙).
Ông là con trai thứ tư của Triều Tiên Cao Tông, ông kế vị từ năm 1907 đến năm 1910, trị 3 năm 41 ngày. Sau khi mất, ông được truy miếu hiệu là Thuần Tông, thụy hiệu là Văn Ôn Vũ Ninh Đôn Nhân Thành Kính Hoàng đế (文溫武寧敦仁誠敬皇帝). Ông lên ngôi sau khi Triều Tiên Cao Tông nhường ngôi vị, nhưng ông làm vua chỉ 3 năm thì bị Nhật Bản ép phải ký Nhật Hàn Tịnh Hợp điều ước (còn gọi là Điều ước sáp nhập) mà người Hàn Quốc ngày nay coi hiệp ước năm 1910 đó là "quốc sỉ".
Chính điều ước đó đã buộc ông phải thoái vị, chấm dứt triều đại Đại Hàn. Sau đó, Thuần Tông sống đến năm 1926, vào ngày 24 tháng 4 thì băng hà tại cung Chương Đức. Sau đó, ông được an táng ở Quần thể lăng mộ Vương tộc của nhà Triều Tiên nay thuộc thành phố Namyangju, Hàn Quốc.
Cai trị
Thuần Tông là con trai thứ hai của Triều Tiên Cao Tông và Hoàng hậu Minh Thành, được vua cha phong làm Thế tử ngay khi vừa lên 2 tuổi. Năm 1882, ông kết hôn với một người con gái thuộc dòng họ Mẫn, tức là Thuần Minh Hiếu Hoàng hậu sau này (Sunmyeonghyo, Hangul: 순명효황후; Hanja: 純明孝皇后).
Khi Đại Hàn Đế quốc được thành lập vào năm 1897, tước vị của Thuần Tông từ Thế tử cũng được nâng lên thành Thái tử. Năm 1907, người Nhật buộc phụ hoàng Cao Tông thoái vị và lập Thuần Tông lên làm Hoàng đế của Đế quốc Đại Hàn. Sau đó, Thuần Tông lập người em trai của mình, Lý Ngân, làm Anh Thân Vương và trở thành Hoàng đệ kế vị. Thuần Tông chuyển từ Đức Thọ cung sang Chương Đức cung.
Trong thời gian trị vì, quyền lực thực tế của Thuần Tông là không đáng kể khi mà sự can thiệp của người Nhật Bản vào nội chính Triều Tiên ngày càng gia tăng. Mặc dù trở thành Hoàng đế vào tháng 7 năm 1907, Thuần Tông ngay sau đó đã phải kí với Nhật điều ước Nhật-Hàn 1907 (Hangul: 한일신협약, 정미7조약; Hanja: 韓日新協約, 丁未七條約), cho phép người Nhật Bản giám sát và can thiệp vào trong chính quyền cũng như việc cai trị, đồng thời bổ nhiệm các viên chức cấp cao người Nhật vào trong bộ máy triều đình Triều Tiên.
Sau khi can thiệp sâu được vào chính quyền, người Nhật thủ tiêu luôn lực lượng quân đội của Triều Tiên, với lí do là không đủ ngân sách để duy trì. Năm 1909, người Nhật tiếp tục tước đi quyền tư pháp của nhà Triều Tiên bằng việc thực hiện Giác thư Nhật-Hàn (Hangul: 기유각서; Hanja: 己酉覺書). Đồng thời, Nhật Bản cử Ito Hirobumi, toàn quyền Nhật tại Triều Tiên, để đàm phán với Đế quốc Nga về những vấn đề liên quan đến Triều Tiên và Mãn Châu. Tuy nhiên, trước khi sự đàm phán này được xảy ra, Ito Hirobumi đã bị An Trọng Căn (Ahn Jung-geun), một nhà yêu nước Triều Tiên, ám sát tại Herbin. Vụ ám sát Ito Hirobumi đã khiến Nhật Bản quyết định sáp nhập Triều Tiên. Những quan lại thân Nhật ở Triều Tiên là Tống Bỉnh Tuấn (Song Byeong-jun, Hangul:송병준, Hanja:宋炳濬) và Lý Hoàn Dụng (Ye Wanyong, Hangul:이완용Hanja:李完用) tạo ra cái cớ rằng triều đình Triều Tiên rất sẵn lòng và mong muốn được sáp nhập vào Đế quốc Nhật Bản, sau đó kí kết Nhật Hàn Tịnh hợp điều ước vào ngày 29/8/1910.
Mặc dù trên danh nghĩa, triều đại của Thuần Tông kéo dài ba năm. Nhưng từ sau khi phế bỏ Cao Tông và đưa Thuần Tông lên ngôi, những sự can thiệp của người Nhật đã thực chất biến Thuần Tông thành vị vua bù nhìn trong suốt thời gian ngồi trên ngai vàng Triều Tiên. Cuối cùng, với Nhật Hàn Tịnh hợp Điều ước, Đế quốc Đại Hàn đã chính thức bị xóa sổ, kết thúc luôn 519 năm lịch sử của vương triều Lý Triều Tiên.
Sau khi mất ngôi
Sau khi bị hạ bệ, Thuần Tông cùng Thuần Minh Hiếu Hoàng hậu sống dưới sự quản thúc tại Xương Đức cung. Thuần Tông cũng bị tước vị Hoàng đế và bị hạ xuống thành Vương. Người Nhật ban cho ông tước vị Chương Đức cung Lý vương (Hangul: 창덕궁 이왕; Hanja: 昌德宮 李王) và cho phép cha truyền con nối tước vị này.
Thuần Tông qua đời ngày 24/4/1926 và được chôn cất tại Dụ lăng cùng với hai người vợ của mình, nay thuộc thành phố Nam Dương (Namyang). Quốc tang của ông vào ngày 10/6/1926 là một chất xúc tác cho Cuộc vận động ngày 10/6 chống lại người Nhật của người dân Triều Tiên.
Thuần Tông qua đời mà không có người con nào.
Gia đình
Cha: Triều Tiên Cao Tông.
Mẹ: Minh Thành Hoàng hậu Mẫn Tư Anh.
Vợ
Thuần Minh Hiếu Hoàng hậu họ Mẫn.
Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu họ Doãn.
Thụy hiệu đầy đủ
대한제국순종문온무령돈인성경황제폐하
大韓帝國純宗文溫武寧敦仁誠敬孝皇帝陛下
Daehan Jeguk Sunjong Munon Muryeong Donin Seonggyeong Hwangje Pyeha
Đại Hàn Đế quốc Thuần Tông Văn Ôn Vũ Ninh Đôn Nhân Thành Kính Hiếu hoàng đế bệ hạ
Tham khảo
Thuần Tông
Đế quốc Đại Hàn |
672867 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Rana%20chevronta | Rana chevronta | Rana chevronta (tên tiếng Anh: Chevron-spotted Brown Frog) là một loài ếch trong họ Ranidae. Chúng là loài đặc hữu của Trung Quốc.
Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ôn hòa, đầm nước ngọt, và đầm nước ngọt có nước theo mùa. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.
Nguồn
Tham khảo
Động vật lưỡng cư Trung Quốc
Rana |
925398 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Megaleruca%20sericea | Megaleruca sericea | Megaleruca sericea là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Jacoby miêu tả khoa học năm 1903.
Chú thích
Tham khảo
Megaleruca |
310913 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Garlate | Garlate | Garlate là một đô thị trong tỉnh Lecco, trong vùng Lombardia của Ý, cự ly khoảng 40 km về phía đông bắc của Milan và khoảng 6 km về phía nam của Lecco. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 2.630 người và diện tích là 2,1 km².
Garlate giáp các đô thị: Galbiate, Lecco, Olginate, Pescate, Vercurago.
Biến động dân số
Tham khảo
Liên kết ngoài
www.comune.garlate.lc.it/php/index.php
Đô thị tỉnh Lecco
Thành phố và thị trấn ở Lombardia |
924726 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Longitarsus%20flavitarsis | Longitarsus flavitarsis | Longitarsus flavitarsis là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Medvedev miêu tả khoa học năm 1996.
Chú thích
Tham khảo
Longitarsus |
157821 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20D%C3%A3y%20n%C3%BAi%20Semien | Vườn quốc gia Dãy núi Semien | Vườn quốc gia Dãy núi Semien là một trong những vườn quốc gia tại Ethiopia. Nằm ở Semien Gondar của vùng Amhara, vườn quốc gia này bao phủ dãy núi Semien và bao gồm Ras Dashan, đỉnh cao nhất ở Ethiopia và cao thứ tư ở châu Phi. Nó là nơi sinh sống của một số loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng, bao gồm Sói Ethiopia, Linh miêu tai đen, khỉ đầu chó Gelada, và dê núi Walia, một loài dê hoang không tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Vườn quốc gia là nơi sinh sống của 50 loài chim, đặc biệt nhất là loài Kền kền râu với sải cánh rộng đến 3 mét.
Có một con đường đất băng qua vườn quốc gia từ Debarq, nơi đặt trụ sở chính của vườn quốc gia, chạy về phía đông qua một số ngôi làng đến đèo Buahit ở độ cao 4.200 mét so với mực nước biển. Sau đó, con đường hướng về phía nam kết thúc tại Mekane Berhan, nằm ngoài ranh giới của vườn quốc gia khoảng 10 km.
Lịch sử
Vườn quốc gia này được thành lập năm 1969 bởi C. W. Nicol, một người Nhật Bản gốc Wales, người đã viết về những kinh nghiệm của ông trong Từ mái nhà của châu Phi.
Vùng Simien là nơi sinh sống và trồng trọt trong ít nhất 2.000 năm. Ban đầu, xói lở để lộ ra bằng chứng về trồng trọt ở độ dốc thoai thoải của thung lũng cao nguyên nhưng sau đó mở rộng đến trên sườn dốc. Vườn quốc gia là một trong những địa điểm đầu tiên được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 1978. Tuy nhiên, do số lượng sinh vật giảm sút nghiêm trọng của một số loài bản địa, nó đã bị đưa vào danh sách di sản thế giới bị đe dọa năm 1996.
Địa lý
Qua hàng triệu năm, do sự xói lở lớn của cao nguyên Ethiopia tạo ra các đỉnh núi răng cưa, thung lũng sâu và những vách đá ở độ cao 1.500 mét tuyệt đẹp khiến vườn quốc gia là một trong số những nơi có phong cảnh ngoạn mục nhất thế giới.
Khu vực di sản nằm ở phía tây của dãy núi Simien và cách tỉnh Gondar của Begemder 120 km về phía tây bắc của Ethiopia. Nước được nuôi dưỡng bởi sông Mayshasha, chảy từ bắc xuống nam. Kết quả là, vườn quốc gia phong phú về hệ động thực vật hoang dã.
Động thực vật
Thảm thực vật là sự pha trộn của rừng và thảm thực vật núi cao. Khu vực núi cao là nơi có thảo nguyên núi cao, thông, thủy tùng khổng lồ (Lobelia rhynchopetalum), anh thảo vàng (Primula verticillata), Cúc bất tử (Helichrysum), Rêu (Grimmiaceae), địa y.
Các rặng núi và hẻm núi rải rác đồng cỏ, rừng và cây bụi. Trước đây từng có những khu rừng ban Thánh Gioan (Hypericum) ở độ cao từ 3.000-3.800 m so với mực nước biển, nhưng bây giờ đã biến mất. Số chính xác không được biết đến.
Về động vật, vườn quốc gia là nơi có nhiều loài động vật quý hiếm bao gồm Khỉ đầu chó Gelada, sói Ethiopia, dê núi Walia. Những loài sống trên sườn dốc phía bắc của khối núi phần lớn có nguồn gốc từ dãy núi Semien và hầu hết có mặt tại vườn quốc gia. Ngoài Sói Ethiopia là loài đặc hữu của quốc gia và một số loài khác có thể kể đến Khỉ đầu chó Hamadryas, Khỉ Colobus đen trắng, Báo châu Phi, Linh miêu tai đen, Mèo hoang, Linh cẩu đốm, Chó rừng. Một số loài động vật ăn cỏ lớn bao gồm Linh dương bụi rậm, Linh dương hoẵng thông thường, Linh dương Klipspringer.
Vườn quốc gia có sự phong phú với 400 loài chim Kền kền râu, Đại bàng đen, Cắt Lanner, Ưng Augur, Quạ mỏ dày. Tổng cộng có 21 loài thú với 3 loài đặc hữu, 63 loài chim trong đó có 7 loài đặc hữu được ghi nhận.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mục từ về Vườn quốc gia Simien trong Di sản thế giới của UNESCO
Bảng dữ liệu các khu vực tự nhiên của UNESCO
Các vườn quốc gia của Ethiopia: Simien Mountain Adventure - Phần I (Addis Tribune)
Các vườn quốc gia của Ethiopia: Simien Mountain Adventure - Phần II (Addis Tribune)
Các vườn quốc gia của Ethiopia: Simien Mountain Adventure - Phần III (Addis Tribune)
Semien
Semien
Vùng Amhara |
883942 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Andrena%20discophora | Andrena discophora | Andrena discophora là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Morawitz mô tả khoa học năm 1876.
Chú thích
Tham khảo
D
Động vật được mô tả năm 1876 |
865006 | https://vi.wikipedia.org/wiki/26169%20Ishikawakiyoshi | 26169 Ishikawakiyoshi | 26169 Ishikawakiyoshi (1995 YY) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 21 tháng 12 năm 1995 bởi T. Kobayashi ở Oizumi.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser 26169 Ishikawakiyoshi
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1995 |
889141 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Augochlora%20pura | Augochlora pura | Augochlora pura là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Say mô tả khoa học năm 1837.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Augochlora
Động vật được mô tả năm 1837 |
897086 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gaesischia%20horizontina | Gaesischia horizontina | Gaesischia horizontina là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Urban mô tả khoa học năm 2007.
Chú thích
Tham khảo
Gaesischia
Động vật được mô tả năm 2007 |
183128 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20Nam%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 | Hải Nam (định hướng) | Hải Nam có thể là một trong số các địa danh sau:
Việt Nam
Xã Hải Nam, huyện Hải Hậu, Nam Định
Hàn Quốc
Tên Hán-Việt của huyện Haenam, tỉnh Jeolla Nam, Hàn Quốc
Trung Quốc
Tỉnh Hải Nam
Đảo Hải Nam |
461447 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Angoville-au-Plain | Angoville-au-Plain | Angoville-au-Plain là một xã thuộc tỉnh Manche trong vùng Normandie tây bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 12 mét trên mực nước biển.
Thị trấn có diện tích 5,68 km2, dân số năm 2006 là 43 người.
Tham khảo
Angovilleauplain |
704856 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Aeneator%20comptus | Aeneator comptus | Aeneator comptus là một loài ốc biển lớn, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Buccinidae.
Chú thích
Tham khảo
Powell A W B, New Zealand Mollusca, William Collins Publishers Ltd, Auckland, New Zealand 1979 ISBN 0-00-216906-1
Aeneator
Động vật chân bụng New Zealand |
80242 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82m%20giai%20To%C3%A0n%20cung | Âm giai Toàn cung | Âm giai toàn cung là âm giai gồm 6 nốt cách đều nhau 1 cung trong phạm vi một quãng tám (gồm 12 bán cung). Do có tới 7 tên nốt nhạc nên việc gọi tên các bậc kèm với các dấu thăng, bình, giáng, sử dụng tên nào và không sử dụng tên nào trong âm giai này phải tuỳ từng tình huống. Vì các nốt cách đều nhau nên khả năng một nốt bị hấp dẫn về nốt khác không được thể hiện rõ rệt. Do đó các tính chất chủ âm, thể trưởng – thể thứ... cũng không rõ rệt và loại âm giai này không phổ biến. Chỉ những người soạn nhạc có đẳng cấp mới có thể soạn các tác phẩm hay theo âm giai này.
Tham khảo
Âm giai |
821470 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hayward%2C%20California | Hayward, California | Hayward là một thành phố thuộc quận Alameda trong tiểu bang California, Hoa Kỳ. Thành phố có tổng diện tích 165,108 km², trong đó diện tích đất là 117,386 km², khu vực này có độ cao trung bình 112 m trên mực nước biển. Theo điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010, thành phố có dân số 144.186 người, lớn thứ ba của quận và lớn thứ 37 bang California. Thành phố là một phần của khu vực thống kê đô thị Oakland-Fremont-Hayward. Hayward là thành phố lớn thứ sáu trong khu vực vịnh San Francisco. Hayward đã được xếp hạng là thành phố đông dân thứ 37 trong tiểu bang California. Thành phố nằm chủ yếu giữa Castro Valley và Union City, và nằm ở ga cuối phía đông của cầu San Mateo-Hayward. Trong lịch sử của mình, thành phố từng bị tàn phá nghiêm trọng bởi trận động đất Hayward năm 1868. Từ đầu thế kỷ 20 cho đến đầu những năm 1980, nền kinh tế của Hayward chủ yếu là ngành công nghiệp đồ hộp thực phẩm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thành phố của California
Thành phố ở quận Alameda, California
Khu dân cư thành lập năm 1876
California 1876
Thành phố ở Khu vực vịnh San Francisco
Thành phố ven biển California |
668454 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Atelopus%20coynei | Atelopus coynei | Atelopus coynei là một loài cóc thuộc họ Bufonidae.
Đây là loài đặc hữu của Ecuador.
Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và sông ngòi.
Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất nơi sống.
Chú thích
Tham khảo
Ron, S., Coloma, L.A., Bustamante, M.R., Cisneros-Heredia, D., Almandáriz, A. & Yánez-Muñoz, M. 2004. Atelopus coynei. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 7 năm 2007.
Atelopus
Động vật lưỡng cư Ecuador |
848619 | https://vi.wikipedia.org/wiki/9137%20Remo | 9137 Remo | 9137 Remo (2114 T-2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 29 tháng 9 năm 1973 bởi C. J. van Houten ở Palomar.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 9137 Remo
Thiên thể phát hiện năm 1973
Tiểu hành tinh vành đai chính |
90294 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%B3nh%20long%20%C4%91%E1%BB%99c%20ki%E1%BA%BFm | Huỳnh long độc kiếm | Huỳnh long độc kiếm (còn gọi là Huỳnh long kiếm pháp, Huỳnh long đơn kiếm hay Huỳnh long thảo pháp) là bài đơn kiếm được Hội nghị chuyên môn toàn quốc lần 3 do Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam tổ chức năm 1995 lựa chọn đưa vào danh sách các bài quốc võ. Sau hội nghị, các võ sư và các huấn luyện viên đã dần đưa bài vào giảng dạy và thi đấu bắt buộc tại các võ đường võ cổ truyền trên toàn quốc.
Lịch sử
Theo võ sư Phạm Đình Trọng ở Lâm Đồng, bài Huỳnh long độc kiếm có nguồn gốc như sau: trong thời Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, có ông Trương Tam Phong (chỉ trùng tên, không phải Trương Tam Phong của phái Võ Đang) tinh thông văn võ, đã vẽ tặng bạn là Âu Dương Phương 9 bức họa đồ, trong đó có hai bức Ngũ long nhập động (5 rồng vào động) và Ngũ long xuất động (5 rồng rời động). Đến thời Hậu Lê, ở Việt Nam võ sư Sa Viên, hiệu là Sơn Nhân, sau khi xem hai bức họa trên đã diễn tả thành hai bộ quyền kiếm là Ngũ long quyền và Ngũ long kiếm. Hai bộ quyền kiếm nói trên thuộc sở hữu của môn phái Sa môn võ đạo, trong đó bài Huỳnh long độc kiếm thuộc bộ Ngũ long kiếm được Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam lựa chọn.
Lời thiệu
Lời thiệu của bài viết bằng thể thơ lục bát gồm 16 câu. Một số câu chưa được tiệp vần cho thấy rất có thể lời thiệu đã ít nhiều bị thiếu sót, sai lạc qua thời gian:
Diện tiền bái tổ kính sư
Hồi thân thủ bộ vẽ người hiên ngang
Kiếm ôm theo bộ xung thiên
Tả hữu song chỉ mình nghiêng thế chào
Phụng đầu thế kiếm dương cao
Thối lui hạ bộ nhập vào chém ngang
Chém rồi bên tả tránh sang
Hữu môn thượng mã kiếm ngang chân mày
Kiếm loan long ẩn vân phi
Sơn đầu hạc lập đâm ngay hạ đàn
Rút về phong tỏa đôi bên
Dùng đòn hạc tấn tiến lên chớ chầy
Xà hành nghịch thủy cho hay
Tàng đầu lộ vĩ chém bay qua đầu
Thoái hồi đơn phụng quang châu
Chân theo xà tấn kiếm hầu tổ sư.
Đặc điểm
Sử dụng trường kiếm có độ dài khoảng 0,8m đến 1m.
Tham khảo
Video clip bài Huỳnh long độc kiếm trên website Võ cổ truyền Việt Nam
Võ cổ truyền Việt Nam
Kiếm thuật |
896434 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Epicharis%20dejeanii | Epicharis dejeanii | Epicharis dejeanii là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Lepeletier mô tả khoa học năm 1841.
Chú thích
Tham khảo
Epicharis
Động vật được mô tả năm 1841 |
794827 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sumi%20Jo | Sumi Jo | Sumi Jo (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1962 tại Seoul, Hàn Quốc) là một ca sĩ opera người Hàn Quốc. Cô là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên được đề cử và đã nhận một giải Grammy dành cho giọng lirico coloratura soprano tại Hàn Quốc năm 1993.
Tiểu sử
Sumi Jo sinh ra tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Mẹ cô là một nghệ sĩ piano và ca sĩ nghiệp dư. Từ nhỏ, Sumi Jo đã được làm quen và yêu thích âm nhạc. Cô đã được dạy những bài tập âm nhạc cơ bản tại gia đình.
Năm 1976, Sumi Jo học trường nghệ thuật Sun Hwar và tốt nghiẹp năm 1980 về thanh nhạc và piano. Cô hoàn thành việc học nhạc tại trường đại học tổng hợp Seoul từ năm 1980 đến 1983. Cô tham gia nhiều cuộc thi thanh nhạc sau đó. Cô có buổi diễn đầu tiên với vai Susanna trong vở Đám cưới của Figaro của Mozart. Cuối năm 1983, cô rời Hàn Quốc đi học Accademia di Santa Cecilia ở Roma, Ý. Cô học 2 giảng viên là Carlo Bergonzi, Giannella Borelli. Sau đó, cô được giọng nữ cao kỳ cựu Elisabeth Schwarzkopf dẫn dắt tham gia nhiều cuộc thi, nhiều buổi đơn ca.
Năm 1986, Sumi Jo và giọng nữ trung Cecilia Bartoli được nhạc trưởng danh tiếng Herbert von Karajan hướng dẫn.
Sự nghiệp
Năm 1990, cô có buổi debut tại nhà hát opera Chicago với vai Gilda trong opera Rigoletto của Verdi. Sau đó, cô diễn vai Oscar trong vở Un ballo in maschera cùng với Placido Domingo tại Salzburg Festival năm 1987. Sau đó, cô diễn lại vai Gilda tại nhà hát Metropolitan trong gần 10 năm.
Năm 1990, cô diễn vai Nữ hoàng Đêm tối trong vở Cây sáo thần của Mozart. Buổi diễn thành công vang dội. Sau đó, cô diễn thêm vai Lucia trong vở Lucia di Lamemmoor của Donizetti. Thành công nối tiếp thành công, cô diễn nhiều vai trong những vở opera khác như Violetta (Trà hoa nữ, Verdi), Rượu tình (Donizetti), Dinorah (Meyerbeer).
Không chỉ bó hẹp trong dòng nhạc cổ điển, Sumi Jo còn biểu diễn nhiều bản nhạc Jazz, ballad như Besame mucho
Năm 2002 và 2008, Sumi Jo vinh dự được hát chào mừng World Cup 2002 tại Seoul và Thế vận hội Olympic Bắc Kinh 2008 với aria Sempre Libera trong vở Trà hoa nữ của Verdi.
Sự nghiệp ghi âm
Die Frau ohne Schatten
Un ballo in maschera
The Ninth Gate
Love Never Dies
Mildred Pierce
Chú thích
Sinh năm 1962
Người đoạt giải Grammy
Ca sĩ opera Hàn Quốc
Người Seoul
Nữ ca sĩ Hàn Quốc thế kỷ 21
Nhân vật còn sống
Tín hữu Công giáo Hàn Quốc |
958972 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Metalimnophila%20nigroapicata | Metalimnophila nigroapicata | Metalimnophila nigroapicata là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Australasia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Metalimnophila
Limoniidae ở vùng Australasia |
457806 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Arbot | Arbot | Arbot là một xã thuộc tỉnh Haute-Marne trong vùng Grand Est đông bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 293 mét trên mực nước biển.
Tham khảo
Xã của Haute-Marne |
905354 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Desmatus%20protensus | Desmatus protensus | Desmatus protensus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Dolin in Dolin, Panfilov, Ponomarenko & Pritykina miêu tả khoa học năm 1980.
Chú thích
Tham khảo
Desmatus |
526680 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Villeroy-sur-M%C3%A9holle | Villeroy-sur-Méholle | Villeroy-sur-Méholle là một xã thuộc the tỉnh Meuse trong vùng Grand Est đông bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 340 mét trên mực nước biển. Dân số theo điều tra năm 1999 của INSEE là 28 người.
Diện tích là 6,47 km2.
Tham khảo
Villeroysurmeholle |
960717 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Phyllolabis%20hirtiloba | Phyllolabis hirtiloba | Phyllolabis hirtiloba là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Tân bắc.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Phyllolabis
Limoniidae ở vùng Nearctic |
957748 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hexatoma%20tonkinensis | Hexatoma tonkinensis | Hexatoma tonkinensis là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Hexatoma
Limoniidae ở vùng Indomalaya
Côn trùng Việt Nam |
489662 | https://vi.wikipedia.org/wiki/658%20Asteria | 658 Asteria | 658 Asteria
658 Asteria là một tiểu hành tinh ở vành đai chính, thuộc nhóm tiểu hành tinh Koronis. Nó được August Kopff phát hiện ngày 23.01.1908 ở Heidelberg và được đặt theo tên Asteria, trong thần thoại Hy Lạp
Tham khảo
Liên kết ngoài
Orbital simulation from JPL (Java) / Ephemeris
Phát hiện Circumstances: Numbered Minor Planets
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1908 |
552486 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Glochidion%20sisparense | Glochidion sisparense | Glochidion sisparense là một loài cây gỗ thuộc họ Euphorbiaceae. Đây là loài đặc hữu của Sispara, Ấn Độ.
Chú thích
Tham khảo
World Conservation Monitoring Centre 1998. Glochidion sisparense. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 8 năm 2007.
Thực vật Ấn Độ
S |
487565 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Vandrimare | Vandrimare | Vandrimare là một xã thuộc tỉnh Eure trong vùng Normandie miền bắc nước Pháp.
Huy hiệu
Xem thêm
Xã của tỉnh Eure
Tham khảo
Xã của Eure |
625919 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Crambus%20lathoniellus | Crambus lathoniellus | Crambus lathoniellus là một loài bướm đêm thuộc họ Crambidae. Loài này có ở châu Âu, miền trung và South-Đông Á.
Sải cánh dài ca. 20 mm. Con trưởng thành bay từ tháng 5 đến tháng 9 tùy theo địa điểm.
Ấu trùng ăn nhiều loại cỏ.
Phụ loài
Crambus lathoniellus lathoniellus (Europe, Asia Minor, Transcaucasus to Trung Á to Amur)
Crambus lathoniellus alfacarellus (Spain)
Crambus lathoniellus altivolens (Yugoslavia)
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Crambus lathoniellus at UKmoths
Crambus |
342992 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chamilly | Chamilly | Chamilly là một xã ở tỉnh Saône-et-Loire trong vùng Bourgogne-Franche-Comté nước Pháp.
Thông tin nhân khẩu
Theo điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số 117.Con số ước tính năm 2005 là 114.
Xem thêm
Xã của tỉnh Saône-et-Loire
Tham khảo
INSEE
IGN
Xã của Saône-et-Loire |
771376 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chrysolytis%20deliarcha | Chrysolytis deliarcha | Chrysolytis deliarcha là một loài bướm đêm thuộc họ Lyonetiidae. Nó được tìm thấy ở Nam Phi.
Chú thích
Tham khảo
Lyonetiidae |
722532 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Favartia%20adenensis | Favartia adenensis | Favartia adenensis là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Muricidae, họ ốc gai.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
A
A |
922860 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Spermophagus%20altaicus | Spermophagus altaicus | Spermophagus altaicus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bruchidae. Loài này được Karapetyan miêu tả khoa học năm 1973.
Chú thích
Tham khảo
Spermophagus |
661245 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Spurius | Spurius | Spurius là một chi bọ cánh cứng trong họ Passalidae được tìm thấy ở Mesoamerica.
Chú thích
Tham khảo
Proculini |
781682 | https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20B%E1%BA%A1ch%20Mai | Dương Bạch Mai | Dương Bạch Mai (1904–1964) là một nhà hoạt động cách mạng dân tộc, nhà chính trị, ngoại giao Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II.
Thân thế
Ông sinh ngày 17 tháng 4 năm 1904, sinh ở Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa, trong một gia đình điền chủ giàu có. Ông có quan hệ họ hàng với tướng Nguyễn Văn Xuân, một trong những sĩ quan cao cấp người Việt trong chính quyền thuộc địa Pháp.
Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà. Sau đó ông lên Sài Gòn học trung học, và sang Pháp du học tại Đại học Paris (Université de Paris).
Hoạt động trong phong trào Cộng sản Quốc tế
Thời gian học ở Paris, khoảng năm 1927, ông tham gia An Nam Độc lập Đảng, một đảng dân tộc theo khuynh hướng xã hội, do một số nhà yêu nước Việt Nam sáng lập tại Pháp. Bấy giờ, đảng An Nam Độc lập được Đảng Cộng sản Pháp giúp đỡ đào tạo cán bộ, nên một thời gian sau, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, cùng hoạt động với Nguyễn Văn Tạo.
Năm 1928, sau khi Tạ Thu Thâu thay Nguyễn Thế Truyền làm lãnh đạo đảng và đổi tên đảng thành Việt Nam Độc lập Đảng, nội bộ đảng bị phân hóa thành 2 nhóm Cộng sản Quốc tế và Dân tộc Cực hữu, từng dẫn đến một cuộc xô xát đổ máu tại khu học xá Latin (Quartier latin). Do vụ xô xát này, ông bị cảnh sát Paris bắt giam một thời gian ngắn.
Năm 1929, ông được Đảng Cộng sản Pháp cử sang Moskva liên lạc với Đảng Cộng sản Liên Xô, rồi vào học Trường Đại học Đông phương Stalin với bí danh Bourov, cùng khóa với Hà Huy Tập, Bùi Văn Thủ, Trần Ngọc Danh (em ruột Trần Phú),... Sau khi hoàn tất khóa học vào năm 1930, ông trở lại Pháp, làm công chức, sau đó sang làm ngân hàng, từng có thời gian làm nhân viên tập sự Quỹ Tiết kiệm ở Paris và tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp.
Về nước và hoạt động ở miền Nam
Năm 1932, ông về nước, sống công khai và hoạt động tại Sài Gòn. Thời gian này, ông cộng tác với các báo La Cloche fêlée, La Lutte, Mai, Dân quyền với Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,...
Năm 1936, Mặt trận bình dân (Pháp) lên nắm quyền. Tại Nam Kỳ, ông hoạt động trong '"Sổ Lao động", một liên danh chính trị của báo La lutte cùng với Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Tạo, ứng cử vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn nhân danh Mặt trận vô sản thống nhất và đắc cử. Cùng thời gian này, ông và các đồng viện cùng các tổ chức yêu nước khác tổ chức phong trào Đông Dương Đại hội nhằm vận động dân sinh và dân chủ.
Đến năm 1938, chính phủ Mặt trận Bình dân đổ. Chính quyền thuộc địa đàn áp các phong trào dân chủ tại Nam Kỳ. Ông và các đồng viện khác bị bắt đưa ra tòa, rồi bị cưỡng bức lưu trú ở Cần Thơ. Một thời gian sau, ông được trả tự do.
Năm 1939, nhân Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ban bố tình trạng chiến tranh, bắt ông và đày đi Côn Đảo với Bùi Văn Thủ, Nguyễn Văn Tạo, Lê Hồng Phong, Lê Duẩn, Nguyễn An Ninh,...
Năm 1940, Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra. Các nhà lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ khi đó đã từng dự tính nếu khởi nghĩa thành công sẽ đưa ông về làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời.
Đến năm 1943, ông mới được trả tự do, nhưng vẫn bị quản thúc tại Tân Uyên (Biên Hòa). Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông vẫn được chính quyền thực dân cho phép về thăm nhà ở Bà Rịa.
Bấy giờ, một Xứ ủy Nam Kỳ được thành lập với Trần Văn Giàu làm Bí thư, chủ trương tập hợp lực lượng để chuẩn bị làm cuộc cách mạng dân tộc khi có thời cơ. Do nhóm này có cơ quan ngôn luận là báo Tiền phong, nên còn được gọi là Xứ ủy Tiền Phong. Là một người trung thành với chủ thuyết Stalin, ông không ít lần biểu thị thái độ phản đối chủ trương của nhóm Tiền Phong, ủng hộ chủ trương đấu tranh giai cấp của nhóm các đảng viên bảo thủ, với cơ quan ngôn luận là báo Giải phóng, nên còn gọi là nhóm Giải Phóng. Vì vậy, ông nhiều lần từ chối hợp tác, thậm chí, đứng trên lập trường của nhóm Giải Phóng để công kích chủ trương của nhóm Tiền Phong.
Chính vì điều này, ông không được Bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu mời tham gia Hội nghị Chợ Đệm lần thứ nhất để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 vì lo ngại ông sẽ gây nhiều khó khăn trong việc lãnh đạo khởi nghĩa. Dù vậy, với uy tín và kinh nghiệm của mình, ông vẫn được Bí thư Trần Văn Giàu dự kiến mời tham gia chính quyền nếu khởi nghĩa thành công..
Hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai, ông đã được mời tham dự. Sau hội nghị này ông và Huỳnh Văn Hớn được phân công về Bà Rịa truyền đạt nghị quyết của Xứ ủy; chuẩn bị lực lượng giành chính quyền ở Bà Rịa. Chủ trương của nhóm Tiền Phong tỏ ra rất hợp thời và họ quả thực đã tập hợp được một lực lượng lớn để thực hiện thành công Cách mạng tháng 8 ở Nam Bộ.
Bấy giờ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyên bố giải tán. Trên thực tế, các đảng viên Cộng sản sinh hoạt với danh nghĩa các nhóm nghiên cứu Chủ nghĩa Marx. Ông sinh hoạt trong nhóm Văn hóa Marxism tại Sài Gòn, cùng với nhiều bạn Pháp – Việt như André Canac, Jean Chesneaux, giáo sư Sorbonne; bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Mai Văn Bộ,...
Sau khi Lâm ủy Hành chính Nam Bộ được thành lập, ông được bầu giữ chức Ủy viên trưởng Quốc gia tự vệ cuộc, phụ trách cảnh sát.. Bấy giờ, chính quyền non trẻ Việt Minh ở Nam Bộ thường xuyên gặp nhiều khó khăn trong việc giữ gìn ổn định bởi sự xung đột giữa những người thực dân cũ với các phần tử dân tộc quá khích. Nhiều lần, trên cương vị Ủy viên trưởng Quốc gia tự vệ cuộc, ông đã can thiệp với các chỉ huy quá khích để tha cho những người Pháp bị vô cớ đánh đập hoặc bắt giam.
Sau khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử làm Thanh tra Chính trị miền Đông trong Lâm ủy Hành chính Nam Bộ.
Đầu năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 4 tháng 3 năm 1946, ông được bầu làm Ủy viên chính thức của Ban Thường trực Quốc hội.
Sứ mệnh ngoại giao tại Pháp và những rắc rối
Tháng 4 năm 1946, ông là Thành viên của Phái đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt... Tại Hội nghị này, ông nổi tiếng là nhân vật có những ý kiến rất thẳng thừng tranh luận với các thành viên người Pháp.
Tháng 7 năm 1946, ông là thành viên trong phái đoàn Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Fonlainebleau, sau đó cùng ông Trần Ngọc Danh ở lại Pháp, đại diện cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đến khi Chính phủ cánh hữu Pháp nắm quyền, ngày 20 tháng 3 năm 1947 ông bị chính quyền chính quốc Pháp bắt giam, dù ông vẫn còn tư cách nhân viên ngoại giao của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tuy nhiên, do sự can thiệp của nhiều chính khách và bạn hữu Pháp, ông không bị giải về Sài Gòn xét xử ngay mà chỉ bị quản thúc ở Djibouti. Mãi đến tháng 10, ông mới bị giải về Sài Gòn. Người áp giải ông chính là ông André Canac, từng sinh hoạt trong nhóm Văn hóa Marxism tại Sài Gòn.
Sau khi về Sài Gòn, ông bị giam giữ trong khám Chí Hòa. Một Hiệp hội các bạn của Dương Bạch Mai được thành lập tại Sài Gòn, trong đó có rất nhiều người Pháp cánh tả, nhằm can thiệp trả tự do cho ông.
Cùng với áp lực từ bên Pháp, tháng 7 năm 1949, tòa án quân sự Pháp tại Sài Gòn buộc phải giảm án, chỉ tuyên án quản thúc ông tại Kontum.
Vị chính khách thầm lặng
Đầu tháng 9 năm 1949, Chi bộ tình báo Gia Lai Kon Tum được lệnh đưa ông đào thoát về Liên khu 5. Sau khi được tự do, ông được đưa ra Việt Bắc, tiếp tục giữ vai trò Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội, thành viên Ban Mặt trận của Trung ương Đảng.
Sau năm 1954, ông cùng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về Hà Nội. Ông tiếp tục công tác trong Quốc hội, giữ chức Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Xô, thành viên Hội hữu nghị Việt Pháp, Ủy viên Ban Việt kiều Trung ương. Năm 1960, ông là một trong 91 đại biểu Nam Bộ được lưu nhiệm đại biểu Quốc hội Việt Nam Khóa II, tiếp tục giữ chức Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ngày 4 tháng 4 năm 1964, ông bất ngờ đột tử ngay trong ngày họp cuối cùng của kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa II.
Đám tang của ông được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức rất lớn, có Chủ tịch Hồ Chí Minh tới viếng.
Nghi vấn cái chết
Theo nhà nghiên cứu Nguyên Hùng, ông là một người Cộng sản ôn hòa. Vốn xuất thân trong gia đình giàu có, đầy đủ, không quen với cuộc sống thiếu thốn ở chiến khu trong nhiều năm, sức khỏe lại suy yếu từ khi bị đày ra Côn Đảo, nên không thể gượng lại được.
Theo Vũ Thư Hiên, cái chết của ông có liên quan đến phát biểu tại Quốc hội, chống lại đường lối xây dựng xã hội trại lính kiểu Mao Trạch Đông, đòi Đảng phải cải thiện đời sống cho dân chúng, đòi thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng, trong xã hội, và hàng loạt vấn đề khác.
Tên của ông được đặt cho được đặt cho một trường Trung hoc phổ thông ở xã Phước Hội – huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Chú thích
Liên kết ngoài
Người Sài Gòn
Nhà ngoại giao Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II
Người Bà Rịa – Vũng Tàu |
586020 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Trachselwald | Trachselwald | Trachselwald là một đô thị thuộc huyện Emmental, bang Bern, Thụy Sĩ. Đô thị này có diện tích 15,96 km², dân số thời điểm tháng 12 năm 2020 là 954 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
[Trang mạng chính thức]
Đô thị của bang Bern |
287293 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Saint-Maurice-de-R%C3%A9mens | Saint-Maurice-de-Rémens | Saint-Maurice-de-Rémens là một xã ở tỉnh Ain, vùng Auvergne-Rhône-Alpes thuộc miền đông nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Ain
Tham khảo
Saintmauricederemens |
320138 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Midrevaux | Midrevaux | Midrevaux là một xã, nằm ở tỉnh Vosges trong vùng Grand Est của Pháp. Xã này có diện tích 14,29 km², dân số năm 1999 là 213 người. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 307 m trên mực nước biển.
Dân địa phương tiếng Pháp gọi là Midrevalliens.
Biến động dân số
Tham khảo
Liên kết ngoài
Midrevaux trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia
Midrevaux sur le quid
Xã của Vosges |
882756 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Osmia%20melanota | Osmia melanota | Osmia melanota là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Morawitz mô tả khoa học năm 1888.
Chú thích
Tham khảo
Osmia
Động vật được mô tả năm 1888 |
907536 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lanelater%20nicoleae | Lanelater nicoleae | Lanelater nicoleae là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Wappler miêu tả khoa học năm 2003.
Chú thích
Tham khảo
Lanelater |
889520 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Dinagapostemon%20gigas | Dinagapostemon gigas | Dinagapostemon gigas là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Friese mô tả khoa học năm 1911.
Chú thích
Tham khảo
Dinagapostemon
Động vật được mô tả năm 1911 |
400725 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Stephansposching | Stephansposching | Stephansposching là một đô thị ở huyện Deggendorf bang Bayern nước Đức. Đô thị Stephansposching có diện tích km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là người.
Tham khảo |
686964 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bulbophyllum%20limbatum | Bulbophyllum limbatum | Bulbophyllum limbatum là một loài phong lan thuộc chi Bulbophyllum.
Chú thích
Tham khảo
The Bulbophyllum-Checklist
The internet Orchid species Photo Encyclopedia
limbatum]]
L |
820766 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Moloch%20%28phim%29 | Moloch (phim) | Moloch (tiếng Nga: Молох) là phần đầu trong loạt phim về các nhà độc tài thế kỷ XX của đạo diễn Aleksandr Sokurov, ra mắt lần đầu năm 1999.
Nội dung
Diễn viên
Leonid Mozgovoy... Adolf Hitler
Yelena Rufanova... Eva Braun
Vladimir Bogdanov... Martin Bormann
Leonid Sokol... Joseph Goebbels
Yelena Spiridonova... Magda Goebbels
Anatoly Shvedersky... mục sư
Ê-kíp
Sự kiện thú vị
Vinh danh
Chú thích
Adolf Hitler
Phim do Aleksandr Sokurov đạo diễn
Phim của Goskino
Phim của Lenfilm
Phim năm 1999
Phim tiếng Đức
Phim Nga
Phim châm biếm
Phim lấy bối cảnh năm 1942 |
880245 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Heriades%20phthisicus | Heriades phthisicus | Heriades phthisicus là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Gerstäcker mô tả khoa học năm 1857.
Chú thích
Tham khảo
Heriades
Động vật được mô tả năm 1857 |
773894 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Termiticola%20rubescens | Termiticola rubescens | Termiticola là một chi nấm trong họ Agaricaceae. Đây là chi đơn loài, chứa một loài Termiticola rubescens.
Chú thích
Tham khảo
Termiticola at Index Fungorum
R |
909530 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Neocalais%20macer | Neocalais macer | Neocalais macer là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1878.
Chú thích
Tham khảo
Neocalais |
708286 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Palmadusta%20asellus | Palmadusta asellus | Palmadusta asellus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cypraeidae, họ ốc sứ.
Có một phân loài: Palmadusta asellus asellus (Linnaeus)
Miêu tả
Phân bố
Chúng phân bố ở biển dọc theo Aldabra, Chagos, Comoros, Kenya, Madagascar, Mauritius, Mozambique, Biển Đỏ, Réunion, Seychelles và Tanzania.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Verdcourt, B. (1954). The cowries of the East African Coast (Kenya, Tanganyika, Zanzibar and Pemba). Journal of the East Africa Natural History Society 22(4) 96: 129-144, 17 pls
Liên kết ngoài
Động vật được mô tả năm 1758
Palmadusta |
919408 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Diabrotica%20speciosissima | Diabrotica speciosissima | Diabrotica speciosissima là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Baly miêu tả khoa học năm 1879.
Chú thích
Tham khảo
S |
810442 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Beckenham | Beckenham | Beckenham là một thành thị nằm trong Khu Bromley của Luân Đôn, Anh. Beckenham nằm cách 8,4 dặm (13,5 km) về phía đông nam Charing Cross và 1,75 dặm (2,8 km) về phía tây thị trấn Bromley. Cho đến khi đường sắt xuất hiện năm 1857, Beckenham là một ngôi làng nhỏ mà xung quanh gần như hoàn toàn là nông thôn. Từ khi một gia đình các doanh nhân bắt đầu xây dựng biệt thự ở đây, dân số tăng vọt từ 2000 đến 26.000 trong thời gian từ 1850-1900 và trong suốt phần còn lại của thế kỷ. Dân số hiện nay là gần 82.000.
Tham khảo
Liên kết ngoài |
846389 | https://vi.wikipedia.org/wiki/7776%20Takeishi | 7776 Takeishi | 7776 Takeishi (1993 BF) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 20 tháng 1 năm 1993 bởi T. Urata ở Oohira.
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 7776 Takeishi
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1993 |
255570 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20B%E1%BA%A1ch%20Kim%20Tinh | Thái Bạch Kim Tinh | Xem thêm: Cửu Diệu tinh quân
Thái Bạch Kim Tinh (chữ Hán: 太白金星) là tên một vị thần trong thần thoại Trung Quốc và thần thoại Việt Nam.
Lịch sử
Vị thần này theo truyền thuyết có họ Lý, hình dáng là một ông già râu bạc áo trắng, là Tinh chủ của Sao Kim (Kim Tinh), ngôi sao sáng nhất vào chập tối và buổi sáng, vì thế gọi là Lý Thái Bạch. Trong văn hóa phương Tây, thần Vệ nữ là biểu tượng của Sao Kim (Venus).
Chính vì thấy Sao Kim xuất hiện đầu tiên của buổi đêm và ban ngày, nên Thái Bạch Kim Tinh được cho là sứ giả của Thiên đình, và gọi là Lý Trường Canh.
Trong phim Tây du ký, Thái Bạch Kim Tinh được Ngọc Hoàng Thượng đế phái xuống gặp Tề Thiên Đại Thánh ở Hoa Quả Sơn để mời lên Thiên đình. Ông được thể hiện như một ông già hiền lành và bị lũ khỉ quấy phá.
Văn hóa
Thái Bạch Kim Tinh là người ôn hòa nhưng có sức mạnh ghê gớm, tượng trưng cho mệnh kim.
Tham khảo
Nhân vật Tây du ký
Thần tiên Trung Hoa
Thiên văn học Trung Quốc |
952672 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Austrolimnophila%20microsticta | Austrolimnophila microsticta | Austrolimnophila microsticta là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Austrolimnophila
Limoniidae ở vùng Neotropic |
448871 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sam%20Worthington | Sam Worthington | Samuel Henry J. "Sam" Worthington (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1976) là một diễn viên người Úc. Anh được biết đến với vai Jake Sully trong Avatar (2009) và phần tiếp theo sắp tới Avatar 2 (2022), Marcus Wright trong Terminator Salvation, và Perseus trong Clash of the Titans và phần tiếp theo của nó là Wrath of the Titans. Sau đó, anh chuyển sang các vai diễn kịch tính hơn, xuất hiện trong The Debt (2010), Everest (2015), Hacksaw Ridge (2016), The Shack (2017), Manhunt: Unabomber (2017) và Fractured (2019). Trên truyền hình, anh ấy xuất hiện ở quê hương Úc của mình với vai Howard trong Love My Way và với vai diễn Phillip Schuler trong mini-series phim truyền hình Deadline Gallipoli, mà anh cũng là nhà sản xuất điều hành. Anh cũng lồng tiếng cho nhân vật chính, Đại úy Alex Mason, trong các trò chơi điện tử Call of Duty: Black Ops (2010), Call of Duty: Black Ops II (2012) và Call of Duty: Black Ops 4 (2018).
Năm 2004, Worthington nhận được giải thưởng điện ảnh cao quý nhất của Úc với vai chính trong Somersault.
Thời thơ ấu
Worthington sinh ra ở Godalming, Surrey, Anh nhưng sau đó chuyển đến và sống ở Perth, Western Australia suốt thời thơ ấu. Anh lớn lên ở Warnbro, một vùng ngoại ô Rockingham, Western Australia. Cha anh, Ronald, là một nhân viên làm việc trong một nhà máy năng lượng trong khi mẹ anh, một người nội trợ, chăm sóc anh và em gái. Anh vào trường Nghệ thuật John Curtin nhưng sau đó lại nghỉ học vào năm 17 tuổi và làm công việc xây dựng cũng như những công việc kỳ quặc chỉ có ở Sydney. Vào năm Worthington 19 tuổi, trong khi đang làm công việc xây dựng, anh tham gia một buổi thử vai của Học viện Kịch Nghệ Quốc gia (NIDA) và nhận được học bổng vào đây.
Sự nghiệp
Sau khi tốt nghiệp NIDA năm 1988, Worthington tham gia vở kịch The Judas Kiss của tác giả David Hare cho nhà hát Company B tại nhà hát Thánh Belvoir.
2000–03
Năm 2000, Worthington khởi nghiệp với bộ phim của Australia Bootmen. Anh gây chú ý với vai diễn chính Mitchell Okden. Worthington được đề cử cho hạng mục nam diễn viên chính xuất sắc cho giải thưởng của Viện điện ảnh Australia Australian Film Institute (AFI) nhờ vào diễn xuất của anh. Cũng trong năm đó, anh là khách mời trong các phim truyền hình: JAG, Water Rats và Blue Heelers.
Worthington tiếp tục đóng trong nhiều phim điện ảnh và truyền hình cũng Úc bao gồm các vai diễn chính trong Dirty Deeds (2002) và Gettin' Square (2003). Anh cũng xuất hiện trong phim Hart's War (2002). Dirty Deeds là một phim thành công về mặt thương mại lẫn được giới phê bình đánh giá cao, bộ phim thu về khoảng 5,034,142 đô la Úc tại bảng xếp hạng phim ăn khách tại Australia.
2004–08
Worthington đóng các vai chính trong phim Somersault (2004) và trong một bộ phim làm lại theo hướng hiện đại của Úc Macbeth (2006). Worthington đã nhận được giải thưởng AFI Award danh hiệu Nam diễn viên xuất sắc cho vai diễn trong phim Somersault. Anh cũng rất nổi tiếng tại Úc với vai Howard trong bộ phim truyền hình của Australia Love My Way, trong phim anh đóng vai người tình của nữ nhân vật chính.
Sự nghiệp điện ảnh quốc tế của Worthington bắt đầu với một loạt các vai diễn nhỏ trong các bộ phim Hollywood bao gồm: The Great Raid (2005), được quay tại Australia. Anh cũng thử vai cho vai diễn James Bond trong phim Casino Royale nhưng đã để mất vai diễn vào tay diễn viên Daniel Craig.
2009–đến nay
Trong phim Terminator Salvation, Worthington đóng vai nửa người nửa robot Marcus Wright. Trong thời gian bộ phim Terminator Salvation được phát hành, bộ phim khoa học viễn tưởng Avatar của đạo diễn James Cameron là dự án tiếp theo của Worthington. Trong phim, anh đóng vai Jake Sully, một lính thủy bộ bị liệt cả hai chân của Mỹ, có nhiệm vụ kiểm soát một cơ thể xa lạ gọi là avatar thông qua sự kết nối của bộ não, và nhận ra bản thân mình đang đứng giữa cuộc chiến giữa loài người và chủng tộc người Na'vi trên hành tinh Pandora. Bộ phim khi phát hành đã trở thành bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại với tổng số danh thu trên toàn thế giới là 2.730 tỷ đô la Mỹ. Anh cũng đã ký hợp đồng cho 2 phần tiếp theo của Avatar.
Anh cũng được chọn như một trong những người dự thi cuộc thi Who's Who in Australia ấn bản năm 2011.
Đời tư
Worthington từng kể rằng khi anh khoảng 30 tuổi, anh đã bán hầu hết tài sản của mình được khoảng 2000 đô la. Anh đã mua một chiếc xe hơi và sống trong đó trước khi anh thành công trong cuộc thử vai cho vai diễn trong phim Avatar. Sau đó, anh tìm ra một nơi để sống. Anh từng hiện hò với Natalie Mark, một nhà thiết kế thời trang trong 3 năm.
Tuy nhiên, đầu năm 2011, hai người đã chia tay nhau.
Danh sách phim
Điện ảnh
Truyền hình
Trò chơi điện tử
Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1976
Nhân vật còn sống
Người Úc gốc Anh
Diễn viên điện ảnh Úc |
867190 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Argia%20croceipennis | Argia croceipennis | Argia croceipennis là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae.
Loài này được xếp vào nhóm Loài ít quan tâm trong sách Đỏ của IUCN năm 2007.
Argia croceipennis is in 1865 voor het eerst wetenschappelijk beschreven door Selys.
Chú thích
Tham khảo
Argia |
528927 | https://vi.wikipedia.org/wiki/1761 | 1761 | Năm 1761 (số La Mã: MDCCLXI) là một năm thường bắt đầu vào thứ năm trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ hai của lịch Julius chậm hơn 11 ngày).
Sự kiện
Sinh
Mất
Tham khảo
Năm 1761 |
550068 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Morinda%20trimera | Morinda trimera | Noni kuahiwi (Morinda trimera) là một loài thực vật có hoa thuộc họ coffee, Rubiaceae, là loài đặc hữu của Hawaii.
Chú thích
Tham khảo
World Conservation Monitoring Centre 1998. Morinda trimera. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 8 năm 2007
Cây Hawaii
Thực vật đặc hữu Hawaii
Chi Nhàu |
146478 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3%20nang | Quả nang | Trong thực vật học, quả nang là một loại quả đơn khô, sinh ra ở nhiều loài thực vật có hoa. Quả nang nói chung là một cấu trúc có thể nứt ra được, bao gồm hai hay nhiều lá noãn, khi chín sẽ nứt ra (mở ra) để giải phóng các hạt trong đó. Sách Sinh học lớp 6 gọi loại quả này là quả khô nẻ. Theo phân loại trong sách này, quả khô nẻ (tức quả nang) cùng với quả khô không nẻ (tức quả kiên) hợp thành loại quả khô. Quả nang trong tiếng Anh là capsule.
Có 4-7 kiểu mở ra của quả nang, tùy theo cách thức tiếp cận. Chúng lần lượt là mở vách, mở ngăn, mở lỗ, mở nắp, mở răng, mở hủy vách và mở hủy thực giá noãn. Các lá noãn tách rời của quả nang thật sự lúc ban đầu hợp nhất cùng nhau để tạo ra nhụy hoa hay bộ nhụy.
Ở một số dạng quả nang, đường mở ra theo kiểu mở vách, nghĩa là mở dọc theo vách ngăn các lá noãn, như ở chi Yucca, Digitalis.
Trong kiểu thứ hai (mở ngăn), đường mở dọc theo các ngăn lá noãn, như ở các loài diên vĩ (Iris spp.) hay uất kim hương (Tulipa spp.).
Trong kiểu thứ ba (mở lỗ) thì các hạt được giải phóng qua các lỗ hổng hay khe hở tạo thành ở đầu quả nang. Các loài anh túc trong chi Papaver, như P. somniferum, mở ra theo các lỗ nhỏ gần đỉnh đầu của quả nang. Khi quả nang đung đưa trong gió thì các hạt được giải phóng như người ta rắc tiêu từ lọ gia vị.
Ở loài dẻ Brasil (Bertholletia excelsa) hay một số loài rau sam (Portulaca spp.), một nắp trên quả nang mở ra. Kiểu mở này là mở nắp. Quả như thế còn gọi là quả hộp.
Trong kiểu mở răng, quả mở ra tại đỉnh lá noãn và tạo thành một chỏm lởm khởm răng cưa ở phần đỉnh của quả.
Mở hủy vách, nghĩa là mở theo vách ngăn trong các mặt phẳng song song với trục trung tâm của quả, nhưng các bộ phận bên trong vẫn gắn với trụ của trục này, như ở Cedrela tubiflora.
Mở hủy thực giá noãn, nghĩa là mở theo hai đường nứt song song gần thực giá noãn.
Cần lưu ý rằng một số loại quả nang không mở ra. Các lá noãn của chúng không tách rời và giải phóng hạt. Hai ví dụ về loại quả nang không mở ra là cây bao báp (Adansonia digitata) và 2 loài dành dành ở Nam Phi (Gardenia thunbergii và G. volkensii). Các quả nang của hai loài dành dành này bị động vật ăn và hạt được phát tán thông qua phân của chúng.
Ví dụ về các loài tạo quả nang là anh túc, loa kèn, lan, liễu và bông.
Nhầm lẫn với quả kiên
Quả nang đôi khi bị nhận nhầm là quả kiên, như trong ví dụ về dẻ Brasil hay kẹn (Aesculus spp.). Quả nang không phải là quả kiên do nó giải phóng các hạt và các mảnh vỡ thành từng mảnh ra ngoài. Ngược lại, quả kiên không giải phóng các hạt do nó là bầu nhụy phức chứa cả quả lẫn một hạt của nó. Quả kiên cũng không nứt ra.
Xem thêm
Quả hạch (định hướng)
Quả cánh
Quả giả
Quả hạch
Quả bế
Quả thóc
Quả đậu
Tham khảo
Liên kết ngoài
CẤU TẠO HÌNH THÁI QUẢ Ở THỰC VẬT
Nang, quả
Quả |
897236 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypotrigona%20gribodoi | Hypotrigona gribodoi | Hypotrigona gribodoi là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Magretti mô tả khoa học năm 1884.
Chú thích
Tham khảo
Hypotrigona
Động vật được mô tả năm 1884 |
872970 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Triaenodes%20siculus | Triaenodes siculus | Triaenodes siculus là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.
Chú thích
Tham khảo
Trichoptera ở vùng nhiệt đới châu Phi
Triaenodes |
664056 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Labeo%20mesops | Labeo mesops | The Tana Labeo (Labeo mesops) là một loài cá vây tia trong họ Cyprinidae.
Nó chỉ được tìm thấy ở Malawi.
Các môi trường sống tự nhiên của chúng là sông và hồ nước ngọt.
Nó bị đe dọa do mất môi trường sống.
Tham khảo
Kazembe, J., Magombo, Z., Khawa, D. & Kaunda, E. 2005. Labeo mesops. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2007.
Labeo |
294480 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tizi%20Ouzou%20%28t%E1%BB%89nh%29 | Tizi Ouzou (tỉnh) | Tizi Ouzou (tiếng Kabyle: Tizi Wezzu) là một tỉnh ở Algérie, được đặt tên theo tỉnh lỵ.
Các đơn vị hành chính
Tỉnh này gồm 21 huyện và 67 đô thị. Các huyện là:
Ouafic
Aïn El Hammam
Azazga
Boghni
Draâ El Mizan
Ouaguenoun
Larbaâ Nath Irathen
Azzefoun
Tigzirt
Bouzeguène
Béni Douala
Ouadhia
Maâtka
Béni Yenni
Mekla
Iferhounène
Tizi Rached
Tizi Gheni
Makouda
Đô thị cấp huyện: Tizi Ouzou
Tham khảo
Tỉnh của Algérie
Kabylie |
915218 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Basilepta%20semirufum | Basilepta semirufum | Basilepta semirufum là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Pic mô tả khoa học năm 1930.
Chú thích
Tham khảo
Basilepta |
687673 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bulbophyllum%20schmidtianum | Bulbophyllum schmidtianum | Bulbophyllum schmidtianum là một loài phong lan thuộc chi Bulbophyllum.
Chú thích
Tham khảo
The Bulbophyllum-Checklist
The internet Orchid species Photo Encyclopedia
schmidtianum]]
S |
551537 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Horsfieldia%20talaudensis | Horsfieldia talaudensis | Horsfieldia talaudensis là một loài thực vật thuộc họ Myristicaceae. Đây là loài đặc hữu của Indonesia.
Chú thích
Tham khảo
World Conservation Monitoring Centre 1998. Horsfieldia talaudensis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng 8 năm 2007.
talaudensis
Thực vật đặc hữu Indonesia
Thực vật dễ tổn thương
Thực vật đặc hữu Sulawesi |
649775 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Paratolna | Paratolna | Paratolna là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae.
Chú thích
Tham khảo
Natural History Museum Lepidoptera genus database
Catocalinae |
576786 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Espronceda | Espronceda | Espronceda là một đô thị trong tỉnh và cộng đồng tự trị Navarre, Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là ki-lô-mét vuông, dân số năm 2007 là người với mật độ người/km²
Tham khảo
Đô thị ở Navarre |
719924 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Splendrillia%20lissotropis | Splendrillia lissotropis | Splendrillia lissotropis là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Drilliidae.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Splendrillia |
971952 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hyphydrus%20trophis | Hyphydrus trophis | Hyphydrus trophis là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ nước. Loài này được Guignot miêu tả khoa học năm 1955.
Chú thích
Tham khảo
Bọ nước
Hyphydrus |
586193 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Zwolle | Zwolle | là một đô thị thủ phủ tỉnh Overijssel phía đông Hà Lan. Zwolle có cự ly 120 về phía đông bắc thành phố Amsterdam. Zwolle có dân số khoảng 120.000 người.
Phát hiện khảo cổ cho thấy các khu vực xung quanh Zwolle đã có người sinh sống từ lâu. Một woodhenge đã được tìm thấy ở ngoại ô-Zuid Zwolle vào năm 1993 có niên đại thời kỳ đồ đồng. Trong thời kỳ La Mã, khu vực này là nơi sinh sống của Franks Salian.
Thành phố hiện nay đã được thành lập khoảng 800 bởi các thương gia Frisia và quân đội của Charlemagne. Tên Zwolle có nguồn gốc từ chữ Suolle, có nghĩa là "ngọn đồi". Điều này đề cập đến dốc nghiêng của phong cảnh giữa bốn con sông xung quanh thành phố, IJssel, Vecht, Aa và Zwarte Water. Các ngọn đồi là mảnh đất duy nhất khô ráo trong các đợt ngập lụt thường xuyên của các con sông. Zwolle được xây dựng trên sườn nghiêng của ngọn đồi.
Tham khảo
Đô thị Overijssel
Thành phố của Hà Lan
Liên minh Hanse
Salland |
564099 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Fresnay-le-Long | Fresnay-le-Long | Fresnay-le-Long là một xã thuộc tỉnh Seine-Maritime trong vùng Normandie miền bắc nước Pháp.
Dân số
Xem thêm
Xã của tỉnh Seine-Maritime
Seine-Maritime
Normandy
Tham khảo
INSEE
Liên kết ngoài
Fresnay-le-Long on the Quid website
Xã của Seine-Maritime |